Wednesday, January 31, 2018

ĐỪNG BỐC PHÉT NỮA

Thoạt đầu tôi định chỉ viết một lời bình sau khi đọc “Thời thanh niên sôi nổi” của chị Đoan Trang trên ĐCV, nhưng e rằng sẽ không đủ ý, đành v...iết bài này vậy.

Tôi là một gã Bắc kỳ. Từ lớp vỡ lòng đến đại học tôi được học dưới cái gọi là “mái trường XHCN”. Anh tôi là một bộ đội phục viên. Cháu ruột là đại tá trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh đang tại chức. Tôi từng đi nghĩa vụ quân sự, mang quân hàm trung úy, chức đại đội phó, có tham gia một vài trận đánh ở chiến trường Campuchia.

Dài dòng một chút để các bạn hiểu: tôi không liên hệ gì đến VNCH. Tôi không hận thù, không chống cộng. Tôi chỉ muốn được chia sẻ chút suy nghĩ của mình trước những thậm từ mà thiên hạ đang sử dụng để tung hô tướng Giáp: “mãi mãi là một biểu tượng sống động của trí tuệ”; “Thiên tài quân sự”; “Đại trí, đại nhân, đại dũng”; “Vị tướng huyền thoại”; “Nhà quân sự lỗi lạc nhất của mọi thời đại”; “Một nhân cách lớn”.

Có thiệt vậy không?

Những Điều Tận Mắt

Khoảng đầu năm 1983, ông Giáp đến thăm một trường đại học. Khi đó ông đã thôi chức Bộ trưởng quốc phòng, đang là Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Tôi thấy ông vẫn mặc quân phục, mang quân hàm đại tướng. Bọn sinh viên chúng tôi đang ở tuổi trên dưới 20, rất ngưỡng mộ ông, kéo đến nghe ông nói chuyện. Không ngờ những bài phát biểu của ông rất nhạt, chung chung, vô thưởng vô phạt, với những sáo ngữ mòn cũ, giáo điều thường thấy trong các nghị quyết của chi bộ, chi đoàn như là Đảng ta, nhân dân ta anh hùng, quân đội ta anh dũng, thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ, quyết tâm, vượt mức, lập thành tích, quán triệt, phát huy,…

Không có gì sắc sảo, mới lạ. Màng nhĩ của tụi tôi bấy giờ đã khá quen với những ý tưởng và ngôn từ của các giáo sư đại học thời Tây còn lại, hoặc những vị cỡ như Bùi Tín nói về thời sự quốc tế, Trần Quốc Vượng nói về Hà nội học, hay Xuân Diệu bình thơ. Vì thế nghe tướng Giáp nói xong chúng tôi thất vọng quá. 

Sau này tôi lại thấy mỗi khi đi thăm các cơ sở, ông Giáp đều bắt đầu lời phát biểu kiểu như: Thay mặt đ/c Lê Duẩn uỷ viên BCT tổng bí thư…, đ/c Trường Chinh ủy viên BCT chủ tịch hội đồng nhà nước…, đ/c Phạm Văn Đồng ủy viên BCT, chủ tịch hội đồng chính phủ, và các đ/c khác trong trung ương… tôi xin gởi lời thăm đến các đồng chí…Thì ra ở đâu ông cũng ăn nói na ná như nhau.

Ngày 30 – 4 -1995, kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam. Năm chẵn, nên tổ chức rất hoành tráng ở t/p HCM. Truyền hình Mỹ chiếu trực tiếp lễ duyệt binh, có phần phỏng vấn tướng Giáp và tướng Westmoreland. Ý họ là để cho hai vị tướng đã từng đối đầu ở chiến trường có dịp trò chuyện với nhau. Sau lời phát biểu khá khiêm tốn của tướng Westmoreland, đến lượt tướng Giáp – ông nói đại ý rằng chúng tôi vô cùng tự hào vì Việt Nam là một thuộc địa nhỏ bé nhưng đã đánh thắng được hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Một thiên tài quân sự, một chính khách lỗi lạc, một nhà ngoại giao tài ba, mà lại phát biểu như vậy sao. Tôi tự hỏi.

Từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò

Ngày 22-11-1944, ông Giáp cùng với 34 chiến sĩ đã qua một cơn chuyển dạ đớn đau, rồi sinh hạ QĐNDVN duới gốc đa Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. 

Đến tháng 5-1948, tức 3 năm rưỡi sau, ông Giáp được ông Hồ Chí Minh phong cho chức Đại tướng. Khi ấy ông Giáp mới 37 tuổi. Riêng điều này thì “huyền thoại” thiệt. Cả thế giới đến nay mới xuất hiện hai đại tướng được phong vượt 17 cấp bậc như thế! Ông Giáp ở Bắc Việt Nam, và Kim Jong-un ở Bắc Triều Tiên! Từ đó người ta gọi ông Giáp là “tướng Giáp”. Ông giữ những chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh QĐNDVN cho đến năm 1982.

Vào cuối thâp kỷ 60, trước và sau khi ông Hồ chết, nội bộ ĐCSVN xảy ra “Vụ Án Xét Lại Chống Đảng” do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phát động. Ông Giáp trở thành đích ngắm của vụ án, nhưng ông lại không bị đánh trực tiếp, mà đòn hiểm lại nhằm vào những người đồng chí trung thành của ông ở chiến dịch Điện Biên Phủ: Thượng tướng Chu Văn Tấn tư lệnh Quân Khu Việt Bắc, Thiếu tướng Đặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần, Tướng Lê Liêm một ủy viên đảng ủy, Trung tướng Trần Độ chỉ huy đại đoàn 312, mũi tấn công chính vào sở chỉ huy Pháp, và là người tiếp nhận sự đầu hàng của tướng de Castries, Đại tá Đỗ Đức Kiên cục trưởng tác chiến, Đại tá Phạm Quế Dương, ông Hoàng Minh Chính, và nhiều người khác nữa. Tất cả bị vu cáo cùng một tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài”. Điều trớ trêu là tướng Giáp biết rõ là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, hoặc có một động thái nào để bảo vệ, hay giúp đỡ những người bạn cũ đang bị đối xử rất tàn ác.

Đại hội Đảng V – 1982, ông Giáp bị đưa ra khỏi bộ chính trị, mất chức bộ trưởng bộ quốc phòng, và được “phân công” về làm trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Thực chất đây là một vụ cách chức, hay nói trắng ra là ông Lê Đức Thọ đã hạ nhục ông Giáp một cách không thương tiếc. Ông Giáp vẫn không có một hành động gì dù nhỏ nhất như là từ chức, xin về hưu để tỏ thái độ, và giữ gìn khí tiết của một người làm tướng. Ông tỏ ra như một đứa con ngoan vâng lời cha mẹ. Dân Bắc kỳ phải ngán ngẩm mà than rằng:

Xưa làm bộ trưởng quốc phòng
 Nay làm bộ trưởng đặt vòng tránh thai”

Hay:

“Bác Hồ nằm ở trong lăng,
 Nhiều hôm bác bỗng nghiến răng, giật mình
 Rằng giờ chúng nó linh tinh
 Tuổi tên của mình chúng ném xuống ao
 Ao nào thì có ra ao
 Cái tròn cái méo, cái nào cũng sâu
 Hỏi rằng tướng Giáp đi đâu
 Dạ thưa tướng Giáp… lo khâu đặt vòng.”

Một bài vè khác thì chẳng còn úp mở gì:

Ngày xưa đại tướng cầm quân
 Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
 Ngày xưa đại tướng công đồn
 Ngày nay đại tướng công L… chị em.”

Khi hai ông Duẩn – Thọ về thăm Bác, tưởng rằng vòng kim cô trên đầu tướng Giáp sẽ được gỡ ra. Nhưng không, nó còn bị siết chặt hơn bởi một cặp bài trùng mới: Đỗ Mười – Lê Đức Anh (được biết đến là MA, viết tắt từ Mười – Anh). MA đã giáng một đòn trực tiếp vào ông Giáp với một bản cáo trạng gồm 8 tội danh:

 1. Ông Giáp từng là con nuôi của chánh sở mật thám Đông Dương, Louis Marty.

 2. Ông Giáp cầm đầu vụ án Xét Lại Chống Đảng từ năm 1957-1958.

 3. Ông Giáp bán bí mật quân sự cho Đại Sứ Liên Xô Serbakov.

 4. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch.

 5. Ông Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp – Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ.

6. Tết Mậu Thân 1968 ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn.

 7. Ông Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B (chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến trường miền Nam trước 1975).

 8. Ông Giáp đã có vợ, nhưng lại ăn nằm với một phụ nữ đã có chồng. Cô này đến nhà riêng ông Giáp dạy đàn piano.

Đỗ Mười kết luận phải khai trừ ông Giáp ra khỏi ĐCSVN. Lê Đức Anh nương tay hơn, chỉ gạt ông Giáp ra khỏi ghế “ủy viên trung ương” – một vị trí an ủi mà thời Lê Duẩn – Lê Đức Thọ vẫn còn bố thí cho ông.

Người ta ví von rằng trận đòn mà MA đánh ông Giáp cũng giống như trận đòn mà Đặng Trần Thường đánh Ngô Thì Nhậm ở Quốc Tử Giám cách đây 200 năm. MA đánh Giáp bằng những tội danh rất hiểm. Thường đánh Nhậm bằng roi tẩm thuốc độc. Nhậm đau lắm nhưng vẫn đối đáp khí khái, ăn miếng trả miếng, bảo vệ được thanh danh, để lại tiếng thơm cho đời sau. Còn tướng Giáp thì vẫn nhũn như con chi chi, nhịn nhục, không dám nói năng gì. Có phải lòng kiêu hãnh của một vị đại tướng đã thành gỗ đá, không bao giờ bị thương tổn?

Có người lại bảo ông Giáp phục kích, chờ cơ hội. Đúng, ông Giáp đã chờ cho đến khi cả hai ông MA đã vào tuổi 90, sức khỏe cạn, quyền lực hết, không còn ảnh hưởng nhiều đến phong cảnh chính trị Việt nam thì ông Giáp mới dám mở miệng để đòi lại danh dự. Tiếc thay, tướng Giáp chỉ đòi công lý cho cá nhân ông, còn những đồng đội trung thành của ông ở Điện Biên Phủ ông chẳng hề bận tâm.

Dân Hà nội thì đàm tiếu rằng con đường tòng chính của tướng Giáp đầy gian nan vất vả, ông đã hành quân qua một chặng đường dài từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò. Cây Đa Nhà Bò là một trạm hộ sinh nằm trên phố Lò Đúc, Hà Nội, dành cho những phụ nữ thuộc giới bình dân, chuyên đỡ đẻ, nạo phá thai, khám phụ khoa, thông vòi trứng, hút điều hòa kinh nguyệt, điều trị rong kinh huyết trắng, viêm nhiễm phụ khoa (Ngẫm ra, dân Hà Thành thâm thiệt!)

Viết về tướng Giáp mà không phân tích một trận đánh do ông chỉ huy, thì rất là thiếu sót. Tôi quyết định chọn trận đánh cuối cùng trong cuộc đời cầm quân của ông. Đó là một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu giữa hai người anh em cùng ý thức hệ cộng sản: Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐND) do tướng Giáp chỉ huy và Hồng Quân Trung Hoa (HQTH) do tướng Dương Đắc Chí là tư lệnh.

Cuộc chiến Việt – Trung tháng 2-1979.
QĐND hoàn toàn bị bất ngờ:

Để trừng phạt Việt nam, HQTH đã sử dụng 10 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn độc lập, bao gồm 300.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối, hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay phía sau.

Các nguồn tin phương Tây nhận định rằng HQTH đã mất từ 60 đến 90 ngày để đưa quân vào các vị trí tập kết sẵn sàng cho các mũi tấn công. Chỉ cần là nhân viên quân báo cấp trung đoàn, hay các tổ trinh sát đặc biệt cũng nhận ra được ý đồ, và ngày giờ khai hỏa của đối phương, nói gì đến tình báo chiến lược.

Mờ sáng ngày 17-2-1979, HQTH tấn công trên toàn tuyến biên giới dài 1.400 Km, trải rộng trong một khoảng không gian gồm 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.

Việt nam hoàn toàn không hay biết gì. Khi HQTH tràn qua biên giới, thì thủ tướng Phạm Văn Đồng và đại tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, đang thăm viếng xứ Cao Miên. Dân chúng không được thông báo trước, trẻ em, người già, và phụ nữ có thai, không kịp di tản ra khỏi vùng chiến địa. HQTH đã tạo ra được một yếu tố bất ngờ đến ngọan mục. Không hiểu tướng Giáp biện minh thế nào cho việc không hay biết gì về giờ nổ súng của đối phương.

Thất bại về tình báo và nhận định tình hình:

Tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan, Malaysia và Singapore. Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia. Đặng đã gọi Việt Nam là những tên du côn của phương Đông, phải dạy cho chúng một bài học. Có lẽ vì lời của Đặng quá khiếm nhã, báo chí Trung Quốc chỉ dùng nửa sau của câu nói.

Ngày 28-1-1979, Đặng thăm Mỹ, và tuyên bố “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi”, “Trung Quốc kiên định đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược Việt Nam”. Giọng điệu chiến tranh của Đặng rất rõ. Báo chí Mỹ loan tải sớm muộn gì thì một cuộc chiến giữa hai nước cộng sản sẽ nổ ra.

Sau 3 ngày thăm Mỹ, Đặng đến Nhật. Tại đây, Đặng vẫn giọng điệu hung hăng “để trừng phạt Việt nam, dù có gặp những nguy hiểm cũng phải hành động”; “không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền”, “Đối phó với loại người vô ơn như thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả”. Các nhà ngoại giao Nhật ngạc nhiên vì lời lẽ và thái độ phi ngoại giao của Đặng.

Cũng khoảng thời gian này, TASS – hãng thông tấn của Liên Xô cũng đưa tin một lực lượng rất lớn quân đội Trung Quốc đang áp sát biên giới Việt–Trung.

Từ Nhật về, Đặng chỉ thị tấn công Việt Nam vào ngày 17-2. Thời gian của chiến dịch không dài hơn cuộc chiến một tháng với Ấn Độ (1962); không gian của cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi trên duới 50 cây số từ biên giới.

Bằng chứng Đặng sẽ trừng phạt Việt nam đã rõ như ban ngày, nhưng không hiểu vì sao phía Việt Nam tin rằng Trung Quốc là một nước XHCN anh em, và nhân dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình, sẽ không ủng hộ chiến tranh. Trung Quốc sẽ không tấn công, hoặc nếu có thì chỉ từ cấp sư đoàn đổ lại.

Thiếu tin tình báo, nhận định và phân tích tình hình sai, không nắm được thời điểm nổ súng, thời gian, không gian, và quy mô chiến dịch của đối phương, đã dẫn đến việc tướng Giáp không hề bố trí những quân đoàn chủ lực dọc biên giới. Tất cả phó thác cho dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, và một vài trung đoàn độc lập.

Một thất bại về chiến thuật:

Kế hoạch hành quân của Trung Quốc chia làm 3 giai đoạn.

Giai đoạn 1: từ 17-2 đến 25-2, phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam, làm chủ thị xã Cao Bằng, Lào Cai, và hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, để mở đường cho cuộc tấn công vào Lạng Sơn.

Giai đoạn 2: từ 26-2 đến 5-3, chiếm được thành phố Lạng Sơn, và hai thị trấn Sa Pa va Phong Thổ.

Giai đoạn 3: từ 5-3 đến 16-3, bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới, trước khi rút về.

Ngày 21 tháng 2, khi chiến dịch đang diễn ra rất ác liệt, tuần dương hạm Sverdlov và khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã tiến về bờ biển Việt nam. Cầu hàng không của Liên Xô giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria đã chở vũ khí tới Hà Nội.

Trước tình hình đó ngày 23-2-1979, Đặng sợ Liên Xô nhúng tay, nên lên tiếng về “cuộc chiến sẽ giới hạn trong vòng 50 km, và sẽ rút quân trong 10 ngày tới. Rõ ràng Trung Quốc không có ý định tấn công vào Hà nội. Họ chỉ ba hoa rằng “ăn sáng ở Lạng Sơn và ăn tối ở Hà Nội.”

Việt Nam lại tin rằng cuộc chiến sẽ kéo dài, và Hà nội sẽ bị tấn công. Từ nhận định sai lầm này mà dẫn đến việc dồn hết công sức, và tâm trí vào việc xây dựng “Phòng Tuyến Sông Cầu”, để cố thủ Hà nôi. 7 tỉnh biên giới gần như bị bỏ ngỏ, phải tự chiến đấu trong tuyệt vọng, tự gánh vác lấy sức nặng của cuộc chiến, không được chi viện. Trận chiến tại Đồng Đăng là một thí dụ:

Đồng Đăng là một thị xã nằm sát biên giới Việt-Trung, cách thành phố Lạng Sơn 14 Km về phía Đông Nam. Trận đánh bắt đầu sáng 17-2 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, thuộc sư đoàn Sao Vàng, QĐND. Phía Trung Quốc dùng 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh, (Tương quan lực lượng là khoảng 10 đánh 1). 

Pháo đài Đồng Đăng tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã, (Pháo đài này được Pháp xây dựng rất kiên cố, vì ở đây đã diễn ra khá nhiều va chạm đẫm máu giữa Pháp và nhà Thanh trước đây). 

Việt nam chỉ có 2 tiểu đoàn trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không hề được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được 22 ngày đêm. 

Cuối cùng HQTH cũng đã làm chủ được khu vực bên ngoài Pháo Đài, nhưng Trung Quốc không gọi được đối phương cố thủ bên trong ra đầu hàng. Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, phun chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn. Khi chiếm được Pháo đài Đồng Đăng, HQTH đã dùng 10 tấn thuốc nổ để phá hệ thống cố thủ này.

Việt Nam lúc đó đã có ít nhất 5 sư đoàn đang ở miền Bắc, trong đó có sư 308 – là một sư đoàn thiện chiến đã từng đánh ở Điện Biên Phủ và Khe Sanh. Nếu 5 sư đoàn này được tham chiến vào buổi bình minh của cuộc chiến thì tình thế sẽ hoàn toàn có lợi cho phía QĐND. HQTH không thể tiến sâu vào lãnh thổ VN, không thể làm chủ được thời gian, không thể đạt được những những mục tiêu như họ muốn, và họ sẽ không có lý do gì để tuyên bố là “Chiến Thắng”. Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật mà tướng Giáp và bộ tổng tham mưu của QĐND phải chịu trách nhiệm.

Một kết thúc mập mờ dẫn đến một sai lầm chiến lược:

Sau những ngày chiến đấu ngoan cường nhưng đơn độc của sư đoàn Sao Vàng trước một đối phương áp đảo về số lượng và hỏa lực, ngày 4-3-1979, Lạng Sơn thất thủ.

Sáng 5-3, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu của cuộc trừng phạt, chiến thắng vẻ vang, và quyết định rút quân.

Cùng ngày 5-3, Việt nam phát lệnh “Tổng Động Viên”. Những quân đoàn chủ lực của QĐND có xe tăng, pháo binh, và không quân từ chiến trường Campuchia trở về, cùng với một địa hình muôn vàn hiểm trở của núi rừng miền Bắc, Việt Nam đã vào vị trí vây hãm HQTH. Tất cả đã sẵn sàng cho cuộc phản kích, mà phần thắng sẽ thuộc về tay QĐND.

Nhưng tiếc thay, Việt Nam lại tuyên bố “Thiện Chí Hòa Bình”, rằng truyền thống ông cha ta… rằng lòng cao thượng… rằng lòng nhân đạo của dân tộc ta … , Việt Nam sẽ để cho HQTH rút quân an toàn.

Sự thực trên đường rút quân, HQTH vẫn chém giết, vơ vét, và phá hoại. Vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại Đổng Chú, huyện Hòa An, Cao Bằng là một thí dụ. HQTH đã dùng búa, dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, 20 trẻ em, và 2 người đàn ông, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc vứt hai bên bờ suối. HQTH có đủ thời gian và không gian để phá hoại hạ tầng cơ sở, chiếm giữ những điểm cao quan trọng, và gài lại hàng triệu trái mìn cá nhân trên đường rút lui.

QĐND đã không tổ chức những trận đánh cấp tập, vu hồi, tạt sườn trên đường rút quân của HQTH. Kết thúc cuộc chiến một cách mập mờ, nửa vời, đánh rắn giữa khúc, nửa nạc nửa mỡ. HQTH coi thường ý chí và kinh nghiệm chiến đấu của QĐND, và còn mỉa mai rằng chưa được “vuốt râu cọp”. Họ không tôn trọng danh tiếng của một đạo quân thiện chiến.
Quyết định “Thiện Chí Hòa Bình” của Việt Nam hình như là một thái độ thủ hòa, nhưng hòa vào một thế vô cùng bất lợi. Từ đó, trong bất kỳ những cuộc thương thảo nào về biên giới, Trung Quốc luôn ở thế kẻ cả, áp đảo, và lấn lướt mà chúng ta thấy rất rõ. Đây là hệ luỵ từ sai lầm mang tính chiến lược do tướng Giáp và Bộ tổng tham mưu gây ra.

“Anh Đặng”

Đặng Tiểu Bình là người đã phát động cuộc chiến đẫm máu, man rợ, gây ra bao nhiêu đau thương và dẫn đến những hệ lụy cho đất nước Việt Nam nhiều năm sau đó. Đặng đã từng gọi lãnh đạo của Việt Nam là “những thằng du côn của phương Đông”, “lũ tiểu bá”, “đám vô ơn, bội bạc”. 

Thế mà 10 năm sau, khi những vết thương trên thân mình Tổ Quốc vẫn còn đang chảy máu, ngày 3-9-1990, ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng bí mật đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, hy vọng được yết kiến Đặng Tiểu Bình. Đặng không gặp, để cho hai đàn em Giang Trạch Dân và Lý Bằng tiếp. Cả ba ông Linh, Mười, Đồng rất tiếc vì đã không gặp được “anh Đặng”. Ông Võ Văn Kiệt ở nhà cũng tiếc hùi hụi, phàn nàn rằng “nếu có anh Đặng, thì anh Tô (Đồng) mới nên đi.
Kẻ tử thù của của nhân dân Việt nam, nay được các nhà lãnh đạo Việt Nam gọi bằng “ANH” thân thiết qúa.

 Cũng khoảng thời gian đó, tướng Giáp đến thăm Trung Quốc, và xin được gặp tướng Dương Đắc Chí – tổng tư lệnh trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam năm 1979. Nhưng Dương tướng quân từ chối, nói: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán bộ chiến sĩ vẫn còn chưa xanh cỏ!”

Chỉ vài thông tin để các bạn thấy được cái gọi là “Đại trí, Đại nhân, Đại dũng” của những lãnh tụ cộng sản Việt Nam, trong đó có Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.

Trần Hồng Tâm











LỜI TÂM TÌNH TRƯỚC NĂM MẬU TUẤT
Về Bài Thơ Ca Tụng HCM của nhà văn Lão Móc.

Kính Thưa Quí Vị và Các Bạn,

Thỉnh thoảng tôi lại thấy có người lôi ông Lão Móc ra nặng nhẹ đay nghiến xỉ vả ông ấy thậm tệ vì "TỘI" ông Lão Móc đã THÀNH THẬT gởi ra DĐ bài viết trong đó có bài TỰ THÚ. Tự Thú là bài thơ ông làm tung hô quốc tặc Hồ Chí Minh trong những ngày ông ở trong nhà tù cải tạo của VC. Cũng xin thưa trước là trong lời tâm tình này NGƯỜI VIẾT CHỈ NÓI TRONG PHẠM VI BÀI THƠ CA TỤNG HCM CỦA ÔNG LÃO MÓC KHI TRONG TÙ VÀ NHỮNG BÀI VIẾT CHỐNG VGCS CỦA ÔNG LÃO MÓC Ở HẢI NGOẠI MÀ THÔI.

Đọc qua những câu thơ ca tụng tên tội đồ HCM, tôi bất bình. Đương nhiên là tôi hết sức bất bình.  Nhưng khi thấy ông Lão Móc, một người lính VNCH bị ném đá một cách không thương xót vì một phút yếu lòng trong ngục tù CS thì tình người dấy lên và tôi lại thấy xót xa và xin rất công bằng mà nói những lời này: Ai ở trong hoàn cảnh nào mới hiểu được hoàn cảnh đó và chỉ có người trong cuộc mới quyết định được cho họ là họ phải làm gì và có thể, điều họ làm không đúng.  Nhìn lửa cháy, ai cũng biết lửa nóng nhưng chỉ có người đang bị phỏng lửa mới thực sự BIẾT LỬA NÓNG THẾ NÀO VÀ PHỎNG LỬA THÌ ĐAU ĐỚN RA SAO. Và khi bị lửa cháy, nóng quá, đau quá, họ có thể cào cấu chính da thịt họ mà chẳng biết là làm thế, vết thương sẽ nặng hơn.  Cũng như thế với người ở lại VN sau 1975. Cả miền Nam VN trở thành nạn nhân của CSBV. Nhiều người đã chọn cái chết cho cả gia đình. Trong trại tù cải tạo, có người đã đói quá, bốc cả phân cho vào miệng. Người ngoại cuộc thấy thế, tôi tin rằng có người cảm thông nhưng có người cho là điên cuồng ngu dại. 

Nói thế, không có nghĩa là tôi cho rằng việc ông Lão Móc làm thơ ca tụng HCM là một việc mà người QG dễ dàng chấp nhận. KHÔNG. Ở đây, tôi chỉ muốn thưa rằng nếu cùng là nạn nhân CS, chúng ta nên xem lại việc ông làm bài thơ đó trong thời điểm và hoàn cảnh nào thôi.

Sống dưới ách CSVN năm năm trong một nhà tù lớn, tôi đã chứng kiến những cảnh đau lòng, đã nghe nhiều chuyện tang thương, hậu quả do sự tàn ác, lừa mị, lưu manh của CS và sự buông xuôi do sức chịu đựng đã cùng kiệt của con người.  Ví dụ, người mẹ nào không thương con và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì con thế mà trong một cảnh bịnh và đói của một gia đình một mẹ ba con nhỏ vùng kinh tế mới, người phụ nữ có chồng tù cải tạo  đã bóp cổ ba đứa con của mình rồi từ đó thành người điên loạn. Người ngoại cuộc nhìn vào, có người nói "mẹ gì mà ác thế, hùm còn không nỡ  ăn thịt con mà..."Có người phê phán  " mẹ mà giết con thì không xứng đáng làm mẹ." Có người  nguyền rủa  "người mẹ ác này sao không chết đi...",  "người mẹ ác thế thì đáng lẽ giời không cho có con mới phải..."  Có người nhân ái hơn: " Tội nghiệp, chắc cùng quẫn quá nên phải giết con !". 

Người ta chỉ phê bình trách cứ nguyền rủa hay tội nghiệp hành động giết con của người mẹ nhưng không ai cho họ được lon gạo, chén cơm, viên thuốc vì VC dồn họ vào cảnh cùng khốn như nhau cả.  Nhưng họ lại không trách nguyên cớ nào đã khiến người mẹ tuyệt vọng đến điên loạn mà phải giết những đứa con máu thịt của mình.  Không ai đau giùm nỗi đau của người mẹ, không ai đặt mình vào hoàn cảnh của người mẹ, cũng không ai biết là sau khi giết con, người mẹ đã thành điên loạn, thấy ai cũng trốn tránh và sau đó hơn hai tháng bà đã nằm chết cô đơn trong một cái chòi hoang trong vườn khoai mì cằn cỗi.

Cũng như thế, trong những ngày tang thương của đất nước và dân tộc VN, có nhiều người may mắn, nhanh chân rời VN trước hay trong ngày mất nước. Họ không bị VC tù đày, hành hạ nên khó mà đánh gía đúng tâm trạng và hiểu đúng những nỗi khó khăn, nhục tủi  của từng hoàn cảnh, từng trường hợp, nhất là của người lính VNCH bị VC trả thù khi sa cơ thất thế.   Những người này là anh em của chúng ta, là đồng bào của chúng ta, hơn thế, là những người LÍNH VNCH đã từng xông pha chống CS Bắc Việt xâm lăng, bảo vệ chúng ta,  giữ bình yên cho miền Nam, và đã phải nuốt nhục mà sống như con vật dưới gông cùm CS trong thân phận tù đày.  Xin đừng quên, sau khi miền Nam bị giao cho VC, thì người lính VNCH là kẻ thù số một, không đội trời chung của ác quyền CSVN !

Theo tôi biết thì không chỉ những người lính tù cải tạo mà TẤT CẢ MỌI NGƯỜI LƯU NHIỆM LÀM VIỆC TRONG CÔNG SỞ, TRƯỜNG ỐC ĐỀU PHẢI HỌC CHÍNH TRỊ RẤT THƯỜNG XUYÊN VÀ LÀM BÀI THU HOẠCH SAU MỖI BÀI HỌC CHÍNH TRỊ.  Trong giờ thứ 25 đau thương của đất nước và dân tộc VN,  những người anh hùng tuẫn tiết với quê hương thì đã tuẫn tiết, những người  can đảm vào rừng lập chiến khu mong quang phục quê hương thì đã vào rừng.  Còn những người cam tâm trình diện đi tù cải tạo, có một số rất ít tuyệt vọng mà tự tử trong tù thì không nói đến, còn tất cả đều sống vì gia đình, vì sự sống của chính họ, thì tôi nghĩ   KHÔNG AI dại dột hay can đảm ngông cuồng mà viết những câu  "phản động" như " ĐẢ ĐÁO QUỐC TẶC HỒ CHÍ MINH", " ĐẢ ĐẢO CỘNG SẢN"  trong bài thu hoạch của họ đâu. Hoặc nếu có thì rất rất ít và cả người với bài thu hoạch đó đều bị VC lặng lẽ nghiền tan thành nước.   Sự thật thì bài thu hoạch nào cũng phải viết theo những điều dối láo, đồng thuận, vỗ tay hoan hô theo những xuyên tạc trắng trợn, những chuyện  phong thần ngô nghê ngốc nghếch mà các chính trị viên VC đã hãnh diện thao thao bất tuyệt. Ví dụ: "trong thời kỳ Mỹ thả bom miền Bắc, máy bay của nhà nước ta được trên chỉ định cho tổ lái tắt máy, đứng yên trong các đám mây, chờ máy bay địch đến là tấn công. Máy bay của Mỹ rơi cứ như sung rụng"  Rồi Mỹ Ngụy ăn thịt người, chiến công của anh hùng LÊ Văn Tám, tinh thần yêu nước và công trạng của dũng sĩ diệt Mỹ Nguyễn Văn Lên, Huỳnh thị Chấu, Trần thị Gừng vv...vv...cũng được nêu ra làm bài học cho những người thất thế. Trong hoàn cảnh đó, những người thất thế muốn sống thì chỉ NHẤT TRÍ, VỖ TAY ...

Bây giờ sang ty nạn ở nước Mỹ này, tôi nghĩ,  KHÔNG  NGƯỜI TÙ VC NÀO CÓ ĐỦ CAN ĐẢM HAY DẠI DỘT NÓI RA LÀ MÌNH ĐÃ VIẾT NHỮNG GÌ, ĐÃ ĐỒNG THUẬN NHỮNG GÌ TRONG BÀI THU HOẠCH  KHI Ở TRONG TÙ VC ĐẤY THÔI, ngoài một người duy nhất là nhà văn, người cựu tù VC, người viết những bài chống Vc, Vg và những tên tay sai nằm vùng với bút danh LÃO MÓC !!!

Nếu như ông LÃO MÓC CŨNG IM LÌM KHÔNG NÓI RA NHƯ BAO NGƯỜI TÙ CẢI TẠO KHÁC THÌ AI BIẾT ÔNG TA VIẾT GÌ MÀ XỈ VẢ, MÀ CHỬI BỚI ÔNG TA ? Đúng không ạ?  Tại sao chúng ta không nhìn vào những việc Lão Móc làm từ ngày ông ấy đi ty nạn VC đến nay, ở xứ tự do này xem thái độ và lập trường chính trị của ông ấy thế nào trước khi xỉ vả ông ta? Hơn thế, những người đã nặng lời sỉ vả Lão Móc hãy soi gương xem có hơn Lão Móc trong sự trung thành với chính nghĩa QG không?  Có dám viết những bài chống VG và VC như Lão Móc hay không?  Qúi vị thừa biết, ai chống VC, VG cũng có kẻ thù, bởi VC, VG và bè lũ tay sai cầm trong tay nghị quyết 36 lại có cả một đảng VC yểm trợ thì có lẽ nào chúng lại để yên cho.

Thưa Qúi vị và các Bạn, thiển nghĩ, điều quan trọng chúng ta tìm hiểu là:

1/  Từ ngày làm người ty nạn, Lão Móc có thậm thụt về VN gặp gỡ tà quyền VC không?  Có cúi đầu khép nép trước kẻ thù VC  để có được cái Visa vào VN  và tiếp tục cúi đầu chui qua cửa hải quan Tân Sơn Nhứt để hưởng thụ cảnh áo gấm về làng, khoe khoang, hưởng thụ ? Nếu có, Ai biết, xin đưa bằng chứng.

2/ Từ ngày làm người ty nạn, Lão Móc có viết bài ca tụng VC, VG  và bè lũ tay sai như một số nhà văn đã đổi màu? Lão Móc có quảng cáo VN thay đổi? Có rủ rê khuyến khích tỵ nạn về thăm quê, đem đô la làm giàu cho VC?  Nếu có,  xin Quí vị đưa bằng chứng lên DĐ cho đồng bào nghị luận.

3/ Từ ngày làm người ty nạn, Lão Móc có tiếp tay với VC, VG và bè lũ tay sai, làm lợi cho VC hoặc làm hại cho cộng đồng, cho công cuộc đấu tranh chống CS không? Nếu có, xin Qúi vị thẳng thắn đưa ra bằng chứng cho công chúng phán xét.

Công bằng, thẳng thắn mà nói,  Qúy vị và tôi đã từng thấy trong cộng đồng TNCS của chúng ta có một số vị, người thì có học và chức vị cao,  người thì là cấp lớn trong quân đội, một thời hưởng đầy ân huệ bổng lộc của VNCH. Sau ngày 30/4 họ không tù VC một ngày nào và được sống bình yên tại các nước tự do như Hoa Kỳ, Pháp,  Úc, Canada.... Những vị này  không hề bị "cán bộ quản giáo" bỏ đói, không bị chúng đánh bằng roi điện, cùm vào sà lim, nhục mạ, nhốt trong conex. 

Nhưng trong những vị này, có bao vị đã quay mặt với nỗi đau của quê hương dân tộc, không hề tham gia vào công cuộc chống cộng để an thân và không lấm áo?   

Có bao vị còn đi xa hơn vài bước là tung hô VC có công thống nhất đất nước, hạ nhục Quân đội và tướng lãnh VNCH?  

Có bao vị cám ơn VC cho họ hôm nay có cuộc đời an nhàn ở nước ngoài, con cháu thành tài, giàu có? Có kẻ còn thậm thụt nối dài tay cho VC, sẵn sàng vì tiền mà bán rẻ lương tâm, bán đứng niềm tin của đồng bào, móc hầu bao và lừa dối họ từ năm này qua năm khác.  

Vậy thì trong những hoàn cảnh và trường hợp người viết vừa trình bày,  là việc ca tụng, cám ơn VC thống nhất đất nước và làm tay sai cho VC khi đang sống bình an, tự do, no đủ ở hải ngoại với việc làm thơ ca tụng HCM của Lão Móc trong tù, lúc thể xác kiệt quệ và tinh thần tuyệt vọng thì thưa qúy vị, việc làm nào đáng để Qúy vị chê trách, khinh bỉ, phỉ nhổ hơn ??

Tôi vui vì thấy người VN chúng ta thường có lòng nhân từ, bác ái. Nhưng tôi lại đau xót thấy rằng nếu chúng ta có thể nhân từ, bác ái cầm cờ vàng hớn hở ra phi trường ở quê hương thứ hai này, chờ đợi và đón tiếp nồng hậu những người VC từng cầm súng vào Nam bắn giết chúng ta thì sao chúng ta lại qúa hà tiện lòng nhân từ bác ái ấy khi đối xử với chính chúng ta, với những người cùng chiến tuyến, với người LÍNH là Lão Móc, đã chiến đấu cho miền Nam và đã bị VC cầm tù?  

Nếu như chúng ta không thông cảm được cho một phút yếu lòng của người đang bị VC cầm tù vì đất nước, không xót thương cho người LÍNH đã một thời  chìm nổi cùng vận mệnh của quê hương thì chúng ta cũng vì lòng nhân từ, bác ái mà không nên nặng  lời với lỗi lầm của họ khi họ ở bước đường cùng.  

Xin Qúy vị hãy thử đặt qúi vị vào vị thế của họ, khi quê hương VN gục xuống  bởi quân thù để cảm thông với những nỗi đau và thấm được ý nghĩa "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại".  Hơn nữa, kết tội người, cầm đá ném vào người bị cho là có tội thì quá dễ nhưng trước khi cầm đá ném vào người mà ta kết tội đó, chúng ta có ai bỏ ra vài phút để kiểm soát lại chính mình, xem bốn mươi mấy năm qua  mình có hoàn toàn vô tội với quê hương dân tộc hay không?

Chắc qúi vị cũng đã nghe qua câu chuyện trên đường Chúa Giêsu đi giảng  đạo, một hôm có kẻ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ và nói: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Thầy nghĩ sao ?"  Đức Giê-su bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."  Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau,  vì họ thành thật thấy là chính họ cũng không hoàn toàn trong sạch.

Thưa Qúi vị và các Bạn,

Khi người lính VNCH sa cơ trong trại tù VC và trước sự trả thù tàn ác vô nhân tính của bọn người dã tâm ấy thì có người lính nào dám chắc là mình sẽ bền bỉ anh hùng?  Hàn Tín ngày xưa lúc sa cơ, chịu nhục, luồn trôn kẻ bán thịt thì sao? Chúng ta cần phải qúy SỰ THÀNH THẬT, cổ võ sự THÀNH THẬT để cho SỰ THẬT được sống.  Tại sao, vâng, tại sao chúng ta lại đi TRỪNG  PHẠT NHỮNG  NGƯỜI DÁM NÓI SỰ THẬT, còn ngược lại, những kẻ nói láo, giỏi che đậy, giỏi lừa bịp thì lại được che chắn, tung hô ???

Lời tâm tình này có thể làm một số vị không vừa ý. Nếu thế, người viết thành thật xin lỗi những vị ấy. Xin Qúi vị hiểu cho rằng tôi chỉ biết ông Lão Móc qua các DĐ như Qúy vị biết ông ấy mà thôi chớ không hề có sự thân tình hay bè đảng. Vì thế, tôi viết lời tâm tình này KHÔNG PHẢI VÌ ÔNG LÃO MÓC, CHO ÔNG LÃO MÓC.  TÔI NGHĨ RẰNG MỘT NGƯỜI DÁM TRỰC DIỆN CHỐNG VC- VG VÀ TAY SAI TRƯỜNG KỲ NHƯ LÃO MÓC THÌ CHẲNG CẦN ĐẾN LỜI CÔNG ĐẠO CỦA TÔI.  VÌ THẾ, LỜI TÂM TÌNH NÀY TÔI VIẾT HOÀN TOÀN VÌ LƯƠNG TÂM, VÌ LẼ CÔNG BẰNG VÀ VÌ TÔI KHÔNG THỂ IM LẶNG NHÌN NGƯỜI CỰU TÙ VC BỊ PHỈ NHỔ MÃI VÌ ĐÃ THẬT THÀ TỰ THÚ MÌNH ĐÃ VIẾT GÌ TRONG TRẠI TÙ VC.

Nếu Vị nào vẫn không chấp nhận tôi viết vì LẼ CÔNG BẰNG thì tôi cũng xin những Vị ấy vì năm mới sắp tới, mở lòng nhân từ mà bỏ lỗi cho tôi.

Tôi nghĩ, tôi viết về việc này thế đã đủ. Lương tâm tôi đã không còn áy náy vì tôi nghĩ là tôi đã làm một việc nên làm.  Qúy vị thông cảm, tôi xin ghi ơn. Nếu không được quí vị mở lòng, tôi cũng xin cảm tạ và xin được quyền không hồi đáp, tranh cãi về vấn đề này với bất cứ ai.

Kính chúc Qúi Vị và Gia Đình của Qúi Vị những ngày Tết truyền thống đầm ấm và hạnh phúc, một năm mới Mậu Tuất sức khoẻ, an khang và mọi sự thành công như ý.

Trân trọng

Ngô Minh Hằng
27/1/2018


Xin kèm thêm bài viết của Ông Phách Nguyễn.

Trong suốt cuộc chiến Quốc-Cộng tại miền Nam Việt Nam, những ai đã từng phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đều biết QLVNCH đã đào tạo rất nhiều Anh hùng vị quốc vong thân để cho chúng ta được sống cho đến cuộc đổi đơi/4/1975 những người quân nhân vẫn còn chiến đấu trong giờ phút 25 dù không còn tiếp liệu súng đạn cũng như thực phẩm cho đến viên đạn cuối cùng, người thì dành cho mình viên đạn này, người thì tự sát tập thể còn bi hùng nào bằng cuộc chiến giờ thứ 25 này trong quân sử thế giới, hào hùng nào bằng, những người Quân Nhân còn lại bị lùa vào nhà tù với mỹ danh "Trại Cải tạo" đây phải nói bọn Cộng Sản Việt Nam còn độc ác gấp trăm lần so với thời Đức Quốc Xã tàn sát dân Do Thái.

Không một ai có thể hiểu được nỗi khổ ải, nỗi đau nhục nhã trong cái trai mang mỹ danh "Trại cải tạo" chỉ những người trong cuộc vì chúng ta những người Quân Nhân sợ chết đã chạy khỏi nước vì không chấp nhận chế độ phi nhân này bằng những phươ tiện sẵn có, còn những người dân lành kinh qua cuộc sống trong chiến tranh di tản ra biển bằng tất cả mọi phương tiện có thể nên những người dân lành không thể hiểu những khổ nhục của bọn nhãi ranh Cộng Sản mang tước hàm cán bộ trong trại tù.

Hầu như tất cả những vị Quân Nhân H.O là những người chịu đủ mọi nhục hình bị bọn cán bộ chà đạp nhân phẩm, những người tù chống đối bọn cán bộ nhãi ranh thường bị nhục hình mà chúng ta những người chưa một lần vào những trại tù mang mỹ danh "Trại Cải Tao" nên không hiểu nổi dù chúng ta cố hình dung hay tưởng tượng, những người chống đối này thường phải vùi xác trong rừng sâu Việt Bắc, những người còn lại muốn sống còn phải nín thở qua sông, phải cúi đầu khuất phục để sống được vế với gia đình, với vợ, với con.

Tôi dùng chữ "nín thở qua sông" hay "cúi đầu khuất phục" không có nghĩa là đầu hàng hay phục tùng mà phải hoà hợp với đám quỷ cai tù cho qua ngày tháng đong đưa, có người bị tù "nín thở qua sông" mười (10) năm lao động khổ sai, có người phải "cúi đầu phục tùng" mưới lăm (15) năm trong núi rừng Việt Bắc với sương lam chướng khí với chủ trương giết dần mòn nhưng phải thâu hoạch những chỉ tiêu mà bọn quỷ đỏ đề xướng trước khi chết, cái hay nhất đó là tình "Chiến Hữu" hay nói văn hoa là "Huynh Đệ Chi Binh" đùm bọc lấy nhau, anh ngã em nâng.

Chúng ta chưa một ngày sống trong trại tù cải tạo, chưa một phút hít thở không khí lao tù miền Việt Bắc Việt Nam thì chúng ta không nên lên tiếng bài bác, chê bai hay khinh bỉ những hành động, những lời nói "nín thở qua sống" để mang vợ, con và cha mẹ qua bến bờ "TỰ DO" để rồi lại bị những người qua trước, những người chưa một lần ngửi múi thuốc súng, những người chưa một lần "ngủ đứng" coi thường thì đây là một hành động sai lầm.

Hầu như tất cả các anh em Quân Nhân H.O chỉ đưa ra những đau khổ, những đầy ải nhục nhằn nhưng ít thấy một ai dám nói lên những khi phải "nín thở qua sông" hay "cúi đầu khuất phuc" nên đã tạo nên sự hiểu lầm cho thế hệ đi sau khi nhìn quý vị như những superman huyền thoại, nhưng quý vị chỉ là một Quân Nhân của QLVNCH cũng mang thân xác phàm, cũng mang những "hỉ, nộ, ái, ố" cũng chịu quy luật của đời người "Sinh, lão, bện, tử" quý vị không phải là những cục sắt, miếng thép mà sắt tháp với thời gian mưới hay mươi lăm năm cũng bị sét rỉ thì thời gian và oxit hoá.

Cái cao quý của con người là sự phục thiện là biết nhận chân lẽ phải, là biết hối hận và ăn năn, con người cũng là một trong những loài động vật khác, yếu đuối nhất trong các loài động vật nhưng lại là chúa tể của các loại động vật vì chúng ta có bộ óc, biết suy nghĩ, biết tưởng tượng và biết ganh đua..

Mong rằng với những tâm tình, với những tự mình tìm hiểu qua bạn bè, qua những vị chiến hữu H.O mới thấu hiểu được những uẩn khúc, những dằn vặt trong nội tâm của Chiến Hữu chúng tôi, mong rằng quý vị dù Cựu Quân Nhân hay quý vị Dân Sự nên tìm hiểu cặn kẽ trước khi phê phán.

Nếu bài này có sự va chạm vô tình hay cố ý xin quý vị xin cho hai chữ đại xá.

Người lính gia
Nguyễn ngọc Phách

Tuesday, January 30, 2018

 Chuyện người tóc bạc sớm
(Tặng bạn tôi, Biệt kích Nguyễn Thanh Châu)

Tiên Sha - Lê Luyến 
“Phong trần xuôi một bước lưu lạc
Đầu xanh theo một chuyến Xuân tàn”
Tản Đà 
I
Sống ở xứ người buồn nên cuối tuần anh em thường tụ họp uống trà tán gẫu; Ôi thôi đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, toàn thiên hạ sự. Nhưng lần nào cũng vậy, chu du khắp năm châu bốn bể rồi sau rốt họ cũng trở về với câu chuyện của mảnh đất quê hương hình chữ S xa xôi ngàn dặm.

Lớp trẻ ngạc nhiên khi nghe người lớn luôn nhắc đến đề tài chiến tranh và ngục tù cũ rích mà không bao giờ biết chán. Họ nói với chút ngậm ngùi cay đắng; Có kẻ ủ ê thở dài nhưng cũng có người bộc phát lòng căm ghét và khinh miệt. Làm sao giải thích cho lớp trẻ hiểu rằng đó là hoài niệm, là sự tìm kiếm quá khứ, là vốn liếng cuộc đời của cả một cuộc bể dâu tang thương mà thời đó những người trong cuộc bị cuốn hút, có khi không còn nhận ra được ngay cả chính bản thân mình. Làm sao cho lớp người trẻ biết rằng sau những năm tháng tăm tối của định mệnh, sau thời gian đăng đẳng đầy rẫy tai ương gai góc, những con người ngày xưa may mắn còn sống sót, quây quần cố nhóm lên đóm lửa tưởng chừng đã bị vùi lấp, chìm khuất trong bão giông quên lãng. Hiện tại họ đã già, vết thương bom đạn đục khoét làm bạc nhược thân xác. Cái đầu thì cằn cỗi lão hóa thiếu chất xám, họ chấp nhận làm bất cứ công việc gì để giải quyết cấp thời chuyện cơm áo qua ngày. Quá khứ đối với họ như món đồ cổ trân quý dẫu rằng có bị sứt mẻ, méo mó vì thời gian tàn nhẫn nhưng vẫn luôn được săm soi, nhìn ngắm bằng tấc dạ bồi hồi lẫn xót xa. Họ nâng niu trau chuốt như tìm kiếm đời mình ở trong đó, như để gạn lọc chuyện đúng sai, phải trái cuộc đời.

Chúng ta hãy lắng nghe lời tâm sự của một người lính già còn sống sót sau cuộc chiến...

II
Anh người miền Trung. Tuổi mới năm mươi mà thoạt nhìn cứ tưởng đã ngoài sáu chục. Anh vào lính rất sớm, sau khi tốt nghiệp trung học.

Anh bảo là không thể bình thản tiếp tục con đường học vấn khi chiến tranh bùng phát như ngọn lửa táp ngang mày, khi bạn bè lần lượt lên đường và xã hội miền Nam như bị nén chặt trong không khí bức bối, lo sợ với những cuộc xuống đường biểu tình của bọn tả khuynh đội lốt tôn giáo, của bọn hoạt đầu chính trị đang xâu xé, tranh dành quyền lực. Tuổi trẻ sống với nhiều thắc thỏm, ưu tư, hoài nghi và đau khổ. Chiến tranh, bạo loạn và suy đồi đã đưa họ đến cùng cực chán nản. Anh gia nhập quân đội, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan thông dịch, anh tình nguyện về đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Một năm hành quân bình an khắp mặt trận vùng I chiến thuật. Năm sau - 1967, anh xin chuyển về binh chủng Biệt Kích Lôi Hổ.


Người lính trẻ đầu đội beret đỏ, vai áo mang phù hiệu cọp trắng và cánh dù đó tên là Nguyễn thanh Châu, vỏn vẹn chỉ nhảy được ba chuyến công tác thì kết thúc cuộc đời binh nghiệp. Trong lần hành quân hiểm nghèo tại vùng biên giới Hạ Lào cùng với ba chiến binh VN và hai lính Mỹ, anh không may sa vào tay giặc. Cuộc đọ sức quá chênh lệch giữa các tay súng trong cuộc chơi sinh tử và tất nhiên phần thua sẽ thuộc về phe nào có tay súng ít hơn. Địch đông gấp nhiều lần, do vậy số phần những người lính cảm tử lẻ loi đã được an bày. Hai người lính Mỹ và một quân nhân truyền tin VN bị bắn hạ ngay từ loạt đạn đầu tiên. Toán ba người còn lại vất bỏ ba lô tháo chạy về phía rừng sâu biên giới.

Sau nhiều ngày chiến đấu cam go đơn độc, đói khát và căng thẳng, cuối cùng kiệt sức họ bị bắt. Người sĩ quan trưởng toán không chịu khai ra mật lệnh truyền tin bị địch xử bắn ngay tại chỗ. Còn lại anh và một người bạn bị trói dong về nơi chạm súng lúc ban đầu, chỗ có xác hai quân nhân Mỹ và người lính truyền tin VN. Đến nơi họ phát hoảng khi nhìn thấy hình hài các bạn bị xé banh tan nát nhầy nhụa đầy máu, ruột gan tim phổi bị tha đi mất, cái đầu bị liếm gần như trọc lóc, chỉ còn lơ thơ vài mảng tóc dính bết vào xương sọ. Ba người lính xấu số đã bị hùm beo móc ruột tan nát. Số phận không cho họ được tiếp tục làm “cọp sấm sét” ngược lại bị “cọp ăn thịt” đúng nghĩa. Thân xác họ bị rỉa rói tàn nhẫn bởi thú dữ, kên kên ở trên rừng chết chẳng toàn thây. Riêng Châu thì may mắn hơn. Sau ba tháng mỏi mòn không tin tức, cha mẹ anh được lãnh tiền tử tuất và đành lấy ngày ra đi công tác làm ngày kỵ cơm anh hàng năm. Không ai biết là Châu vẫn còn sống lây lất trên trần gian để trả nợ thua trận.

III
17 năm sau
Năm 1985, trên đường phố quen thuộc của thành phố Đà Nẵng bỗng xuất hiện một quán nhậu bình dân. Thực khách đa số là dân mánh mung, chợ trời. Đứng tên đăng ký ngôi quán là một bà già ngoài diện tuổi lao động, đủ điều kiện hợp pháp để nhà cầm quyền Cộng sản cấp giấy phép mở quán, nhưng thật tế chủ nhân điều hành lại chính là đôi vợ chồng trung niên, con trai của bà lão. Vợ là người đảm đang, nấu ăn giỏi, tính tình hòa ái. Chồng là mẫu đàn ông lịch lãm, tháo vát, vừa ở tù về.

Công an địa phương quản lý người chặt chẻ, nhất là thành phần chế độ cũ. Vô phương làm ăn, túng cùng bạn bè bày kế để cho bà già đăng ký tên chủ quán, còn vợ chồng anh là người giúp việc kiếm cơm. Dần dà khi vỡ lẽ ra thì chuyện đã rồi nên cũng phải làm ngơ bỏ qua.

Quán nhờ món nhậu ngon, giá bình dân, chủ yếu lấy công làm lời nên chẳng bao lâu khách đến viếng mỗi ngày một đông. Gia đình chủ quán năm người, vợ đứng bếp có cô con gái lớn phụ giúp. Chồng lo tiếp khách, bán bia rượu, ghi sổ, thu tiền. Đứa con trai cả và bé út 13 tuổi chạy bàn phục vụ. Những hôm đông khách quá, người ta thấy có vài dân nhậu tự động bỏ bàn đứng dậy, giúp cha con chủ quán một tay như người trong nhà. Cũng có hôm quán ồn ào vì có kẻ say sưa quậy phá hay muốn nhậu chạy làng, thì lập tức xuất hiện ngay vài tay giang hồ tứ chiếng, kịp thời giải quyết ổn thỏa mọi việc. Trước sau, người chủ quán vẫn giữ thái độ bàng quang của kẻ ngoại cuộc, thản nhiên đứng nhìn như chẳng hề mảy may dính dáng đến mình.

Riêng mấy tay anh chị nầy thì dân giang hồ Đà Nẵng không ai là không biết đến. Ngày trước họ đã một thời lừng lẫy như Phước Mèo nổi danh giỏi võ, với cây dao “tàng chiêu quái đao” đã từng đụng độ lính Đại Hàn có đai đen Taekwondo; hay Hoàng Rouleau, trắng trẻo đẹp trai giống thư sinh nhưng quay súng và bắn nhanh như phim cao bồi Django, đã có lần thử súng với tài xế Mỹ lái xe ẩu đụng người bỏ chạy. Một Đề “đầu bạc” gan to bằng trời, một thân một mình tung hoành nhiều năm ở thành phố lớn miền Trung nầy. Ngoài ra còn có Khiếu râu, Sang què, hai sĩ quan BĐQ độc thân, thường ngâm nga thơ phú mỗi khi tửu hứng. Sau 75, họ bị nhốt tại địa phương vì bị thương tật và các trại tù chứa đầy người quá. Các anh làm đủ nghề, chạy áp-phe, buôn bán. Riêng Đề “đầu bạc” thì hành nghề xe ôm, nhưng không chở người, chở hàng mà chỉ chuyên chở những thứ lậu thuế, quốc cấm.

Những người bạn nầy tuy mang tiếng giang hồ nhưng họ sống như những “hảo hớn thảo dã Lương sơn Bạc” đầy khát vọng công lý, phóng khoáng và nhất mực thủy chung với bạn. Thời gian người chủ quán còn ở trong tù, thỉnh thoảng họ xúm nhau giúp gạo, giúp củi cho vợ bạn nuôi con chờ chồng. Những lúc gia đình bạn gặp cơn khốn đốn đều có mặt họ bên cạnh. Ngày bạn ra tù, họ rủ đến vầy cuộc nhậu, chén tạc chén thù, say túy lúy càn khôn suốt một ngày. Biết hoàn cảnh bạn khó khăn, họ gợi ý giúp mở quán nhậu rồi phân công người mua xốp về làm thùng đựng nước đá, người giúp gỗ đóng bàn ghế, sau đó dẫn bạn đến giới thiệu các đề-pô bia, rượu, thuốc lá mua trả gối đầu với giá đặc biệt. Sau cùng họ góp tiền lại cho bạn mượn vốn làm ăn. Vợ người chủ quán nhìn họ bằng ánh mắt cảm động, biết ơn. Riêng với họ chẳng bao giờ nhọc lòng bận tâm. Họ làm nghĩa cử giúp bạn một cách thản nhiên như uống một ly rượu, hút một điếu thuốc.

IV
Một buổi sáng mùa hè năm 1986, trong ngôi quán bất đắc dĩ được cải biến từ căn nhà ở nằm trên đường Huỳnh thúc Kháng, một người đàn ông cao gầy, đội nón lá rách toe vành, mặc chiếc áo bạc màu sờn vai đẫm ướt mồ hôi, có những quầng muối trắng loang lổ còn in lại trên lưng - Người đi bán củi dạo. Thấy chủ quán bước ra, ông khẻ chào. Bà vợ chủ quán nói:
- Củi ông nầy bán đượm lửa mà giá lại rẻ hơn mấy mối trước. Anh vào lấy tiền trả giúp em. Khi người chủ quán trở ra ngồi đếm tiền trả ông bán củi mà trong lòng anh cứ ngờ ngợ, hình như quen thuộc với ông nầy lắm. Khuôn mặt xương xương, cái miệng hay cười toét, vầng trán rộng hơi vồ đầy vẻ bướng bỉnh với mái tóc lờm xờm biếng chải, muối nhiều hơn tiêu... Tất cả dường như gần gũi lắm nhưng người chủ quán cố nhớ mãi vẫn không ra. Chợt nghĩ ra được một điều. Chủ quán bước đến chổ quầy hàng, vói tay lấy chai rượu và hai chiếc ly nhỏ. Anh rót mời người bán củi và nói:

- Rượu gạo 100%, uống không bị nhức đầu. Anh dùng thử một ly nhé.

Đón ly rượu, ông bán củi không khách sáo chiêu thử một ngụm. Cái miệng bỗng nở toét ra vẻ khoái trá. Người chủ rót thêm và gợi chuyện:

- Anh ở đâu? Sao ít thấy qua lại đường nầy.
- Tôi ở Nại Hiên. Mới hành nghề bán củi dạo, kiếm cơm qua ngày.

Giọng nói dửng dưng, khuôn mặt bình thản, ông tiếp tục uống rượu đốt thuốc. Chủ quán lại nói tiếp:
- Tôi cũng có vài người bạn nhà ở Nại Hiên, trước đây học cùng trường Tây Hồ.
- Tôi cũng học Tây Hồ. Bạn anh tên chi?
- Tên Châu... Nhưng đã chết lâu rồi.
- Tôi cũng tên Châu, Nguyễn thanh Châu.

Chủ quán mở to mắt nhìn chăm chăm người đàn ông ngồi đối diện, miệng hỏi dồn dập:
- Châu “Lôi Hổ”?

Khuôn mặt ông bán củi chợt thoáng buồn:
- Hổ lôi thì có, chứ làm gì còn hổ sấm sét nữa.

Người chủ quán xô ghế đứng bật dậy, dang hai tay chụp vào vai ông bán củi lay mạnh, giọng thảng thốt, ướt sũng xúc động:
- Đúng là Châu, Châu điên đây rồi. Mi còn sống hả? Tau là Luyến, Luyến lồi đây.

Nghe tiếng la lớn, vợ người chủ quán bỏ bếp chạy vội lên nhà trên. Đôi bạn ngày xưa đang ôm choàng nhau cảm động, thổn thức trước cặp mắt ngơ ngác của bà.

* * *

Chín giờ sáng hôm sau. Trong ngôi quán bất đắc dĩ đã diễn ra một khung cảnh tình nghĩa, ấm cúng. Bảy người đàn ông trung niên thuộc đủ mọi thành phần buôn bán, làm thuê, mánh mung hay mới ra tù, ngồi quây quần quanh chiếu nhậu, bên những chai rượu, chai bia và một mâm thức nhắm thịnh soạn do chính tay bà chủ nấu ra để chồng chiêu đãi người bạn thưở xưa, mang bản án 17 năm lưu đày mà cứ ngỡ đã chết mất xác từ lâu. Họ là những tay giang hồ anh em thường xuyên có mặt ở quán nầy như: Phước mèo, Đề đầu bạc, Hoàng rouleau, Sang què, Khiếu râu. Trong ngày hội trùng phùng, họ nâng ly với tấm lòng dạt dào nỗi nhớ niềm thương của những kẻ may mắn còn sống sót sau chiến tranh và tù ngục.

Rượu đầy rồi cạn, men thấm dần, họ thúc hối người bạn Biệt kích vào chuyện. Ánh mắt mênh mang, một thoáng buồn suy tư, chậm rãi nhả những vòng khói thuốc mờ nhạt, Châu bắt đầu câu chuyện 17 năm về trước ...

V
Trên cõi đời nầy ngoài tôi ra, chắc chắn không còn ai biết câu chuyện định mệnh năm xưa. Sẽ không bao giờ có ai nhớ đến cái tên Mỹ Missouri của toán chúng tôi.

Sau trận chạm súng bất ngờ, ba bị cọp ăn, một tử hình, toán sáu người chúng tôi chỉ còn sống sót lại hai đứa. Tôi và Lô viết Cầu bị bắt trói quặt cánh khuỷu, rời khỏi vùng tử địa có bốn xác chiến hữu chết không toàn thây. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi phải gồng mình chịu cái nóng ngột ngạt, khô cháy của gió Lào ban ngày và cái rét kinh khủng, buốt xương của núi rừng Trường Sơn ban đêm. Cuộc hành trình về nơi lưu đày tưởng chừng bất tận. Ban đầu còn khỏe, ý nghĩ đào thoát cứ lởn vởn trong suốt đoạn đường đi qua. Dần dà bị đói khát, gian khổ, bệnh tật hành hạ, cái chết không còn là nỗi ám ảnh ghê gớm nữa. Tôi nghĩ, đôi khi cái chết đòi hỏi phải có ý nghĩa, nhưng trong tình thế hiện tại thì cái chết chẳng còn nghĩa lý gì nữa khi phải sống với hoàn cảnh nhục nhã, tồi tệ như thế nầy. Có thể cái chết sẽ làm chúng tôi bớt đau khổ hơn là sống hèn, sống nhục. Nhưng kẻ địch không để chúng tôi có cơ hội. Hiếm lắm chúng mới bắt được một người lính quốc gia chứ đừng nói chi là thứ Biệt Kích đặc biệt. Do vậy không những chúng canh phòng nghiêm ngặt ngày đêm, mà còn tỏ thái độ thù hằn căm ghét đến thậm tệ nữa là khác.

Một tháng sau chúng tôi đến Quảng Bình, vùng đất khô cằn sỏi đá của địa đầu “Xã hội chủ nghĩa”. Tôi thấy người dân ở đây cũng thiếu thốn, khổ cực như người tù, chỉ khác là họ không bị trói thúc ké như chúng tôi. Kế tiếp, xe bộ đội chở hai đứa về Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông. Ngày xưa, nơi đây đã một thời nổi tiếng bánh cuốn Thanh Trì và bài thơ “Áo lụa Hà Đông” được Ngô thụy Miên phổ thành nhạc, đã thâm nhập sâu sắc vào lòng mọi người và dòng văn học nước nhà. Tất cả những ấn tượng đẹp đẽ của xứ sở nhiều giai thoại nầy bỗng chốc tiêu tan trong lòng người tù binh trẻ khi nhìn thấy hàng chữ “Xà lim Bộ Công an” đập vào mắt. Đó là khởi đầu của năm tháng lưu đày kinh hoàng, là thời gian của cùm gông đọa đày, là triền miên trong đói rét nhục hình.

Từ đó, cuộc đời hai đứa tôi hầu như có mặt cùng khắp ở các địa ngục trần gian như: Nhà tù Vỉnh Quang, Tân Lập, Hồng Thắng, Thanh Phong. Những nơi đi qua, tôi đã thấy hàng ngàn bộ xương còn thở, còn đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống. Những thây ma biết cử động, những cái bóng im lìm mỗi ngày một gày gò tiêu hao, từ thể xác đến tâm hồn. Cứ thế cho đến một lúc, những kẻ bất hạnh bỗng biến mất vĩnh viễn trên cõi đời. Họ ra đi lặng lẽ cũng như họ đã sống cuộc đời lặng lẽ. Tất cả bình thường, tự nhiên từ cái chết đến cả sự mơ ước một ngày được trả tự do, dần dần rồi cũng dửng dưng, bình thản chẳng hề bận tâm suy nghĩ.

Ngày tháng tù, những người lính chúng tôi xem nhau như anh em một nhà, không cho phép ai nghĩ điều gì khác ngoài tình đồng đội, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ nhau để sinh tồn. Nếu địch muốn chúng tôi chết thì phải cố mà sống. Nếu họ muốn chúng tôi sống hèn thì phải bảo ban, nhắc nhở nhau sống cho dũng cảm, hiên ngang để xứng đáng với tinh thần bất khuất của người lính từng xem nhẹ sinh tử và thấu đáo lẽ sống chết vô thường. Những khi chập chờn nửa mê, nửa tỉnh, phiêu hốt trôi nỗi trong các phòng biệt giam khủng khiếp của nhà tù, chúng tôi đã kiên trì vận dụng nghị lực để chế ngự bất hạnh, cố tập trung suy nghĩ, mài giũa ý chí bằng hùng khí và lý tưởng. Đó là phương pháp tự rèn để tồn tại. Chính nhờ vậy nên đã nuôi dưỡng mạng sống cho hàng chục chiến hữu chịu cùm gông suốt hai mươi năm, hăm lăm năm như Quách Rạng, Nguyễn văn Hợp, Hà văn Chấp, Lê văn Tụng, Đinh Anh, Bùi văn Tư... được tồn sinh để có ngày trở về. Phải chăng đó là phép lạ nhiệm màu, là sự phấn đấu bền bỉ kiên cường của những con người yêu chuộng lẽ sống thiêng liêng.

Sự độc ác, dối trá và ngu xuẩn của kẻ thù chỉ có thể làm nung nấu lòng người tù càng sống khí phách, quật cường hơn nữa với năm tháng lưu đày vô hạn định.

Bọn cán bộ làm sao hiểu được điều đó. Đầu óc chúng rỗng tuếch, đần độn như hình nhân Rôbô thì làm sao có thể cải hóa được những con người thừa nhiệt huyết, dũng cảm và cứng đầu, dẫu rằng chúng có thể dày xéo cả tinh thần lẫn thể xác chúng tôi. Người Cộng sản ngây thơ cứ nghĩ rằng khi đã hành hạ người ta bằng đủ thứ nhục hình là đã khuất phục được. Họ nhầm lẫn khi thấy chúng tôi im lặng. Họ đâu biết rằng những điều nói ra với chúng tôi chỉ là nước đổ lá môn, có khi còn bị ép-phê ngược lại là đằng khác. Điển hình như câu chuyện ngốc nghếch sau đây:

“Năm 1973, Cục quản lý Trung ương Hà Nội đến trại. Buổi chiều, lúc xếp hàng điểm danh vào phòng, chợt thấy một người từ Ban chỉ huy đi xuống, vừa đi vừa nghe phát thanh từ chiếc radio nhỏ mang trên vai. Cán bộ trực trại ngẩn mặt nhìn ra vẻ ngưỡng mộ lắm rồi quay sang chúng tôi, anh ta vênh váo nói: chỉ cán bộ cao cấp cách mạng mới có được tiêu chuẩn ưu đãi những thứ quý hiếm như 3Đ đó, chứ ngụy các anh thì cả đời cũng không có được. Thoạt nghe qua chúng tôi ngẩn ngơ không hiểu, nhưng khi được tên cán bộ giải thích thì mới bật ngửa ra, không nhịn được phải phát cười rộ lên. Thì ra 3Đ đó là: đạp, đồng, đài. Thời điểm đó, xe đạp, đồng hồ và radio là niềm mơ ước to lớn của cán bộ và nhân dân miền Bắc, trong khi đối với miền Nam thì những thứ đó thật quá tầm thường, nhỏ nhoi làm sao”.

Còn khối chuyện ngu dốt của bọn cai tù làm chúng tôi khinh bỉ và nực cười đến chảy nước mắt. Cứ thế chúng tôi lần lữa cố sống, kéo lê chuỗi năm tháng đoạn trường để chờ đợi một ngày vận nước, mệnh đời thay đổi.

Thế nhưng, ngày tang thương tháng Tư năm bảy lăm đã bóp chết tất cả mọi niềm tin mà chúng tôi ôm ấp, nuôi dưỡng hàng chục năm qua. Ngày miền Nam thất thủ đã nổ ra như một quả bom có sức hủy diệt mọi hy vọng trong lòng người bị lưu đày biệt xứ. Ngày hôm đó trời đất như cũng đồng cảm với tù, trở nên u ám ảm đạm như lòng người sầu thảm, héo hắt. Câu thơ thuộc nằm lòng của Thi hào Nguyễn Du hồi còn đi học “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đến nay tôi mới cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu của nó. Đêm nằm thao thức, nghe tiếng thở dài vang lên từng chập. Người bạn tù bên cạnh cũng trằn trọc, thao láo đôi mắt, buồn bã nhìn ra dãy núi Tam Đảo chập chùng sương khói trắng đục, câm nín chẳng thốt nửa lời. Đất trời đêm ba mươi tháng Tư nầy sao mà ảm đạm, thê lương lạ lùng. Gió khuya trở giấc vọng về tiếng rít gào, mây đen kịt từ đâu kéo đến che lấp cả vầng trăng hạ tuần, mờ mờ ảo ảo, le lói những ánh ma trơi. Cảnh vật xao xác cũng giống lòng người đòi đoạn như bốn câu thơ:

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ....”

Quê hương chúng ta chiến tranh ròng rã, hết đời ông đến đời cha rồi đến đời con cháu. Hết đánh giặc ngoài lại xâu xé với thù trong. Người chết lên đến con số triệu. Xương cao thành núi, máu chảy tựa sông. Nơi đâu cũng đầy rẫy tiếng kêu gào của oan hồn uổng tử.

Sau bảy lăm, kẻ thù lại có thêm cơ hội lên mặt huênh hoang, đắc chí của kẻ vừa chiến thắng. Miền Nam thất trận, chúng tôi tắt đi tất cả niềm hy vọng còn sót lại. Thêm tám năm tù nữa, tôi sống quằn quại trong nỗi đau thua trận mới nhưng đồng thời cũng có cơ hội để kiểm chứng thật kỹ những sai lầm của kẻ chiến thắng. Trình độ dân trí và sự ngu dốt không thể tưởng tượng nỗi của kẻ thù chính là sự sai lầm của chế độ Xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Thế mà đau đớn thay, kẻ bại trận lại là chúng ta.


Cuối năm 1984 tôi được ra tù. Tất cả đều xa lạ, ngỡ ngàng. Con đường ngày xưa vào đất địch gian nguy chẳng hẹn ngày trở lại. Con đường hôm nay cũng chẳng khác gì mấy, hun hút trời mây, mịt mờ vô định. Có khác chăng là mái tóc xanh ngày xưa bây giờ đã lốm đốm bạc mầu, thân hình ốm o già cỗi. Bao nhiêu năm lê lết trong những trại tù khổ sai không thấy mặt trời, sống với một bầy lang sói hóa thân thành bọn cai ngục. Không sách báo, không ánh sáng văn minh, không phố phường đô thị ... vô vàn cái không khiến con người tôi trở thành đần độn.

Hai ngày hai đêm thao thức, vài lần đổi tàu xe, tôi mới đặt chân về tới quê nhà. Phố xá nhiệt náo xô bồ. Nhịp sống chuyển động hối hả, bon chen khác xưa, con người thì lạnh nhạt và xa lạ hơn. Chỉ riêng dòng sông Hàn vẫn thủy chung như ngày nào, êm ả hiền hòa trôi ra cửa biển Tiên Sa. Kỷ niệm học trò đầy ắp chợt hiện về. Một góc trời quê hương, một bến sông tuổi thơ và tháng ngày vô tư ngụp lặn thỏa thích trong dòng sông mộng mị. Cái ngổ ngáo pha chút lãng mạn của người lính năm xưa bỗng chốc sống lại. Tôi tìm chỗ vắng trên Bến Mía, nhảy ùm xuống làn nước ngọt ngào tình quê, đắm mình trong thứ hạnh phúc vay mượn mong manh nhưng rất thật. Đầu óc vẩn vơ ý nghĩ là để gọt rửa sạch sẽ những cát bụi bẩn thỉu của cuộc đời phong trần đã áp đặt lên số phận tồi tệ, bất hạnh của mình. Tôi muốn tìm lại cho tâm hồn đôi chút bình an và hơi hướm một thoáng hạnh phúc thần tiên của thiên đường tuổi thơ vô tư yêu đời, đầy ước mơ với trang giấy trắng tinh khôi có hoa và bướm của thưở học trò.

Con đường ngắn ngang qua Cổ Viện Chàm dẫn về làng Nại Hiên nay không còn nhận ra được nữa. Nhiều người đi qua, họ nhìn kẻ mặc áo tù với vẻ hững hờ pha chút tội nghiệp. Tất cả đã đổi thay xa lạ, không còn ai nhớ ra tôi nữa. Tôi bật cười chua chát. Quả thế, chuyện đời đổi thay, có đôi khi mình còn không nhận ra chính mình nữa thì làm sao cuộc đời có thể dung chứa được hết thảy mọi con người trong cuộc bể dâu.

Đêm hôm đó tôi có mặt trong ngôi từ đường của tộc Nguyễn thanh. Bên cạnh, cha tôi đứng trầm ngâm như mặc niệm trước di ảnh tổ tiên. Mẹ tôi thì sụt sùi mãi từ lúc tôi mới bước về. Chỉ có mỗi hai Người là không xa lạ với tôi. Nhìn thằng con trai từ cõi chết bao nhiêu năm bỗng hiện về, rồi nhìn tấm ảnh của tôi đặt trên bàn thờ nhang đèn hoa trái đầy đủ, mẹ tôi cứ khóc ngon khóc lành. Bà vuốt ve, sờ nắn tôi như ngày còn bé dại. Mẹ nói nhìn thấy tôi còn sống như nằm mộng gặp chiêm bao. Lối xóm nghe tin ùn ùn kéo đến thăm hỏi chật nhà. Vài thằng bạn thua trận may mắn còn sống sót, nay thất cơ lỡ vận đi làm thuê làm mướn, đạp xích lô xe thồ, hùn tiền kéo tôi vào quán nhậu bình dân, chén đầy chén vơi, chén mầy chén tau, cạn đến mềm môi. Vài tuần sau tôi theo chúng nó, rồi cùng một kiếp cu li lê lết kiếm sống, đoạn tháng qua ngày.

Châu ngửa cổ tợp một hớp rượu lớn, đặt ly không xuống chiếu rồi thở dài. Anh trầm ngâm đốt thuốc rít vài hơi rồi tiếp tục câu chuyện cuộc đời:
- Đã nhiều năm kẻ thù đặt ách cai trị độc tài, bạo ngược lên đầu lương dân miền Nam.. Ngẫm cho cùng, tôi nghĩ đến nay chắc họ cũng đã hiểu ra một điều: họ chẳng bao giờ là kẻ chiến thắng. Giờ đây họ đã tận mắt nhìn rõ bộ mặt thật đẹp đẽ của miền Nam. Cuộc sống ấm no tiến bộ, nhà cửa tiện nghi và xã hội văn minh khác xa những lời tuyên truyền bịp bợm, dối trá của bọn đầu gấu cộng sản. Sự thật oái oăm khiến họ thức tỉnh, mới biết mình bị đảng lừa một cú cay độc. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật chiến đấu gian khổ, đến lúc chiến thắng mới bật ngửa ra là họ còn thua cả người dân nghèo miền Nam từ vật chất lẫn tri thức và nhiều phương diện khác. Hàng ngũ lãnh đạo vô học, dốt nát nhan nhản trong các cấp đảng bộ cầm quyền làm gì họ không biết.

Té ra kẻ chiến bại không phải ai khác lại chính là họ. Những người “đồng chí lớn” đểu giả của họ cộng thêm sự bịp bợm của chế độ đã dồn đuổi họ vào con đường phẩn nộ và đến một lúc mất hết niềm tin, họ bắt đầu quay trở lại chống đối kịch liệt. Lần nầy thì những con người cách mạng, ngày xưa chỉ biết tiến lên bằng mũi súng, ngày nay đã bị một vết nội thương trí mạng như tâm chưởng mà không hề thấy máu chảy ra bên ngoài cơ thể. Những kẻ huênh hoang chiến thắng trong Bắc bộ Phủ lại có thêm những kẻ thù mới, xuất phát từ trong hàng ngũ của họ như: Trần Độ, Bùi Tín, Hoàng minh Chính, Đặng kiên Giang, Phạm quế Dương, Nguyễn thanh Giang...

Riêng tôi, sau ngày trở về đã trở thành cái gai nhọn đáng ghét trước mắt công an. Họ bắt lên đồn viết báo cáo, răn đe rồi trình diện hàng ngày. Mặc, tôi vẫn thản nhiên sống. Mắt luôn luôn nhìn thẳng vào họ khi đối diện. Nhiều lần quá họ đâm nhợn, lâu dần rồi cũng lửng lơ con cá vàng... họ lảng đi. Họ ngây thơ quá, làm sao hiểu được những điều suy nghĩ trong cái đầu chai sạn của người tù lưu đày biệt xứ mới trở về. Tôi không muốn trở thành địch thủ của những kẻ háo thắng, vừa ngu xuẩn lại vừa ấu trĩ như những đứa bé chưa ráo máu đầu, mới bước chân chập chững vào cuộc đã may mắn có sẵn chiến thắng trong tay. Miền Nam thua trận vì có nhiều sai lầm nhưng chắc gì những kẻ chiến thắng miền Bắc đã không mắc phải sai lầm lớn hơn? Điều bất hạnh nhất là quê hương sau cuộc chiến được xếp vào hàng nghèo đói, lạc hậu và tham nhũng nhất thế giới. Đời sống người dân lao động muôn vàn cơ cực nhưng vẫn không đủ ăn mặc. Trẻ con thất học. Xã hội suy đồi. Lỗi ấy thuộc về ai? Câu hỏi xin dành lại cho lịch sử luận tội và phán xét những người có trách nhiệm từ cả hai phía đối nghịch. Có điều tôi biết chắc chắn rằng Việt Nam chỉ là một canh bài được sắp sẵn trên chiếu bạc quốc tế. Chiến thắng của kẻ thù không phải vì thiện chiến hơn chúng ta, nhưng họ có chổ tựa vững chắc cộng thêm sự may mắn và dã tâm tráo trở, phản bội của cả hai khối Quốc Cộng.

Trận chiến đã tàn. Cuộc thư hùng đã kết thúc. Cho đến nay toán chúng tôi chỉ còn sót lại mỗi mình tôi. Lô viết Cầu rồi cũng đã chết vì bị sốt ác tính vào năm 1984.

Hôm nay tôi không là cái gì hết, đơn giản chỉ là một người lính muốn nói lên những suy nghĩ của đời người vận nước; Chỉ là kẻ đứng chông chênh ngoài xã hội, bên lề cuộc đời, là chứng nhân của một cuộc bể dâu tang thương để ghi nhận thêm cho lịch sử quốc gia, dân tộc sự chuyển mình sang một trang mới với nhiều nỗi bẻ bàng, đau xót và phiền muộn. Thời gian rồi cũng dần phôi phai đi. Tôi rồi cũng sẽ một ngày trở về với cát bụi, nơi chốn cội nguồn, một thứ quê hương cuối cùng trong tâm linh người sống. Nhưng, lịch sử sẽ là vỉnh viễn, là bất tử với thời gian. Tốt, xấu, đúng, sai rồi phải có một ngày được vạch trần hẳn hoi ra ánh sáng. Sự thật lịch sử sẽ được hoàn nguyên và chúng ta hãy vững tin chờ đợi ngày ấy ắt đến không xa.

Với các bạn, lời tâm tình thân thiết của tôi là mãi mãi chỉ muốn làm một người lính trọn trung, trọn nghĩa, trọn tình với quốc gia, dân tộc. Và tôi dám xác quyết với các bạn rằng, tôi không có điều gì phải ân hận, hối tiếc khi đã chọn làm một người lính quốc gia chân chính như đã từng chọn trước đây.

VI
Phải đến năm 1995 gia đình anh mới đặt chân được đến Mỹ. Nghe anh kể thì suýt chút nữa lại bị Mỹ chơi đểu, bỏ rơi thêm lần thứ hai.

Lần thứ nhất vào năm 1973 tại hòa đàm Paris, trong điều khoản cam kết về việc trao trả tù binh, các anh bị gạt ra khỏi danh sách vì Mỹ không thừa nhận BK là người được họ huấn luyện, trả lương và thực hiện các kế hoạch hành quân trong cuộc chiến bí mật. Các anh đã sớm bị người bạn Mỹ gian trá phản bội, trước khi hiện rõ bộ mặt trơ tráo bán đứng miền Nam, trắng trợn bỏ rơi chiến hữu.

Hồ sơ bí mật BK nằm kín trong văn khố Ngũ giác Đài chưa hề một lần được giải mật. Phải đợi nhiều năm sau, đến lúc chương trình H.O ra đời và những người lính Việt Nam hoạt động bí mật bên kia bức màn sắt còn sống sót được thả về, lần lượt ra đi tỵ nạn và có mặt trên đất Mỹ thì nội vụ mới được một số người Mỹ chân chính đưa ra ánh sáng. Tác phẩm”Secret Army, Secret War” của Segwich Tourison, cựu nhân viên tình báo lục quân Mỹ được ra đời ngay vào thời điểm đó đã phơi trần tất cả sự thật bỉ ổi của chính quyền Nixon. Đồng thời trong dịp Đại Hội ra mắt Gia Đình Biệt Kích VN tại tiểu bang Georgia vào tháng 10 năm 1995, S. Tourison là diễn giả người Mỹ duy nhất đã thuyết trình và trả lời bằng ngôn ngữ tiếng Việt, thông suốt tất cả các câu hỏi có liên quan đến những hoạt động vượt tuyến trong cuộc chiến tranh ngoại lệ VN.

Cùng thời gian đó, một tập thể luật sư hùng hậu của ông John Mattes đã phát đơn kiện chính phủ Hoa Kỳ bội tín, bỏ rơi các quân nhân BKVN. Hội đồng lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định giải mật các hồ sơ có liên quan đến vấn đề nầy. Sau đó các quân nhân BKVN hiện đang sống trên đất mỹ được mời đến điều trần tại quốc hội vào ngày 19 tháng 6 năm 1996 và tất cả sự thật dấu diếm từ lâu đã được phơi bày ra ánh sáng. Giới truyền thông, báo chí Hoa Kỳ đồng thanh ủng hộ. Họ đưa tin, viết bài, lên tiếng công kích sự gian trá của chính quyền Mỹ thời đó và đòi hỏi chính phủ phải hoàn trả tiền lương 20 năm cho những BK bị họ bỏ rơi. Những chiến sĩ Kinh Kha thời đại VNCH được hồi sinh như những anh hùng. Đó chính là giá trị đích thực của lòng yêu nước, của sự hy sinh cao cả không hề tiếc máu xương của những chàng trai đất Việt yêu chuộng tự do, công lý và dân chủ. Đó chính là lòng dũng cảm, sự cao thượng của trai trẻ VN, sẵn sàng sống cho tha nhân và chết cho dân tộc.

Số tiền bốn mươi ngàn mỹ kim bồi thường cho một người lính BK so ra chẳng nghĩa lý vào đâu đối với sinh mạng quý giá của con người. Cái may mắn to lớn nhất đối với họ là còn sống trở về với cha mẹ, vợ con, những người thân yêu đã hàng bao nhiêu năm mỏi mắt chờ trông. Phần thưởng tinh thần mới chính là những cái thật sự họ cần thiết. Bốn mươi ngàn đô la đối với họ, những người lính kiêu hùng, chỉ là bãi nước bọt nhổ vào mặt những tên điếm đàng buôn bán chiến tranh như Nixon, Kissinger ... bắt chúng phải cúi đầu nhận tội phản bội. Bốn mươi ngàn đô la là cái đấm thôi sơn vào những bộ mặt trơ tráo đã một thời mật ngọt, giả nhân giả nghĩa, là sự vạch trần cho thế giới biết rõ về bản chất gian manh của những tên hoạt đầu chính trị trên một xứ sở dư thừa bơ sữa nhưng thiếu thốn tình người. Những người lính BK đã tự hào sống xứng đáng là một con người Việt Nam chân chính.

VII
Đến nay chiến tranh đã đi qua, thiên hạ gặp nhau, nhìn nhau, tất cả đều bình thường như nhau. Duy chỉ có những người trong cuộc mới hiểu được mình. Do vậy, chẳng lấy chi làm lạ khi bầy con trẻ vẫn thường nghe cha chú nhắc đi nhắc lại hoài chuyện ngày xưa. Chỉ những giây phút đó họ mới thật sự sống trọn vẹn cho chính mình.

Hôm nay, trên những nẻo đường luân lạc của kiếp người lưu vong, họ xóa sổ làm lại từ đầu, bôn ba tần tảo kiếm sống. Thời gian rỗi rảnh họ dành cho mớ hoài niệm quá khứ với nhiều vết tích đau thương còn hằn sâu trên da thịt quê hương, dân tộc và chính bản thân mình. Trong lòng họ không hề hối tiếc hay oán trách những lần ra đi sống chết trong nguy nan cuộc đời, dù họ đã bị phản bội, dù họ đã từng chết đi sống lại.

Trăng ở đây không sáng bằng những đêm trăng ở quê nhà. Đã bao nhiêu lần họ nhìn thấy lại hình bóng của chính mình. Ở đó có hạnh phúc, thương đau ... khởi đầu từ một thời son trẻ cho đến cuối chặng đường trăng khuất. Đời người rồi cũng đã trôi qua mau như ánh đèn, như gió thổi, như mây bay, như chiêm bao. Tất cả đều là phù vân. 

Tiên Sha - Lê Luyến 

Blog Archive