Sau Ngày 30 Tháng Tư
Từ miền Trung, cha mẹ dắt anh em chúng tôi chạy giặc ra tới đảo Phú Quốc, rồi lại vào Cần Thơ, tạm trú trong một trường tiểu học gần cầu Đầu Sấu. Người tị nạn thấy ấm lòng khi có nhiều đoàn thể của chính phủ đến thăm hỏi, an ủi, cho thức ăn, áo quần, vật dụng, hội Hồng Thập Tự khám bệnh, đoàn Hướng Đạo cắt tóc cho mọi người.
Mấy tuần sau, nghe tin Việt cộng đã “Giải phóng” thành phố tối qua mà không cần đánh nhau gì hết. Mờ sáng, mọi người thấy những hàng quân Bắc Việt đội nón cối, lưng ba lô đầy lá ngụy trang, chân mang dép râu lấm bùn đất, lặng lẽ như những chiếc bóng hành quân trên đường trước trường học. Mọi người bấn loạn, hoảng sợ, nhiều người tị nạn trong trường than thở:
- Đã chạy từ ngoài Trung vô tới đây mà cũng lại gặp Việt cộng.
Một người khác oán trách:
- Tôi chạy trốn từ ngoài Bắc, năm 54 vào tới miền Nam mà cũng không thoát được Cộng sản.
Những ngày tiếp theo, không còn thấy hội đoàn nào đến viếng thăm nữa, không ai còn đồ ăn, chính quyền “Cách mạng” cũng chẳng đếm xỉa gì, dường như họ không thấy hàng trăm người tị nạn trong trường học.
Lần lượt mọi người tự động bỏ đi, người đi lên Sài Gòn, người về quê, trong trường học rộng mênh mông chỉ còn lại mỗi gia đình chúng tôi. Cả nhà không biết phải làm gì, tiền thì không có và cũng không biết đi đâu vì trước đây nhà gia đình chúng tôi ở trong trại lính. Tối đến gió lồng lộng, cả nhà bụng đói, ôm nhau ngủ trong lớp học hiu quạnh. Chờ thêm mấy ngày nữa mà vẫn không thấy ai đến, gia đình chúng tôi xách các túi áo quần đi bộ ra bến xe, tìm xe xin quá giang về Sài Gòn. Xin rất nhiều xe khách, nhưng không xe nào cho quá giang, cuối cùng có một xe tải chở hàng cho lên ngồi cùng hàng hoá về Sài Gòn.
Đến Sài Gòn, nhưng không biết ở đâu, đi lang thang khắp nơi, cuối cùng gia đình chúng tôi tìm được một căn nhà sát hàng rào phi trường Tân Sơn Nhất, trong khu gia binh Truyền Tin, của một sĩ quan đã bỏ ra nước ngoài. Đói quá, cha ra sau vườn đào rễ chuối lên nấu cho các con ăn. Ăn rễ chuối mấy ngày thì ăn không nổi nữa, anh em chúng tôi phải đi xin ăn.
Uỷ ban Quân quản Thành phố qua đài phát thanh đưa ra nhiều điều lệnh, thông báo nghe rôm rả, “Nhân dân miền Nam ta anh dũng, nổi dậy, tổng tiến công đánh tan Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước, hại dân và đã dành thắng lợi vẻ vang”. “Để xây dựng trật tự của chánh quyền cách mạng, củng cố, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bà con phải tuân theo các lệnh của Uỷ ban Quân quản Thành phố, của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam”. “Thành phố ta được vinh dự mang tên Hồ Chí Minh vĩ đại, được làm ăn sinh sống tự do, không còn bị kìm kẹp, tàn ác như chế độ Mỹ ngụy”.
Vài ngày sau, trên đường phố thỉnh thoảng có những vụ xử bắn làm gương. Những người bị xử bắn, bị bịt mắt, hai tay trói quặt ra sau, đứng trên một thùng phuy. Bộ đội đọc vội bản án cướp bóc hay phản động, xong dùng súng AK-47 bắn vào nạn nhân. Xác nạn nhân văng xuống đất giãy đành đạch, máu tuôn có vòi, như con thú bị giết dã man trước mắt mọi người, già trẻ lớn bé.
Báo chí trong thành phố đua nhau đăng tin ca ngợi “Sự khoan hồng của Nhà nước và khuyến khích các sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hoà mạnh dạn đi học tập, cải tạo mười ngày”. Cha tôi tin vào “Sự khoan hồng của nhà nước” khăn gói đi “Học tập cải tạo” biệt tích.
Bơ vơ giữa Sài Gòn xa lạ, tiền không có, các gốc chuối sau vườn cũng đã đào lên ăn hết, mẹ tôi lo lắng gầy hẳn đi. Tối nào mấy mẹ con chúng tôi cũng ôm nhau khóc sướt mướt.
Sau “Giải phóng”, vì đói nên mọi người đổ ra đường dọ dẫm làm ăn, buôn bán, chợ trời mọc lên khắp nơi. Chợ trời có đủ các thành phần xã hội, người đàng hoàng, người trí thức, kẻ lường gạt, dân ma cô, tất cả mọi người đều ra lăn lộn ở chợ trời kiếm ăn. Nhiều người vì đói quá nên đem đồ đạc trong nhà ra bán, người không có gì bán thì ra mua đi bán lại. Chợ trời bày dọc theo hai bên lề đường, người mua kẻ bán tấp nập, họ bán đủ mọi thứ, áo quần, bàn ghế, nồi niêu, chén bát, không thiếu thứ gì, nhưng được nhiều người tìm mua nhất ở chợ trời là Đạp, Đổng, Đài (xe đạp, đồng hồ, radio), vì bộ đội và nhiều người miền Bắc vào mua.
Đang lúc mua bán, khi có tiếng la lên từ đầu đường, “Công an” thì mọi người náo loạn gom ôm đồ đạc, hàng hoá bỏ chạy, nếu bị bắt thì coi như mất hết. Họ chạy xuống cuối đường, công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt cuối đường, thì mọi người lại chạy lên đầu đường. Loa từ xe công an phát ra kêu gọi: “Cán bộ, công nhân viên chức, nhân dân không được tụ tập mua bán đồ cũ, vì sẽ tạo nên hang ổ cho bọn lưu manh, trộm cướp, bọn đầu cơ, bọn bán hàng giả, hàng ăn cắp của nhà nước. Tiêu thụ hàng ăn cắp là phạm pháp. Bà con nên tránh xa những nơi tụ tập của những kẻ làm ăn bất chính, phá rối trật tự trị an, làm hại đến đời sống của nhân dân lao động”.
Dù đã ra nhiều thông cáo răn đe, dù bắt bớ, tịch thu khá nhiều hàng hoá của người dân Sài Gòn, nhưng người dân vẫn đổ ra đường buôn bán càng đông hơn. Chính quyền không làm sao dẹp nổi chợ trời, nên họ đem xe vòi rồng xịt nước đến đuổi phá chợ trời. Xe vòi rồng đi rồi, thì chợ trời lại nhóm đông như cũ. Chính quyền “cách mạng” bèn hút nước cống hôi thối đến xịt, dân chợ trời đã chuẩn bị trước, liền đưa cờ “Giải phóng”, hình ông Hồ “Vĩ đại kính yêu” lên che đỡ, vừa che vừa la lớn: “Bác cứu con. Bác cứu con”. Công an và quản lý thị trường không ngờ, trở tay không kịp nên xịt bao nhiêu nước cống đen ngòm hôi thối lên cờ “Giải phóng” và cả hình ông Hồ. Cuối cùng vì không dẹp được chợ trời, nên chính quyền đành làm lơ cho mọi người buôn bán kiếm miếng ăn.
Một hôm, có đoàn bộ đội dắt theo hai con chó đến nhà mấy mẹ con đang ở. Thủ trưởng bộ đội nói:
- Nhà này của ngụy quyền bỏ chạy theo chân đế quốc Mỹ, nay nhà nước tịch thu. Mấy mẹ con chị phải dọn ra gấp.
Mẹ tôi chấp tay nói:
- Thưa bộ đội, mẹ con tôi từ ngoài Trung vô, không có nhà nên không biết đi đâu...”.
Gã bộ đội ngắt lời:
- Thì về lại ngoài Trung.
Nước mắt lưng tròng, mẹ tôi nói:
- Dạ, tôi cũng không có nhà ngoài Trung.
Hai con chó chạy tới gần anh em chúng tôi, gầm gừ làm mấy đứa em tôi sợ khóc thét lên. Gã bộ đội gọi hai con chó:
- Thiệu, Kỳ đến đây.
Hai con chó tên Thiệu, Kỳ liền cụp đuôi, chạy tới nằm dưới chân gã. Gã lấy lương khô Trung Quốc cho hai con chó ăn, rồi nhìn mấy mẹ con tôi, gã nói:
- Mẹ con chị đi đâu thì đi tôi không cần biết.
Mẹ tôi năn nỉ:
- Xin bộ đội cho mẹ con tôi ở sau nhà bếp cũng được, tôi không biết phải dắt con đi đâu bây giờ.
Gã bộ đội quát lớn làm mấy con chó láo liên, sợ hãi:
- Không được. Sao chị lì lợm thế.
Quay sang mấy bộ đội trẻ đang đứng trước cửa nhà, gã nói:
- Vào dọn hết đồ đạc của chị ta ra khỏi nhà ngay.
Một số bộ đội vào lấy đồ đạc của mấy mẹ con ném ra đường, một số khác thì dọn đồ của bộ đội vào. Mẹ con bồng bế nhau, xách vác áo quần, nồi nêu đi lang thang trong xóm gia binh, may gặp một nhà nhỏ bỏ hoang, mẹ con vào ở tạm.
Vào một buổi sáng, các loa truyền thanh treo khắp nơi bất ngờ thông báo lệnh đổi tiền, “Để kết thúc đồng tiền Sài Gòn tội lỗi, đồng tiền nhơ nhớp, nhục nhã nay nhà nước ban lệnh đổi tiền. Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa một trăm ngàn đồng tiền Sài Gòn. Giá năm trăm đồng tiền miền Nam đổi một đồng tiền giải phóng”.
Mẹ tôi không có tiền để đổi nên có người nhờ đổi giùm, họ cho lại một phần, mấy mẹ con mừng lắm. Sau ngày đổi tiền, nhiều người giàu bị nhà nước đánh lén trở thành nghèo, họ ném tiền không đổi được ra đường. Thấy nhiều tờ giấy bạc bay khắp nơi, các em nhỏ của tôi mừng rỡ lượm về đưa cho mẹ mua gạo. Mẹ phải nói cho các em biết tiền này không còn xài được, như tờ giấy thôi. Các em tôi tiếc rẻ ném tất cả tiền lượm được vào thùng rác.
Sau đổi tiền, cuộc sống của mọi người càng bi thảm hơn, đói rách, còn thêm ghẻ lở. Người thành phố thường gọi là “Ghẻ bộ đội, ghẻ Trường Sơn”, ghẻ từng chòm nổi khắp người, nhất là ở những kẽ ngón tay, ngón chân, và những chỗ kín trong thân thể. Đi đâu cũng thấy mọi người đưa tay gãi sột soạt, họ thường nói đùa, “Tiếng đàn Ta Lư”. Mẹ tôi lo lắng không biết làm cách nào kiếm được miếng ăn cho các con, nhìn các con bụng đói ôm nhau nằm ngủ, ghẻ chốc đầy mình, khiến nước mắt mẹ cứ ứa ra.
Những ngày gần đây, ông tổ trưởng dân phố cùng vài cán bộ, ngày nào cũng tới vận động, cưỡng bức mẹ con chúng tôi đi vùng kinh tế mới. Không thể chống lại lệnh của chính quyền, mẹ tôi đành gạt nước mắt, chấp nhận đi kinh tế mới. Mẹ tôi cùng những người hàng xóm có chung hoàn cảnh trong khu gia binh, chạy qua chạy lại giúp nhau thu dọn đồ đạc đi “Xây dựng vùng kinh tế mới”. Lòng ai cũng rối bời và tuyệt vọng, nhưng cố trấn an nhau, hy vọng tương lai sẽ không bị thiếu ăn, thiếu mặc nơi vùng kinh tế mới.
Lên vùng kinh tế mới được mấy tháng, mẹ con chân yếu tay mềm, không chịu đựng được sự khắc nghiệt của rừng già nên bỏ trốn về miền Trung. Về miền Trung, mấy mẹ con lại bị bắt đi kinh tế mới lần thứ hai vì không có nhà và hộ khẩu.
Lên vùng kinh tế mới ở miền Trung này được một tháng, mẹ tôi bị sốt rét, y tá địa phương không chữa được nên phải đưa lên bệnh viện tỉnh. Ở bệnh viện tỉnh được hai ngày, mẹ tôi qua đời.
Ông ngoại mướn xe lam đưa anh em chúng tôi ra nhà xác của bệnh viện để nhận xác mẹ chúng tôi. Anh em chúng tôi ngồi bao quanh xác mẹ nằm giữa sàn xe, sụt sùi khóc. Ông ngoại chở xác mẹ chúng tôi về nơi ông bà ngoại đang sinh sống sau năm 1975, một vùng quê, để chôn cất.
Ông ngoại làm đơn, ra uỷ ban xã xin phép mai táng, chôn cất mẹ tôi tại nghĩa trang địa phương, nhưng chính quyền địa phương không cho vì mẹ tôi không có hộ khẩu ở đây. Ông ngoại đến nhà ông chủ tịch xã năn nỉ, trình bày lý do vì vùng kinh tế mới chưa có nghĩa trang, cha chúng tôi đang ở tù “cải tạo” và anh em tôi còn quá nhỏ không lo đám tang được, nhưng ông chủ tịch xã nhất định không cho chôn xác mẹ tôi tại đây.
Chờ nhà ông chủ tịch xã ăn cơm tối xong, ông ngoại dắt anh em tôi đeo khăn tang bằng vải mùng trắng ố vàng trên đầu, đi vào nhà ông chủ tịch. Ông ngoại bảo anh em tôi quỳ xuống, chấp tay vái lạy trong khi ông ngoại năn nỉ xin ông chủ tịch ký đơn. Vợ và các con ông chủ tịch từ nhà trong chạy ra, đứng nhìn anh em tôi vừa khóc vừa lạy. Ông chủ tịch xã, miệng ngậm cây tăm xỉa răng, lắc đầu, không chịu ký đơn và xua tay đuổi chúng tôi ra ngoài. Thấy anh em tôi vẫn quỳ, liên tục vái lạy và khóc lóc dữ quá, vợ ông chủ tịch thì thầm vào tai ông ta, khi ấy ông ta mới chịu ký đơn cho chôn cất mẹ tôi tại nghĩa trang ở địa phương đây.
Nhà ông bà ngoại tôi có mười sáu người con ruột, hai người con nuôi, tổng cộng là mười tám người con và chỉ mới có mấy người lập gia đình riêng. Mẹ tôi là con gái đầu và cũng là người con đầu tiên trong nhà qua đời.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà ông bà ngoại tôi cũng như đa số người dân miền Nam đều nghèo khó nên để nuôi nấng chừng ấy người con là điều không phải dễ, nay lại thêm bảy đứa cháu thơ dại tá túc trong nhà nữa. Ông bà ngoại không có tiền, không có gì để lo đám tang cho mẹ tôi, chỉ có khoai sắn luộc lên mời những người đến thăm viếng, đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn mẹ tôi. Những người bà con và hàng xóm thấy vậy, nên người cho tiền, người cho gạo, bắp, sắn khoai và một người cho tấm ván ép mỏng để đóng một chiếc hòm yếu ớt cho mẹ tôi.
Ngày đưa xác mẹ ra nghĩa trang, anh em chúng tôi chít khăn tang dài quá mông, đi theo những người khiêng hòm mẹ tôi trên vai. Con đường dẫn ra nghĩa trang, nằm trên một ngọn đồi, gập ghềnh vì rảnh bánh xe bò, quanh co đầy cỏ cây cao ngang gối. Anh em chúng tôi lúc cúc đứa đằng trước, đứa đằng sau, có đứa đi cả dưới quan tài của mẹ.
Sau đám tang mẹ tôi, ông ngoại đưa tôi đi đến từng nhà các ân nhân để hai ông cháu cảm ơn họ. Trên đường về, ông ghé lại một quán phở ở chợ làng. Ông gọi hai tô phở cho hai ông cháu, đây là tô phở ngon nhất mà trước đó, kể cả sau này tôi được ăn vì đã lâu tôi không được ăn phở và vì đây là lần đầu tiên ông nói chuyện với tôi như một người đã trưởng thành.
Hai ông cháu không giữ một chút sĩ diện gì, ăn cạn sạch tô, không chừa sót một chút nước phở nào. Sau này mỗi lần ăn phở, tôi lại nhớ đến tô phở mà ông ngoại đã cho tôi ăn.
Ăn xong, như hai người bạn, một già một trẻ, ông nói chuyện, tâm tình và động viên tôi. Chỉ bằng những lời của ông, đã làm vơi bớt sự đau buồn của một đứa trẻ vừa mất mẹ và sự sợ hãi khi sắp phải về sống ở vùng rừng núi hoang vu. Ông đưa cho tôi một cuốn sổ nhỏ ghi nhiều tên họ của các ân nhân, nơi ở và chi tiết những thứ họ đã giúp trong đám tang mẹ tôi, như ai cho bao nhiêu tiền, ai cho ván, rổ khoai, ký sắn, mấy lon gạo... Ông nói: “Con cất giữ cuốn sổ này, để biết mà báo ơn người ta”.
Lo cho người chết xong, nội ngoại hai bên họp lại, bàn lo cho người sống là anh em tôi. Vào thời điểm lúc ấy, cả ông bà ngoại, ông bà nội đều khó khăn, không thể nuôi cả bảy anh em chúng tôi nên anh em chúng tôi phải tạm lìa xa nhau, tôi lớn nhất mười sáu tuổi lên sống ở vùng kinh tế mới với ba em kế, ba đứa nhỏ hơn, hai về ở với ông bà ngoại và một ở với ông bà nội.
Khi lên vùng kinh tế mới này, mẹ tôi chưa kịp cất cho chúng tôi một nơi để trú thân, nên ông nội, ông ngoại và một người cậu đã đến giúp dựng nhà cho chúng tôi ở nơi mảnh đất mà mẹ tôi vừa phát hoang trước khi qua đời. Tôi mong công việc dựng nhà, thực ra chỉ là túp lều tranh rộng có mấy mét vuông, kéo dài càng lâu càng tốt vì không muốn các ông và cậu ra về, nhưng tới chiều thì túp lều đã hoàn tất.
Tôi ước gì ông ngoại ở lại với anh em tôi, nhưng điều đó là không thể vì ông ngoại còn có nhiều cậu dì tuổi còn nhỏ hơn cả tôi. Khi chia tay, tôi thấy mắt ông ngoại rất buồn nên tôi nói với ông là tôi không sợ gì cả, nhưng khi chỉ còn lại bốn anh em chơ vơ, tôi đã sợ hãi.
Đêm đầu tiên trong căn chòi tranh, tôi không ngủ được. Bên ngoài trời tối đen, mưa rừng ầm ầm, nước ào ào đổ xuống trĩu nặng như muốn đè bẹp mái tranh. Gần nửa đêm, mưa tạnh, tiếng côn trùng râm ran chui ra từ những ụ đất sũng nước. Xa xa, nơi ngọn núi sau nhà, ẩn hiện những cặp mắt lúc xanh biếc, lúc rực đỏ của thú rừng đi ăn đêm. Tôi cảm thấy bất an, lòng lo lắng vì từ nay tôi phải tự quyết định mọi việc cho cuộc sống của tôi và các em ở nơi vùng đất hoang dã này.
No comments:
Post a Comment