Thursday, June 25, 2009

Tôi đọc Thảo Trường.

Nguyễn Mạnh Trinh.

Có những truyện của Thảo Trường tôi đọc ít nhất là vài ba lần đến gần như thuộc lòng. Khi thì ở các tạp chí văn học , lúc thì ở những tập sách mỏng mà ông tự xuất bản như”Ðá mục “, như “Tiếng thì thầm trong bụi tre gai “, như “Miểng”, hoặc khi trong tuyển tập “ Những miểng vụn của tiểu thuyết’. Mỗi lần đọc , là một lần trải qua những cảm giác khác nhau. Bâng khuâng có, kinh ngạc có,thích thú có, và niềm chua chát như tâm sự của ai, những người lao đao trong con lốc thời thế cũng có. Những nhân vật hình như hồi sinh nhiều lần theo mỗi lúc gập cuốn sách lại và cuộc sống ấy bao la quá đến nỗi cách diễn tả như có một điều gì chưa toàn vẹn.

Không hiểu tác giả đã mang cái thực và cái ảo pha trộn như thế nào nhưng trong tâm tư của người đọc là tôi có cảm giác là một đời sống khác được tạo dựng lạ lùng nhưng lại quen thuộc . Một đời sống của nhiều người cùng thế hệ cô đọng lại thành một. Không phải là người kể truyện, mà cũng chẳng phải là người viết lại hồi ký đời mình. Thế mà tôi tưởng như đã đọc lại những trang nhật ký của cả một thế hệ Việt Nam mà cả tác giả và cá nhân tôi cùng sống và cùng hít thở cũng như mơ mộng trong nỗi niềm chung mang trong một thế gian của tận cùng nỗi đau của những con người bị hạ xuống đến gần hàng súc vật. Thảo Trường đã viết những câu như: “Trại còn mười hai tù binh, mười sáu công an, hơn bốn trăm con bò. Công an giữ tù. Tù giữ bò. Cứ như thế mà thống trị nhau.Nhưng luôn luôn cái gì ít thì có giá, ở đây tù ít hơn công an, bò nhiều hơn tất cả cho nên công an gọi tù là các Bác hoặc các Bố, còn bò thì cứ bị giết thịt hoài! Từ trước tới nay, công an vẫn gọi tù là anh xưng tôi, đồng hạng dù người tù ấy bảy, tám chục tuổi còn công an mới mười chín, hai mươi! Kể ra vai vế thì phải là ông cháu, phúc đức dày thì phải là cụ cháu. Nhưng thời nay phúc đức rất là mỏng.” ( trong truyện ngắn Con Bò )

Khi tác giả in “ Những miểng vụn của tiểu thuyết “, đã có rất nhiều người viết về tác giả và tác phẩm ấy. Rất nhiều ý kiến , rất nhiều phân tích, nhưng tựu chung đều là những chia sẻ sâu sắc và những nhận định thấu đáo.

Như nhà văn Phạm Xuân Ðài: ”Từ khi đọc Thảo Trường tôi lại say mê những chuyện trong tù.Tôi không chắc Thảo Trường viết được như vậylà nhờ ở tù lâu hơn tôi. Tôi chỉ có thể nói là ông viết chuyện tù quá hay..” .

Hay nhà thơ Trần Dạ Từ: ”’Những miểng vụn của tiểu thuyết” là một tác phẩm lớn và cổ điển. Nhìn hình bìa do hai họa sĩ Nguyễn Ðồng và Nguyễn Thị Hợp là đủ thấy(?)mà cổ điển nghĩa là bất tận(?)..”

Hoặc nhà văn Huy Phương:”Tôi không cho là Thảo Trường thất bại. Ông đã cố gắng đem cả cuộc chiến vào tác phẩm nhưng không được. Nhưng cuối cùng ông đã “ nhốt “ cuộc chiến vào khi ra tù người ta gọi ông bằng bác, có lẽ vì tóc ông bạc, nhưng không, ngày nào ông còn làm việc với cái máy điện toán là ông còn sức sống. Tôi xin mượn câu nói của một tên tù hình sự nói về ông tù già trong một câu chuyện của Thảo Trường. “Bác” không thuộc về chế độ nào nữa, bác thuộc về lịch sử.Bác Thảo Trường ơi!Bác cũng vậy.Mai sau đến lúc người ta phải công nhận nền văn học hải ngoại này, bác không còn là nhà văn của chế độ nào nữa. Bác thuộc về lịch sử.Chúng tôi hãnh diện vì có bác.”

Hay nhà thơ Ðỗ Quý Toàn:”Ðây là một cuốn sách sẽ tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Ðây không phải là tuyệt tác nhưng có nhiều đoạn tuyệt tác. Về tay nghề Thảo Trường là lão luyện. Sự thành công của nhà văn là sau 100 năm người ta có còn đọc mình hay không như cụ Nguyễn Du 300 năm sau vẫn còn có người đọc. Khi đọc Thảo Trường cách nay 40 năm tôi đã cảm thấy văn của ông sẽ sống. Và giờ đây tôi chắc là 100 năm sau người ta vẫn đọc ông. Ðọc Thảo Trường chúng ta thấy sức sống của một người khỏe mạnh. Trong lúc đấu tranh ,cho dù vui buồn ,ở đâu cũng thấy sự sống, ngay cả trong cái chết cũng có sự sống.Thí dụ, câu chuyện về người đàn bà Ðồng Tháp, cuối cùng cũng có một đứa bé ra đời.”

Nhà văn nữ Ðặng Thơ Thơ thì:”tôi đi vào thế giới những miểng vụn của nhà văn Thảo Trường với tư thế của một người đi truy lùng quá khứ. Tôi cầm trên tay cuốn sách này, quá khứ của nó nặng trĩu hơn nửa thế kỷ. Nhà văn Thảo Trường, vốn sống của ông khủng khiếp, 17 năm vừa tham dự chiến tranh Việt nam vừa sáng tác, 16 năm 4 tháng 4 ngày trong những trại lao tù khổ sai ,15 năm lưu vong ngoài quê hương để viết về những kinh nghiệm sống của mình. Ba yếu tố chính làm nền tảng và chủ đề cho mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của ông là chiến tranh, lao tù và hội nhập..”

Tôi cũng là một người đọc muốn viết lên cái cảm nghĩ thô thiển của mình khi tiếp cận với văn chương của ông. Nhưng rốt cuộc tới gần cả năm sau mới hoàn tất được một bài viết nhỏ.Chẳng phải tôi không có hứng thú để viết mà cũng chẳng phải tác phẩm của nhà văn Thảo Trường không lôi cuốn tôi. Trái lại là khác. Không biết có phải vì chính tôi sợ không diễn tả được những chuyên chở của tác phẩm. Và cũng có thể, tôi không muốn mình là một trong đám đông ấy.Tôi muốn tìm kiếm cho được những nét khác thường của tác phẩm và tác giả Thảo Trường. Nhưng xem ra , chủ đích ấy vẫn chưa hoàn toàn đạt được.

Nhiều người đã đồng ý rằng văn phong của ông có một cá tính riêng và không gian thời gian cũng như nhân vật của ông đối với mọi người gần mà xa, tưởng như hiển hiện trước mắt mà xa ngàn trùng. Thời gian không chỉ ở ba thì quá khứ , hiện tại và tương lai mà còn có những thời khắc mà hai chân của một người lại đứng ở hai mốc điểm khác nhau và sự phân cách chỉ là một đường ranh mờ nhạt. Một điều lạ lùng, cái không gian thời gian ấy có lúc tưởng gần kề như mới hôm qua và trong cái sinh động hôi hổi ấy lại có sự trầm lắng của những cảm quan có một thời kỳ tích chứa lâu dài..

Có lần tôi phỏng vấn nhà văn Thảo Trường. Khi đề cập đến phong cách viết của mình, tác giả “ Những Miểng vụn của tiểu thuyết “ bày tỏ:

“Tác phẩm là sáng tạo, nhưng đây đó có những chuyện giống giống người này người kia hay nhân vật trong truyện xưng tôi thì cũng không có nghĩa nhân vật là tác giả .Tất cả những gì mà cuộc sống của tôi đã trải qua, những gì mà tôi chứng kiến , những gì mà tôi nghe kể lại và những gì mà tôi đọc được ở sách vở thì đều có thể là chất xúc tác khi xây dựng tác phẩm. Có khi tôi lượm nhiều mẫu đời vụn ở nhiều nơi nhiều lúc sắp đặt vào một nhân vật. Ðã có một người anh họ nói đùa với tôi: ”Coi chừng kể cho nó nghe nó lại "phang” mình vào trong truyện thì bỏ mẹ! “ Cũng có khi tôi đem những cái mà mình gán vào một nhân vật nào đó, như là mình cho mượn vậy, bởi vì chính mình, đã có khi phải đi mượn những mối tình của người khác đặt vào chỗ của mình. Riêng đời tôi, tôi chưa làm tác phẩm nào tự thuật. Tôi không có ý định viết hồi ký.”

Thực ra, hình bóng của tác giả lúc nào cũng phảng phất trong từng truyện. Cái quá khứ thật dài từ khi nhập ngũ vào lính đến lúc thành tù binh cải tạo đã trở thành một mảnh đất cực kỳ phì nhiêu cho bông hoa văn chương nở rộ. Tù mười bảy năm, trải qua bao nhiêu nỗi đoạn trường, thì hỏi sao thời gian ấy không ảnh hưởng khi cầm bút. Hay thời gian trong quân ngũ trước kia, lăn lóc từ chiến trường này đến sa trường nọ , biết bao nhiêu là chuyện đáng nhớ . Hay thời gian ở xứ người, một ông già lưu lạc bỡ ngỡ trước hiện tại mà tầm mắt thì luôn ngoái nhìn lại quá khứ. Cái vốn sống tích lũy được của một đời người có khi là động lực để viết nhưng cũng có khi là nỗi ám ảnh không rời.

Thành ra, không lấy làm lạ khi ông nhiều khi nhìn ngắm cuộc sống bằng con mắt đa nghi và với nụ cười chua chát. Mà sao không chua chát cay đắng cho được khi thời thế như những vệt roi hằn in trên da thịt mỗi khi đụng đến lại bỏng rát. Nhưng dù chua chát tình đời, dù thiên hạ vẫn đầy ứ những quân gian tà, tâm của ông vẫn soi rọi vào phần thiện hơn là phần độc ác. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, có khi loài vật đối xử với nhau còn tốt đẹp hơn loài người, vẫn có những tấm lòng hào hiệp, vẫn có những người nắm tay cứu vớt người cơ nhỡ. Và không phải trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người sẽ quay mặt bỏ mặc nhau mà không giơ tay một phần chia sẻ khốn khó. Khác với nhiều tác giả viết về tù ngục Cộng sản, ông không chú trọng vào việc kể tội chế độ hiện hữu mà chỉ kể lại những chuyện thực đã xảy ra bằng phong cách của một người coi mọi chuyện trên đời như một trò đùa. Có nét của trạng thái cam chịu và cũng có nét của người đã có quá nhiều thất vọng nên bất cứ chuyện nào xảy ra cũng đều chấm dứt bẳng câu “kệ mẹ nó”. Bất cần và cứ để mặc dòng đôi trong cái khôi hài hóa mọi chuyện.

“Tôi lẩn thẩn tìm ra cho mình một cách sống mà tôi gọi đùa là “ chủ nghĩa dựa cột”, biết thì thưa thốt không biết thì dựa cột mà nghe, ai nói gì làm gì thây kệ người ta, ông bà mình dạy thế “Kệ mẹ nó !” tôi thường tự nhủ với mình thế mỗi khi phải chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt xung quanh mình. Ðược xếp chỗ nằm ngay sát cầu tiêu, tôi cũng thấy là một cái hay, đó là một chỗ không ai dòm ngó. Một mảnh đất xấu ít có nguy cơ bị xâm lấn. Mùi hôi khai ngửi riết rồi cũng quen sẽ không còn cảm thấy hôi khai nữa. Ðúng ra, nếu chú ý đến nó thì sẽ nghe thấy hôi nhưng nếu lắng nghe tất cả mọi nơi thì chỗ nào cũng hôi cả, thế cho nên lại phải áp dụng sách “ kệ mẹ nó” cho qua tất cả" ( trong truyện ngắn “Khẩu hiệu”)

Ðời sống của tác giả Thảo Trường như bàng bạc trong từng dòng chữ của ông. Ngày xưa Hàn Dũ đời Ðường đã nói” Bất đắc kỳ bình tắc minh”. Ðại phàm vật nào cũng vậy ,không được bình yên thì kêu. Cỏ cây vô thanh, gió thổi nên kêu; nước kia vô thanh, gió xô nên kêu.Vàng đá vô thanh, đánh gõ nên kêu. Người ta đối với lời nói cũng vậy có sự bất đắc dĩ sau đó mới phát ra lời , giọng ca cũng mang tâm tư, tiếng khóc cũng chứa hoài niệm. Phàm buột ra đằng mồm mà thành thanh âm đều do có sự bất bình chăng?)

Có người đã luận thêm ra cho rằng các tác phẩm văn học đều phát sinh từ mâu thuẫn giữa tác giả và xã hội. Với Thảo Trường , xã hội này là của chế độ mới , của những người chiến thắng . Và , bản thân tác giả là người bị thua trận và đời sống bị hạ thấp xuống đến nỗi ông đã có những ý nghĩ so sánh với loài vật như những con bò của trại tù.Dù , đã nhiều năm trôi qua , nhưng những hồi ức ấy cứ canh cánh trong lòng và bất cứ một ý nghĩ nào , một suy tưởng nào cũng đều có những mảng đời sống của những ngày tù ngục chen vào. Khi sống ở Hoa Kỳ , trong gia đình yên lành nhưng vẫn vướng bận những suy tư của ngày lao ngục cũ.

Trong những nhân vật của ông , bàng bạc hình dạng của người lính , người tù và người lưu lạc. Mà, hình bóng người tù hình như lúc nào cũng xuất hiện không ở mặt này thì cũng ở góc cạnh khác. Nếu nói về những ngày ở Mỹ của ông mà dùng từ “hội nhập” thì e không chính xác lắm. Có lẽ, còn lâu lắm , những người như “ông già “ Thảo Trường hội nhập được vào xã hội chuyển động tới mức chóng mặt ở xứ sở này. Mặc dù, ông là một HO may mắn, không phải đánh vật với sinh kế. Lúc trước khi nhà văn Long An còn sống , khi đến chơi ở nhà ông , anh thường gọi đùa ông là một HO ”happy”. Nhưng , câu tả chân “ trong héo ngoài tươi “ hình như vẫn đúng. Những tiếng thì thầm trong bụi tre gai ông vẫn còn nghe.Những đau đớn của người ông vẫn còn cảm thấy. Và có lúc ông đã tuyên bố ông viết văn là là công việc để đời” tương tự như việc khắc họa một chứng nhân lịch sử cho đời sau.

Thảo Trường có những nhân vật đặc thù trong tác phẩm của ông. Như đứa bé sinh thiếu tháng mà người mẹ không biết cha của nó là ai, ở bên này hay phía bên kia của “ Người đàn bà mang thai trên kinh Ðồng Tháp”. Hay đứa bé là kết quả của một cặp tù nhân làm tình với nhau giữa hai hàng rào kẽm gai và người mẹ kiên quyết giữ lại đứa con dù bị đấm đá giữa lúc mang thai của đám công an lòng dạ độc ác và trơ trơ như gỗ đá của “Những đứa trẻ đầu thai giữa hàng rào”. Ở Việt Nam, chỉ có trẻ sơ sinh mà bị tù tội vì mẹ của nó bị án.

Thảo Trường kết luận những câu chuyện bằng những dòng nhắn tin. Như đùa , như thật, ông hí lộng và tạo ra một cuộc đối thoại với nhân vật của mình. Có thể coi như một thông điệp , dù có thể rớt vào hư vô ; nhưng cũng là thông điệp để gửi cho lớp sau như” cậu thanh niên ra đời sẩy thai thiếu tháng, mang họ nhờ “ của truyện “ Khẩu hiệu “hay“ cậu nhỏ mang dòng họ cùng với tôi, hai mươi năm nữa “của“ Người đàn bà mang thai trên kinh Ðồng Tháp “.Tác giả muốn gửi theo cả những mảnh đời bị lốc xoáy theo chiến tranh. Một cuộc chiến kỳ quặc mà cả kẻ gây ra và người cam chịu đều trở thành nạn nhân.

Khi đề cập đến động lực đầu tiên thúc đẩy cầm bút thì ông giãi bày:

“ Hình như đầu tiên là nhân vật. Tôi vớ được một nhân vật nào đó ngoài đời làm cho tôi chú ý, nó bắt tôi phải suy nghĩ xung quanh nhân vật đó và những sự kiện lời nói và hành động tình tiết cùng những băn khoăn mang những ý nghĩa của đời sống, có lý hay phi lý.. Rồi có khi những ý nghĩ của mình bay về quá khứ hay mịt mùng ở một nơi xa xôi nào đó, ý nghĩ bay đi lộn lại quần thảo một hồi xong có khi sắp xếp để đấy, rồi một lúc nào đó nó lại xẹt ra, lại quần thảo. Những cơn vật vã như thế sẽ nảy sinh nhiều vấn đề , nói khác đi là có lúc nó sẽ nảy ra đề tài, một đề tài hay nhiều đề tài, loại bỏ và chọn lựa .. cho đến khi sự xúc cảm đem đến cho mình niềm thích thú thì dùng bút pháp riêng của mình mà thể hiện nó ra . Cũng có khi phải “ cất “ nó nằm yên trong “bộ nhớ” ở trong đầu mình nhiều năm, thời gian cất đi để dành này có thể “nó’ còn được nhào nặn thêm qua nhiều suy tư nữa. Trường hợp những truyện ngắn hình thành mà tôi phải “cất đi” lâu nhiều năm là những hình thành trong thời gian ở tù Cộng Sản. Qua Mỹ tôi mới thể hiện nó ra. Bây giờ tôi cũng đang đi tìm nhân vật. Tôi tìm trên đường phố ngõ hẻm, và các thành phố Mỹ ..”

Nhân vật phác họa từ con người. Có người nhận xét rằng những tác phẩm văn chương viết về ngục tù Cộng Sản không có tính trường cửu mà chỉ có tính phản ánh nhất thời một giai đoạn của cuộc sống còn viết về con người muôn năm bất biến mới là đề tài lớn. Nhưng ông lại quan niệm “ Ðúng là con người lớn và trường cửu đối với con người. Chỉ khi nào không còn con người nữa thì may ra lúc đó vấn đề mới nhỏ đi và tầm thường. Tác phẩm có thể giúp cho người ta hiểu được vào giai đoạn ấy , nơi ấy, cái thời thế ấy nó như thế.Vài ba trăm năm nữa hậu duệ của chúng ta có khi phải đi đào xới nơi này nơi khác để tìm kiếm những di chỉ hoặc là phải lúc đi tìm sách vở báo chí tài liệu trong các thư viện để xem nền văn minh Cộng Sản nó là gì. Nếu thế thì một tác phẩm văn nghệ cũng có thể chứa đựng một thế giới riêng trong cái thời đại tác giả đã sống. Mở truyện Kiều ra đọc, chúng ta biết được cái thời thế của cụ Tiên Ðiền đã sống. Vấn đề này lớn quá và phải nói dài, có lẽ phải hỏi các vị giáo sư hay các nhà nghiên cứu , phê bình”

Với tham vọng nhốt cả cuộc chiến trong một truyện ngắn nên nhiều khi ông lửng lơ giữa truyện ngắn và truyện dài. Những truyện vừa như “Mây Trôi” hay ”Từ dưới đỉnh đồi nhìn lên chân núi “ với những nhân vật mà cuộc đời của họ có thể khai triển thành một bộ trường thiên với tất cả những tình tiết.Ở “Mây Trôi“ phần đầu của truyện vừa này với hai cặp nam nữ một vợ của một anh lính bên thua trận với một anh bộ đội phía thắng nhưng mù mắt và một nữ cán bị tù quen một anh sĩ quan tù binh trong trại để thành một cặp tình nhân khi người chồng là anh thượng úy hậu cần ngậm miệng ăn tiền. Nhưng phần sau lại từ người con gái vượt biên sang Mỹ để mở ra một cuộc sống và một cuộc tình bệnh hoạn giữa một người đàn bà “bi-sex“, một chàng thủ dâm và một nàng tị nạn ngất ngơ giữa đời sống mở ra đầy phức tạp khuất khúc cả một thời gian dài và không gian rộng được ”nhốt” trong một truyện vừa nên trong cách diễn tả thông điệp để chữ nghĩa chuyên chở chưa được như ý muốn. Truyện “ Từ dưới đỉnh đồi nhìn lên chân núi “ với nhân vật nàng kiều , người chồng và người tình mở ra hai đời sống từ lúc nàng trở thành mồ côi vì chiến cuộc rồi thành người ở, rồi thành người vợ bất đắc dĩ với anh chồng khùng điên, rồi thành “gái bán bar” rồi thành me Mỹ nhưng lúc nào trong tâm vẫn nhớ người tình đầu thuở vừa mới lớn cho đến khi chồng Mỹ chết hội ngộ trở lại với người tình.Người chồng bản xứ, một trung tá Không quân Mỹ, một người giàu có nhưng lúc nào cũng muốn trốn tránh đời sống vật chất hưởng thụ dư thừa.Người tình thuở đầu đời của nàng Kiều, một sĩ quan của QLVNCH, chịu bao nhiêu cảnh tù đầy nghiệt ngã nên lúc nào cũng sống miễn cưỡng trong bất cứ trường hợp nào. Với những mẫu nhân vật như thế với đời sống phong phú như thế mà ‘nhốt “ trong chỉ hơn ba mươi trang sách và diễn tả được những nỗi niềm tâm sự kể ra là đã thành công.

Thế mà , tác giả lại viết trong bài tạp ghi ngắn:
”Hồi ở Việt Nam tôi đã viết một truyện dài( Bà Phi) khoảng hơn 2000 trang, biến cố năm 1975 bản thảo bị thất lạc, nay đã sưu tập lại gần đầy đủ nhưng chưa xuất bản.

Mười bảy năm(1975-1992) làm tù binh trong các trại giam của Cộng sản tôi luôn luôn nghiền ngẫm trong lòng một quyển trường thiên tiểu thuyết dự định sẽ viết khi rời khỏi nơi chốn đó.

Nhưng 12 năm qua tôi chỉ viết ra những truyện ngắn nếu gộp lại cũng khoảng 1000 trang in.

Truyện nào tôi cũng muốn nó thật ngắn và chứa được cả cuộc chiến trong đó, mỗi khi xong một cái, tôi lại cảm thấy là chưa đủ, phải làm cái khác, cứ thế , từ cái này sang cái kia. Bây giờ nhìn lại tôi có cảm giác ”trường thiên tiểu thuyết” của tôi đã nổ tung ra, giống như tôi đã đánh vỡ pho tượng khổ nạn cưng chiều bấy lâu nay của tôi thành nhiều mảnh vụn. Những chất liệu dự tính dùng trong truyện dài đã đem xử dụng vào các truyện ngắn gần hết. Ðời tôi đã gặp nhiều thất bại, đây có lẽ là một thất bại lớn.

Tôi lại nghĩ nếu gom những miểng vỡ trong các tập truyện in ở hải ngoại những năm qua , chắp nối, sắp xếp, hàn gắn chúng lại với nhau, thêm bớt vài dấu chấm phết ,đặt tên những nhân vật chưa có tên, tùy theo cách thức của mỗi người đọc may ra biết đâu nó sẽ hóa thành những tiểu thuyết theo ý từng người.”

Nhưng thật ra, cần gì phải “sắp xếp, chắp nối, hàn gắn”, những truyện ngắn mang tên Thảo Trường đã hiển lộng từng bước đi của lịch sử qua những mảng đời và những phận người trôi dạt trong lốc cuốn thời thế. Thưa anh Thảo Trường , anh đã thành công chứ chẳng phải thất bại đâu trong ý định làm sống lại lịch sử bằng văn chương!
Nhân một ngày giỗ, nhớ về

Nguyễn Mạnh Trinh.

Tháng tư dương lịch, là tháng 3 âm lịch, là tháng của lễ thanh minh. Và ngày 18 tháng tư là ngày giỗ của thi sĩ Nguyên Sa.

Ngày thứ bảy cuối tuần, là ngày tôi đến thăm mộ mẹ tôi và cũng đến mộ ông để tưởng nhớ. Ngày xưa cụ Tiên Ðiền Nguyễn Du đã có câu thơ trong Ðoạn Trường Tân Thanh “Thanh minh trong tiết tháng ba. Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.” để nhớ bổn phận của một người con, của một người cầm bút nhớ lại những người đã ra đi. Nghĩa trang Peek Family ở cuối đường Bolsa, nơi an nghỉ của mẹ tôi, của thầy Nguyên Sa , thầy Nguyễn Khắc Hoạch, thầy Vũ Văn Tiên, anh Mai Thảo, anh Long Ẩn, Nguyễn Tất Nhiên, và người anh vợ tôi vừa ra đi cách nay vài ngày, ở những ngôi mộ mà ngày hôm nay tôi đến cắm những nén nhang tưởng nhớ. Con đường Bolsa, con đường đặc biệt của người tị nạn Việt Nam, nơi mở đầu một cuộc sống với phố xá ồn ào , cửa hàng tấp nập và chấm dứt đời tị nạn với những ngôi mộ thinh lặng chỉ có cây cỏ và những chú chim dạn dĩ. Trời hôm nay nắng đẹp trải mầu đỏ hồng trong những thảm cỏ xanh rờn. Cuối mùa xuân đầu mùa hè, tầng mây cao vút, thấy trời và đất thật gần nhau và người chết và người sống dường như có những rung động sâu xa từ tâm thức. Ðến từng ngôi mộ, nhìn lại di ảnh những người đã khuất , tự nhiên tôi thấy lòng bồi hồi. Chỉ mấy năm qua thôi, mà trải qua tưởng như lâu lắm. Những câu thơ trên bia mộ thi sĩ Nguyên Sa, Mai Thảo , Long Ẩn , Nguyễn Tất Nhiên, hay những câu đối trên bia mộ giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Vũ Văn Tiên , như những nhắc nhở để nhớ về, để tưởng vọng.

Tôi nhìn di ảnh thầy Nguyên Sa, thấy cái nón kết quen thuộc, thấy nụ cười hiền hòa bao dung khi bị lũ học trò cũ chúng tôi chọc phá. Mới đây mà đã mười năm. Tôi nhớ lại lúc làm tủ sách Tác Giả Tác Phẩm với thầy. Tôi nhớ tới nhà in nhỏ ở đường Grand, tới những quyển sách vừa đóng xong còn thơm mùi mực. Tôi nhớ lúc thầy gần mất, đang thực hiện tờ Thời Nay mà thầy bảo tôi làm chủ bút. Tôi ngại ngùng, từ chối không được nên cứ ậm ờ không dứt khoát khiến thầy nổi nóng có lúc la mắng vì thấy công việc không tiến triển lắm. Có lúc thầy nói tha thiết “ Thầy già rồi , lúc này là lúc các em làm việc..” . Nghĩ lại, tôi thấy mình như có lỗi. Bây giờ, cả tờ báo Thời Nay với art work còn đây, nhưng tờ báo vì người chủ chốt đã ra đi nên không thành hình được.

Tôi nhớ lại những lần thầy trò nói chuyện với nhau cả giờ.

Thi sĩ Nguyên Sa mà nói chuyện về thơ với một kẻ yêu thi ca như tôi không thích thú nào bằng.

Tôi có lúc như trong mơ khi hoang mang tự hỏi. Thi sĩ Nguyên Sa nói chuyện về thơ ? Hồi nào? Dường như thi sĩ đã đi vào miền vĩnh hằng ngày 18 tháng tư năm 1998 rồi mà! Thì, làm sao hôm nay, bây giờ ợ có thể nói chuyện với chúng ta về thơ được? Thế mà, với tôi, giở lại những trang hồi ký, như đang tiếp tục câu chuyện về thi ca, về những bài thơ mà có người phê bình là những “châu báu bắt được của trời”.

Nguyên Sa một đời làm thơ và sống chết với thơ. Khi ông đang nằm trên giường bệnh, dù đang thập tử nhất sinh ông vẫn lo lắng để chuẩn bị cho in tập thơ “ Thơ Nguyên Sa tập 4 “.Thơ với ông là một vũ trụ mênh mông mà cuộc sống vẫn còn dù thân xác có bị hủy hoaiỳ theo luật thiên nhiên.

Thơ Nguyên Sa không phải chỉ thuần túy thi ca mà còn chất chứa cuộc sống thực tế và cả những ước mơ nữa. Như , câu phê bình của tổng thống Ngô ÐÌnh Diệm về một giáo sư trẻ Trần Bích Lan mà bác sĩ Trần Kim Tuyến đã kể lại :“ông cụ bảo cậu lãng mạn “.Có phải tâm tính lãng mạn là luôn luôn nuôi dưỡng những giấc mơ?. Quả thực, trong suy nghĩ biểu hiện bằng ngôn ngữ thi ca, Nguyên Sa là một người làm thơ lãng mạn.

Ðọc những trang hồi ký, nghe thi sĩ nhắc lại những bài thơ và những trường hợp đã có cảm hứng để viết, mới thấy câu nhận định trên là chính xác. Những bài thơ, dù viết ở đâu, từ lúc đất nước thanh bình đến khi trời làm tao loạn, hay lúc lưu lạc xứ người, thơ vẫn là những biểu tượng của một cuộc sống tràn đầy ước mơ.

Giữa con người thực dụng và con người viễn mơ, có lẽ triết lý đã điều hòa cả hai để có một chân dung thi sĩ . Triết học không lấn áp thi ca mà trái lại làm cho ngôn ngữ thơ có sắc thái riêng.

Thi sĩ viết:”Tôi cũng nhớ, ngay lúc đó, khi đọc bài văn nói về văn chương viễn mơ của Mai Thảo, một năm trước, tôi thấy văn chương viễn mơ không phải là mục tiêu mà tôi nhắm tới, văn chương viễn mơ không phải là tôi.. Tôi mơ hồ cảm thấy làm thơ mà cứ phải dấn thân triền miên thì.. mệt quá ! Nhưng tôi cũng không muốn sống, trong cuộc đời cũng như trong tác phẩm, cắt lìa khỏi, một cách thường hằng, mọi đam mê của đời sống. Tôi mơ hồ cảm thấy những lý luận thuần lý, những triết học nhất quán, những lô gic chặt chẽ và thơ có một khoảng cách. Dường như , càng xa lý thuyết thơ càng nhiều thơ, càng cột chặt hồn mình vào lô gíc , thơ càng ít thơ hơn. Tôi đọc, tôi đọc. Tôi sửa lại một chữ, rồi một chữ khác. Tôi mơ hồ cảm thấy tôi không muốn trở thành một nhà thơ dấn thân . Tôi cũng mơ hồ cảm thấy tôi không phải là một đệ tử trung thành của nghệ thuật vị nghệ thuật. Tôi là người làm thơ tình mà vẫn xúc động trước những khổ đau của quê hương , dân tộc tôi.”

Có những bài thơ viết về Paris, như một kỷ niệm trong đời. Thành phố , nhắc đến những người bạn và những cuộc giã từ . Ra đi nhưng để tấm lòng mình ở lại. Những dòng hồi ký không những là nhớ lại mà còn làm sống lại những ngày tháng ấy. Một đoạn đời hóa sinh vào thơ, mơ mộng và diễm ảo. Thơ . Là dấu ấn cho lãng mạn dâng cao :

“ .. Tôi thấy tôi và những tôi cầm tay bạn bè bịn rịn , tôi thấy tôi và những tôi từ trên thang cao của máy bay vẫy tay lần cuối, tôi thấy ngọn đèn đêm của Eiffel quét những đường sáng dài vẫy tay. Những Tiễn Biệt, những Paris Có Gì Lạ Không Em, từ bóng đêm của vô thức và sương mù dắt tay sông Seine đi tới.

Paris có gì lạ không em
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em
Mai anh về giữa bến sông seine
Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em
Em có còn đứng ở bên bờ sông
Làm ơn che khuất nửa vầng trăng
Anh về có nương theo dòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng..

Những điệp khúc” Paris có gì lạ không em” đặt ra những câu hỏi để dẫn về những nơi chốn mới đây gần gũi mà bây giờ xa biệt. Hoa lá để nhớ đến cánh chim, dòng sông mù sương trắng nhớ đến áo em huyền ảo cũng như vầng trăng in dưới dòng nước nhắc nhở đến mường tượng em trong bóng trăng. Thiên nhiên là của kỷ niệm nhắc nhở, mỗi mỗi khi nhớ là tìm lại được những hình ảnh mới của Em, của người tình của một thành phố như đã thành cổ tích.

Một bài thơ khác , của một thành phố khác , của đất nước Việt Nam , mà bây giờ lại xa cách trong cảm giác lãng đãng của những câu thơ bềnh bồng. Sài Gòn, thành phố mà trong bộ nhớ nhiều người đầy ắp những kỷ niệm. Có khi là của lúc xôn xao thời mới lớn, có khi là của những ngày chiến tranh, của những ngày phép của người lính trẻ, của một thời của một đời người . Nguyên Sa làm bài thơ “ Tám phố Sài Gòn“ trong cái khí hậu văn học của một thời nhiều sôi động. Thi sĩ đã viết về một trường hợp sáng tác:

“..Nguyễn Ðình Vượng nói tôi muốn Nguyên Sa cho Văn một bài thơ, tôi hỏi thơ hay văn xuôi, anh Vượng nói rõ thơ, tôi ngập ngừng rồi nêu lên câu hỏi:

-Thơ Xuân?

Nguyễn Ðình Vượng gật đầu vững chắc:

-Thơ Xuân.

Anh chỉ khẳng định chính xác như thế trong một giây ngắn, anh mau chóng đưa ra chọn lựa thoải mái hơn:

-Thơ Xuân .. Hay thơ gì cũng được.

Tôi vui vẻ nhận lời, mấy hôm sau tôi mang tới tòa soạn Văn bài “ Tám phố Sài gòn”..”

Tám Phố Sài Gòn, là những câu thơ của bồi hồi về một thánh địa tình yêu, của những xúc cảm thoáng qua, của những hình ảnh đẹp khó quên trong bộ nhớ. Tôi yêu Sài Gòn nên yêu những câu thơ mang đến cho tôi một thời gian, không gian “thiêng liêng“, của cả một thời thơ ấu và trưởng thành riêng tôi. Và,rất lạ lùng, nhiều người đọc thơ cũng cùng chung những xúc cảm những suy nghĩ như thế. Thơ của một người nhưng hình như là của riêng nhiều người. Khi nhắc lại, là một trùng trùng đại dương xao động. Sài Gòn. Vẫn còn, nhưng như đã mất. Trong tôi..

Ðọc những bài thơ như Tám Phố Sài gòn, như Ao Lụa Hà Ðông, trong khi lái xe, lúc ở sở làm hay mơ mộng một mình trong phòng đọc sách ở nhà nhìn ra biển và bầu trời, lúc nào cũng như lúc nào, thấy mình sống lại những phận đời, hồi sinh lại những nỗi nhớ trong cái xúc cảm mơ hồ của một người đi phiêu du ở một chốn nào mà suy nghĩ mãi ngân vang như những sợi đàn căng rưng rưng những âm vận trùng trùng nhung nhớ .

Viết về thơ của mình , thi sĩ Nguyên Sa tâm sự :

“..Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là đi, tôi gọi tới Paris là về. Tình yêu của tôi ở đó, phần đời có trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, giao động cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly. Paris có gì lạ không em, Tiễn biệt , Paris. Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi bắt đầu cùng lúc những bài tình ái và những bài biệt ly. Cũng có thể nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần như trong cùng một thời gian. Xen ke. Hỗ trợ . Trong thơ tình có khắc khoải chia xa. Trong Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Paris có gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên, sau đó là Tuổi Mười Ba, của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau. Paris tiễn nhau ở gare De Lyon, ở phi trường Orly, AÔo Lụa hà Ðông, Tháng Sáu trời Mưa, Cần Thiết của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp, Nga 1955, Tiễn biệt đầu tiên. 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình của những ngày tháng hôn nhân đến trước thơ tình của tuổi học trò. Áo Lụa Hà Ðông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa trình làng ở Sáng Tạo , khi đã trở về Việt Nam , làm khoảng thời gian 56-57.

Nga in trên tờ thiệp báo hỷ, bài thơ tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ rồi gấp lại làm ba. Tờ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi tám rưỡi, giấy bảy chục gam, loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O của “ môi em tròn như chữ O” câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công chỉ cho tôi thấy chữ O anh đã chọn kiệu chữ thẳng, rất tượng hình thơ”

Nguyên Sa còn làm thơ về những ngày ở lính và chiến tranh ở đây đã được nhìn ngắm với con mắt của người trong cuộc. Một cuộc chơi tàn bạo được bày ra với tất cả những sự phi lý của nó. Những người tham dự , dù tình nguyện hay bắt buộc, cũng bị lôi đi trong con lốc mịt mờ của thời thế. Ðọc bài thơ Sân bắn , để thấy được tâm tư của một người trong cuộc. Một cách tình cờ, bài thơ được viết ra trong một khung cảnh yên bình của Sài Gòn buổi chiều nhưng lại là những cảm giác từ quân trường, nơi sân bắn có hình nhân phơ phất, có tiếng kêu “ Bia lên” để làm đích đến cho những viên đạn vô tình :

“..Tôi không có ý định làm bài lục bát đó, tự nó tới, bật ra. Tôi dừng xe lại ở Bưu Ðiện Sài Gòn,hí hoáy ghi lại Sân Bắn. Con trai tôi từ trong trường Taberd đi ra, trèo lên băng sau của chiếc Wolkswagen, chờ tôi lái đi. Tôi chép cũng vừa xong. Sân Bắn được đăng trên một tạp chí ở Sài Gòn trong thời điểm đó, được in trong Thơ Nguyên Sa tập Hai, hai mươi năm sau, năm 1988 ở Quận Cam.

Sân Bắn
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du
Thấy tay dư, thấy chân thừa
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không..
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay.

Và nhà thơ đã viết vê những suy nghĩ và cảm xúc của mình để bật lên thành thơ.:

“Khi Sân Bắn, thơ, đến với tôi, bia cũng tới, đầu tiên., không có chân tay, cảm xúc của thơ mang cho Sân bắn thơ thêm hình ảnh của ta, của địch , thân phận con người, sự vong thân của bản ngã..

,, Bầu trời của Sân bắn có bia lên, có thân người, có ta, có địch, có tay chân thừa thãi, có tác dụng của xạ trường đến nơi thính giác và cả trí tuệ. Óc tai, hình nhân, giấy bồi, hầm bia, đạn đầu lửa bay trong những buổi thực tập tác xạ ban đêm. Tôi biết kỹ thuật thi nhân từ trước khi thực hiện Sân Bắn, từ lâu. Cũng như nhiều người làm thơ, tôi có một thời kỳ lục bát buổi đầu đời. Thi nhân vừa dẫn bài thơ vô, vừa dẫn từ câu này qua câu kia từ đoạn này sang đoạn khác. Luận lý của suy luận là do đó, là cho nên, là vậy thì. Có thể là tất cả những từ đó và những từ tương tự khác cùng loại.

Tất cả mọi người đều phải chết
Socrate là người
Socrate phải chết

Chân lý của kết luận chứa ẩn trong những đại tiền đề. Chân lý của tiền đề, bằng những do đó, là vậy thì, là cho nên, đi tới kết luận. Nói rõ ra cũng tốt, không nói tới cũng tốt. Từ ngữ hiện hay ẩn đưa tới kết luận là đưa tới chân lý tất yếu đã nằm trong những tiền đề. Thi nhân của thơ đưa tới những kết luận khác biệt, không tiên liệu trước được, nhảy qua trùng điệp những đồi núi , những bình nguyên rơi xuống một miền đất của riêng. Bia lên mở ra thân người, mở ra thế giới mà khoảng cách giữa ta và địch bị tiêu hủy bởi cái chết , mở ra sự thừa thãi của tay chân, sự bất lực của giác quan và trí tuệ. Trong Sân Bắn, thi nhân hơn một nửa làm nhiệm vụ của liên tự, nó cho phép nói nhiều với ít chữ hơn.

Bầu trời của thơ không phải là bầu trời của sân bắn xạ trường. Bầu trời Sân Bắn thơ có những đám mây của nó, có vài phần vật liệu từ hơi nước bay lên, nhưng lại có nhiều phần mây có màu sắc bay tới từ thế giới nội tâm, có những đám mây màu sắc tình cảm, đám mây màu sắc suy tư, đám mây màu ngậm ngùi thân phận.

Chủ nghĩa tả chân và những anh em của nó, như tả chân xã hội, khó lòng mang lại bầu trời thơ, vì không gian của nó hạn hẹp, chỉ có mây của nước bốc hơi, không có chỗ nào cho những đám mây tuyệt vời kia.”

Thơ, với thi sĩ, không phải là một trò chơi nữa, mà trở thành một cách thế sống, của da thịt xương tủy hiện hữu tháng ngày. Những câu hỏi bật ra từ quá khứ. Từ tuổi nhỏ đã phải chịu những tháng ngày tù ngục đọa dầy của Cộng sản, rồi thoát được, đi du học, rồi trở về nước, dậy học và rồi lại lưu lạc xứ người trong những tháng năm còn lại. Bao nhiêu là dấu ấn đã in đậm trên những trang thơ. Những dấu ấn của thời thế. Những dấu ấn của tình yêu. Thành ngôn ngữ, thành hình ảnh, thành vần điệu để như những tần số cùng âm hưởng giao thoa với tất cả những chất chứa của thời đại , của cả một thế hệ cứ mải miết hoài trong vòng cuồng loạn của dông tố chiến tranh.

Với Nguyên Sa, chiến tranh là một thực tế của đất nước.Và thơ của ông phần nào biểu lộ cái thực tế ấy. Những bài thơ như Cầu Siêu Cho Nguyễn Quan Ðại Chết Ở Khe Sanh, Thằng Sỹ Chết, Thơ Cho Bạn Ở Trong Tù Trong Tù, Cắt Tóc Ăn Tết, Có chút bi phẫn, có chút suy tưởng nhưng hình như là biểu lộ chân thực tình cảm của một người sống trong thời đại đầy nhiễu nhương, nhiều biến cố .

Trong “ Thư cho bạn ở tù”, những câu lục bát chân thành về nỗi đau thời thế :

Bây giờ mày ở trong tù
Ðêm nằm muỗi cắn nhớ nhà không con
Chúng nó nói chuyện văn chương
Tao nghe nóng mặt cởi quần nhìn sông.

.. Tao đi lính được bốn năm
mày nghe chuyện lính tưởng rằng tao gân
tưởng tao trấn thủ lưu đồn
một tay cờ kiếm anh hùng chí cao
bốn năm thi sĩ nằm khoèo
rượu say thơ cũng mệt nhoài tứ chi
quanh tao vẫn một lũ hề
những thằng mang điếu vác cờ chạy quanh..”

Thi sĩ đã viết vế một bài thơ khá , viết về mùa xuân, nhan đề cũng xuân nhưng không có nét xuân hồng nào ở trong :

Cắt Tóc Ăn Tết

Cắt cho ta hãy cắt cho ta
Cắt cho ta sợi dài
Cắt cho ta sợi ngắn
Cắt cái sợi nói dối
Sợi ăn cắp trên đầu
Sợi vu oan dưới gáy
Sợi bè phái đâm ngang
Sợi ghen tuông đứng dọc
Sợi xích chiến xa, sợi giây thòng lọng
Sợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt
Sợi nấp trong hầm
Sợi ngồi trong hố
Sợi đau xót như giây dù chẳng mở
Sợi treo cổ tình yêu, sợi trói tay hy vọng..”

Nhưng, những bài thơ sống mãi của Nguyên Sa vẫn là thơ tình yêu. Những bài thơ như Ao Lụa Hà Ðông, như Tuổi Mười Ba, như Tám Phố Sài Gòn, như Paris Có Gì lạ Không Em, đã vượt qua không gian, thời gian để sống mãi. Thậm chí, nó còn vượt qua những chiến tuyến, qua những định kiến chính trị để thành một gia sản quý báu của văn chương dân tộc Việt Nam. Thế mà, khi viết hồi ký, ông lại ít đề cập tới. Không hiểu có phải là phản ảnh tâm lý mà ông đã nói trong cuộc phỏng vấn trước tám năm ngày ông từ trần :

“Ðề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian.. trước năm 1963, tình yêu đó thuần túy những cảm xúc, những đam mê. Ðó là niềm đam mê, lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè thắc mắc, lúc muốn ngỏ lời, lúc không dám ngỏ. Nhưng về sau lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê tình ái không còn nữa, như xao xuyến về một vạt áo trong sân trường, như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai, không có nữa. Thời gian xóa bỏ nhiều thứ . Tình yêu có bóng dang của sự buồn phiền xót xa vì thời gian trôi qua. Và ngậm ngùi nhận ra rằng việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới. Khi nào suy nghĩ ấy xen lẫn trong đời sống trong tình yêu trong thơ, tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác với một võ sĩ chỉ nghĩ đến cách thế để cho đối thủ quỵ ngã. Ðối với tôi tâm sự về tình yêu lúc 50 tuổi trở lên như võ sĩ lên đài thay vì chiến đấu mãnh liệt say mê thì lại đưa quả đấm giơ lên rồi bỏ xuống. Tư tưởng cái chết ám ảnh mạnh mẽ tình yêu..”

Dù rằng thi sĩ đã hiểu :

Cuộc đời dẫu có phù vân
Ở trong mây nổi có phần thiên thu

Nhưng những câu thơ đã để lại cho đời sau là những câu hỏi để mở cửa bước vào cõi thơ, như Cần Thiết :“Không có anh lấy ai đưa em đi học về/ lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học/ ai lau mắt cho em ngồi khóc / ai đưa em đi chơi trong chiều mưa?/..”; như “ Paris có gì lạ không em?/ mai anh về mắt vẫn lánh đen/vẫn hỏi lòng mình là hương cốm? chả biết tay ai làm lá sen??..”; ‘em ở đâu ?, hỡi mùa thu tóc ngắn/giữ hộ anh màu áo lụa Hà Ðông/anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng/ giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng/à”. Ơi , những câu hỏi để thành những câu thơ bất tử của văn chương Việt Nam thế kỷ 20. Và tôi cũng như nghe thấy câu hỏi, được khắc lên trên bia mộ của một thi sĩ lớn:

Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?

Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?
Hồ Hữu Tường, và ‘Người Mỹ Ưu Tư’
Tuesday, June 23, 2009

Nguyễn Mạnh Trinh

Viết về Hồ Hữu Tường, có lẽ một bài không đủ. Bởi có quá nhiều chi tiết về chân dung con người ấy. Nguyên cuộc đời của ông, cũng là một đề tài. Những ngày tù tội, từ khám tối của thực dân Pháp, đến khám tử hình của chế độ Ngô Ðình Diệm rồi khám Chí Hòa của Cộng Sản và chết trong tù ngục đỏ. Thời gian bị cầm giữ với ông lại là những ngày để suy tư và tâm thức luôn bay bổng vượt qua những rào cản để tới những viễn kiến cho những phương trời rộng mở. Ông là một học giả, một chính trị gia, một nhà văn, và cũng là người theo Cộng Sản Ðệ Tứ rồi rời bỏ, đi làm cố vấn cho Bảy Viễn nên bị chế độ Ngô Ðình Diệm kết án tử hình, rồi lập thuyết, tìm một “minh đạo” cho văn hóa Việt Nam. Sang thời kỳ đệ nhị của chính thể VNCH, ông trở thành dân biểu, và viết “Người Mỹ Ưu Tư'”, gửi thư cho John Steinbeck, người đoạt giải Nobel Văn Chương và hậu thuẫn cho sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Với tôi, tôi đã đọc truyện Hồ Hữu Tường từ khi bắt đầu vào trung học khi tìm thấy sách của ông ở những tiệm cho mướn sách. Tôi đọc truyện kiếm hiệp song song với đọc Hồ Hữu Tường. Tôi đọc bộ sách “Gái Nước Nam Làm Gì?” với Thu Hương, Chị Tập, cũng như đọc bộ “Ngàn Năm Một thuở” với Phi Lạc sang Tàu, Phi Lạc bỡn Nga, Phi Lạc náo Hoa Kỳ. Những nhân vật như thằng mõ Cổ Nhuế, thằng mõ Phù Ninh, đã làm cho tôi hồi đó chỉ thấy được cái nét châm biếm, như một chuyện tiếu lâm mà không để ý đến những điều sâu xa hơn từ cách thế trào lộng. Với một đứa bé hơn mười tuổi, đọc để mà đọc nhưng đã vô tình tạo một tâm thức trong trí óc non nớt của tôi lúc ấy. Tôi đọc Thu Hương, Chị Tập, để biết những người kháng chiến chống Pháp thời đó ra sao và có một chút ngưỡng mộ với những anh thư ấy.

Nhân vật chính của bộ truyện này là hai người phụ nữ tiêu biểu cho hai thành phần trong xã hội cùng tham gia trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Thu Hương thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản sống ở thành thị trong khi chị Tập thuộc thành phần lao động ít học. Thu Hương là nữ sinh viên trường Y Khoa Hà Nội, đảng viên của một đảng cách mạng bí mật, là một cô gái kiên cường có bản lãnh, đã thi hành những công tác nguy hiểm như tổ chức cướp sân khấu để tuyên truyền, ám sát bọn chó săn cũng như viên chức Pháp giữa thành phố. Còn chị Tập là một người thuộc giới cùng đinh, bị cha mẹ bán lấy tiền, trải qua nhiều nỗi khổ đau, bị tù tội, đầy ải sống chung với những người cách mạng và cả những tên đầu trộm đuôi cướp. Khi được tha khỏi trại giam, chị Tập trở thành một đảng viên nòng cốt tham gia những việc như làm thổ phỉ, buôn lậu, tổ chức cướp vũ khí của quân Nhật, xây dựng căn cứ địa để đánh Pháp. Bộ truyện này có nhiều diễn tiến mạnh, tạo được những hình ảnh của những người phụ nữ, không kể lao động hay trí thức, hết mình hy sinh cho đất nước

Còn ở bộ “Ngàn Năm Một Thuở”, tôi tìm thấy những nét trào phúng từ nhân vật Phi Lạc. Một người đậm nét của xã hội bình dân Việt Nam, dốt nát nhưng lại hay khoe khoang chữ nghĩa, rất tự cao tự đại nhưng lại xun xoe nịnh hót những người có quyền thế để thủ lợi, cũng như đầy đủ những cá tính tiểu xảo vặt. Những cá tính thời đại này không phải chỉ có riêng ở nhân vật Phi Lạc mà còn thấy nhan nhãn những con người như thế ở chung quanh trong xã hội. Từ thằng mõ đến ông tiên chỉ, rồi đến các nhà bác học, những vị anh hùng, tất cả từ đời trước đến đời sau, như trong một tấn tuồng bi hài mà ở đó sự hữu lý và vô lý như bàn tay lúc ngược lúc úp, thay đổi dễ dàng như trong một hài kịch có khi bi thảm, có lúc nực cười

Trong Phi Lạc Sang Tàu, câu chuyện về nguồn cội của nhân vật bắt đầu cho một tấn tuồng ảo hóa. Vai chính là thằng mõ làng Phù Ninh, vô học nhưng đầy khóe lường gạt lại mồm mép giả danh là hậu duệ họ Hồ của tông tộc Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Lại có một tên lừa bịp khác là thằng mõ làng Cổ Nhuế, muốn phá đám tên mõ làng Phù Ninh nên bán đứt cho một vị sư từ Tàu qua tên là sư Hồng Hạc. Ông này là một vị chân tu có sứ mạng là qua Việt Nam tìm đến “thảo lư” tìm kiếm một vị vạn đại quân sư như Khổng Minh đời Tam Quốc xưa để thành một thánh sư đời nay để mong mưu vọng phục quốc phản Thanh phục Minh. Những nhân vật này được xếp đặt trong những cục diện, những tình thế tròng tréo, viết theo kiểu truyện Tàu với những hồi, với những chương nối tiếp nhau. Truyện thâm ý bài xích cái tinh thần vọng ngoại và cái tập tục ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Từ chữ nghĩa, tới tên địa danh, tên nhân vật, đều là những biểu tượng có hai nghĩa, có hàm ý mỉa mai, và ở trong những điều kiện ràng buộc với nhau như trong một bố cục liên hệ. Những câu hỏi liên tiếp nhau. Tại sao sư Hồng Hạc lại đi kiếm thánh sư ở phương Nam? Tại sao lại đến làng Phù Ninh? Tại sao lại liên lạc với mõ làng cổ Nhuế? Tác giả đã nối các chi tiết với nhau. Sư Hồng hạc qua Việt Nam vì sấm truyền của Minh Thái Tổ để lại và đến làng Phù Ninh bởi vì làng này là nơi sinh trưởng của công chúa Ngọc Hân thì chắc là phải có hậu duệ của Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Và liên hệ với làng Cổ Nhuế bởi vì làng này nổi tiếng là buôn phân người nhưng đồng thời cũng là làng có nhiều nhân tài và nhiều người đỗ đạt nhất. Những chi tiết ấy trộn lẫn với nhau, rối nùi trong cái mê đồ để khiến người đọc nghĩ đến những trò đành hanh của con tạo, của những bất ngờ, những cái duyên có khi tình cờ có khi là hậu quả của những trò đùa của cuộc đời. Trong đó, cái hóm hỉnh của truyện Trạng Quỳnh, cùng cái chửi đời châm biếm của Ba Giai, Tú Xuất, làm nổi bật lên chủ đích của tác giả. Hầu như mọi giá trị đều bị đảo lộn, những câu khoác lác, những trò lừa bịp lại có ảnh hưởng rộng lớn, và bao nhiêu người tài giỏi trên đời này nhiều khi lại thua mưu kém trí những tên vô học bởi những trò tiểu xảo tầm thường. Những lý thuyết nhiều khi trống rỗng và các danh nhân nhiều khi chỉ là cái bóng mờ nhạt. Ðọc tới đoạn thằng mõ, thuộc giai cấp mạt hạng trong xã hội mà lại luận đàm thuyết lý, nói chuyện tế thế an dân với những Khổng Minh, những Hồ Thích, có phải là một hài kịch được dàn dựng để trong đó gờn gợn những ý tưởng phản kháng xã hội và xét lại tất cả những gì được gọi là khuôn vàng thước ngọc của xã hội.

Lớn lên một chút, tôi đọc “Tương Lai Văn Hóa Việt Nam”, một tác phẩm mà tôi nghĩ là những suy tư khởi đầu của ông để từ văn hóa bước sang những phạm vi khác như chính trị, tôn giáo, xã hội... để thành một người lập thuyết. Hồi nhỏ thì không ảnh hưởng lắm nhưng bây giờ đọc lại, tôi thấy có những suy nghĩ tới bây giờ vẫn còn giá trị. Trước hết, đây là những tâm huyết của một người muốn nói những điều mà biết rằng sẽ có ít âm vọng nếu không nói là tiếng kêu trong sa mạc.

“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt.”

Câu văn biền ngẫu, ý hướng tha thiết, tác giả Hồ Hữu Tường còn muốn vạch ra một con đường văn hóa, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc và Tây phương. Theo ông “Văn trong nghĩa cầu nguyên của nó là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ là hung bạo. Hóa trong nghĩa cầu nguyên của nó là thay đổi. Hai chữ đó mà ghép lại thì tôi cho rằng đó là cái gì làm cho người ngày càng cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người (hạ tiện, xấu xa) hóa ra người (cao quý, đẹp đẽ).”

Ông cho rằng mọi ý thức hệ chỉ có tác dụng trong một thời điểm mà thôi trong ý nghĩa tích cực của nó. Nhưng khi không còn thích hợp với cuộc sống thì nếu không bị triệt tiêu đi mà còn tồn tại sẽ thành những chướng ngại vật cản lại chiều hướng phát triển và ở trong một ý nghĩa tiêu cực sẽ thành một hiểm họa cho nhân loại. Như vậy, chúng ta phải xây đắp một nền văn hóa dân tộc, luôn luôn thay đổi theo chiều hướng phát triển của cuộc nhân sinh và thoát ra được sự kềm hãm và chi phối của các ý thức hệ lỗi thời. Con đường ấy, không bị chi phối bởi Ðông hay Tây phương, nhưng kết nạp và thu liễm những tinh túy của người để biến thành của mình. Con đường ấy mệnh danh là con đường văn hóa, và nâng cao trình độ và vị thế của con người.

Tác giả còn cho rằng Tây phương chưa có văn hóa mà chỉ có quái hóa. Quái hóa ấy có thể tạo thành ở hình thức văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học... nhưng ở nội dung thì chỉ là những phương tiện để đi chinh phục. “Chính quái hóa này đã biến đổi những tư tưởng đẹp đẽ như ‘tự do, bình đẳng, bác ái,’ thành phương tiện, thành khí giới để chinh phục. Quái hóa đã xui khoa học chế ra đại bác, chiến xa, tàu chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom nguyên tử để giết người, để chinh phục kẻ yếu, để đè nén áp bức chúng ta.”

Và ông kết luận: “Văn hóa làm cho con người trở nên Người. Quái hóa biến Văn Chương, Nghệ Thuật, Triết Học, Khoa Học thành phương tiện. Bởi nó không theo con đường nhân bản. Còn mượn Ðạo học của Ðông phương ư? Nhưng ở Ðông phương chỉ có thuật tu dưỡng, chớ đã có văn hóa bao giờ?”

Cái độc đáo và cũng là đầu đề tranh cãi khi ông cho rằng cả Ðông lẫn Tây phương không có văn hóa. Ông tạo ra con người có khuynh hướng “mở” biết thay đổi để có một tiến trình nhân bản đến chân thiện mỹ. Văn hóa luôn ở trong trạng thái động, là một thái độ, một phong cách luôn luôn suy tưởng kiếm tìm.

Cuộc đời văn học của Hồ Hữu Tường có nhiều giai đoạn sáng tác khác nhau. Mới đầu, ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin theo khuynh hướng đệ tứ và thời gian này ông coi như là những năm tháng ô nhục của thời gian lầm đường lạc lối. Ông không để lại một chút gì dấu vết lưu lại bởi vì ông chối bỏ lối lập luận kiểu duy vật biện chứng. Sau khi từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, ông bị Pháp bắt giam đầy đi Côn Ðảo lần thứ nhất và ông suy nghĩ đến một hệ thống tư tưởng mới độc lập với các hệ tư tưởng ngoại lai như Pháp, Tàu, Nga, Mỹ... mà ông gọi là chủ nghĩa dân tộc. Rồi tiếp theo là thời kỳ ông nghiên cứu để viết lên những suy tư mới về xã hội, kinh tế, chính trị, dân tộc. Thời kỳ này ông viết Tương Lai Văn Hóa Việt Nam. Ông có cách nghiên cứu tìm tòi của một học giả và sự luôn luôn khao khát với cái mới đã thúc đẩy ông trong việc thiết lập một hệ tư tưởng riêng biệt của dân tộc.

Sau khi bị chế độ Ngô Ðình Diệm kết án tử hình và đầy đi Côn Ðảo lần thứ ba, ông viết rất nhiều và sau này in lại như Kế Thế, Hồn Bướm Mơ Hoa, Thuốc Trường Sanh, Trầm Tư của Một Tên Tội Tử Hình.

Sau năm 1963, ông tiếp tục sáng tác với những tiểu thuyết như Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp, Thằng Thuộc Con Nhà Nông,... và Hồi Ký 41 Năm Làm Báo.

Có một tác phẩm khá đặc biệt là Người Mỹ Ưu Tư, một cuốn sách được in với ấn bản viết bằng tay của tác giả. Mới đầu được in hàng ngày trên nhật báo Sống và sau có một phong trào xin chữ ký giới thiệu để đề cử vào giải Nobel Văn Chương. Theo Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu là người khởi xướng công việc này thì đã có tới hơn mười ngàn chữ ký để đề cử. Ông viết về một đề tài lúc đó tới giờ hơn bốn chục năm mà vẫn còn chất sống động của thời thế. Vấn đề con lai mà về sau này chính quyền Mỹ đã phải giải quyết để có hàng chục ngàn con lai được định cư ở Hoa Kỳ nơi quê nội của họ.

Trong 5 bức thư gửi cho John Steinbeck, giải Nobel Văn Chương, coi như lời nói đầu của bộ truyện, Hồ Hữu Tường đã viết:

“Ở xứ tôi những nhà văn không tên tuổi thường dùng một cái thuật để tiến thân như sau đây, hễ thấy một áng văn chương được nhiều người hoan nghinh thì họ bèn viết nối theo áng văn chương nọ, với đầy đủ những nhân vật của áng nọ, và nếu cần thì có những con, những cháu thêm vào. Thuật ấy gọi là cái thuật viết ‘hậu.’ Trên văn đàn quốc tế tôi không có tên tuổi, tôi bèn dùng cái thuật viết “hậu” ấy mà tháp tác phẩm của tôi vào tiểu thuyết của Graham Greene, mà gá thân một chút xíu gì của những vấn đề của tôi, nhưng vẫn để cho độc giả nào đã đọc The Quiet American cũng bị cám dỗ bởi cái nhan đề ‘hậu’ The Unquiet American.

Tuy nhiên nhân vật chánh của sáng tác của tôi phải là Pyle, phải là Phượng (hay phải là con của họ nếu cần), phải là tất cả những nhân vật đã sống trong tiểu thuyết của Graham Greene. Có gì hay bằng điển hình một nhân vật Amerasien bằng một đứa con chung của Pyle và Phượng? Ðứa con ấy, tôi đặt tên cho là Loan, một đứa con gái năm ấy được mười lăm tuổi!”

Với cách nói và diễn tả của Hồ Hữu Tường, lòng vòng, thường sử dụng ngôn ngữ gián tiếp, những câu chuyện kể trở thành những chuyện ngụ ngôn nhiều ẩn ý. Ông mượn những chuyện đời xưa tới đời nay, từ chuyện dương gian đến chuyện âm phủ, để thành những nối tiếp của những suy tư nhiều khi không liên hệ với nhau nhưng lại là những gợi ý để khơi mở sang những ẩn dụ, những hình tượng khác.

Ông viết cho Steinbeck:

“Người phương Tây của ông ít khi bận rộn về những suy tư, tôi không dám nói là siêu hình mà tôi xin nói là ‘ngoại hình’ như vậy. Người Việt chúng tôi, mấy nghìn năm trước ở vào vùng ảnh hưởng của Ấn Ðộ trước khi bị ảnh hưởng của Trung Hoa từ miền Bắc tràn xuống. Nên chi tâm tư của chúng tôi ngày nay không ít thì nhiều phảng phất nhưng nét ngoại hình như vậy. Mà những nét ấy coi chẳng ra sao lại cứ ám ảnh chúng tôi mãi.

Pyle chỉ là một oan hồn phiêu bạt, làm sao mà sống được một đoạn lịch sử vô cùng sôi động của đất nước chúng tôi. Ðể rồi chứng kiến sự nổi loạn của Phượng và Loan và để bưng chén mật tương thân mà uống khi chứng kiến Loan xuống tóc mà làm một ni cô, một ni cô mang một bào thai Amerasian mà chính nàng cũng là một Ameriasian nữa.

Thế giới ngày nay là một thế giới ‘bốn biển một nhà, năm châu một chợ.’ Sự lai chủng tộc là một sự hiển nhiên, không sao tránh được. Cũng như rất hiển nhiên là chúng ta đang sống trong thời nguyên tử.

Tinh lực nguyên tử mà ta cho nổ thì nó tàn sát biết bao nhiêu người? Tinh lực nguyên tử mà ta áp dụng để phụng sự hòa bình thì kết quả tốt đẹp là bao? Sự lai chủng tộc mà ta cho nổ thì nó gây ra bao nhiêu rắc rối cho nhân loại? Sự lai chủng tộc đã cho nổ rồi mà ta lại thêm nuôi các đương sự bằng những ‘chùm nho uất hận’ thì ta có thể đo lường nổi sự tai hại của nó chăng?

Tôi nói rằng Pyle là người Hoa Kỳ ưu tư. Mà chính tôi cũng là người ưu tư. Và tôi muốn rằng sự ưu tư của tôi được truyền nhiễm đến ông, đến tất cả những người Hoa Kỳ là ‘bên nội’ của đám Amerisian này. Vấn đề Amerisain là một vấn đề quốc tế của thời ‘bốn biển một nhà, năm châu một chợ’ Tôi cảm thấy rằng đem những ‘Chùm Nho Uất Hận’ mà giải quyết vấn đề này chỉ đem thêm hận thù mà chồng chất lên bất công. Vì lẽ đó mà tôi kính tặng loạt thơ thay lời tựa này cho tác giả của ‘Chùm Nho Uất Hận’.”

Tiểu thuyết “Người Mỹ ưu tư” quả là “hậu” The Quiet American, tiểu thuyết của Graham Greene, cũng với những nhân vật ấy. Và Fowler, nhân vật ký giả người Anh lại đóng vai người kể chuyện. Thêm một nhân vật, là Loan, đứa con lai của Pyle (người Mỹ bị giết chết trong The Quiet American) và Phượng. Câu chuyện bắt đầu như một truyện ma quái. Fowler gặp hồn ma của Vigot, một viên chức mật thám Pháp lai để được dẫn đến một cái cốc hoang vắng gặp một hồn ma thông thái đã đậu bằng tiến sĩ văn chương ở Pháp với một luận án về Pascal. Và sau cuộc gặp gỡ này Fowler ngủ li bì một giấc đúng 15 ngày mới tỉnh dậy. Dù là cơn mê gặp gỡ những người âm nhưng anh vẫn còn giữ được hộp trà có bốn hình tiên nữ với 4 câu thơ chữ hán bắt đầu bằng bốn tiết: Thanh Minh, Tiểu Thử, Hàn Lộ, Tiểu Hàn. Sự việc quái dị ấy và những câu chuyện luận đàm thế sự, triết lý cuộc sống đã gieo vào đầu óc chai sạn của Fowler những ý nghĩ siêu hình của phương Ðông. Còn Vigot, thì bị chết đuối ở Vũng Tàu, chỉ 5 phút sau khi từ trần đã dẫn Fowler đến cái cốc hoang vắng như đã kể ở trên. Một sự kiện quái dị khác là khi Vigot sống lại thì bị linh hồn Pyle nhập vào. Thành ra Pyle là Vigot và ngược lại Vigot là Pyle, một mà hai, hai mà một. Pyle và Loan, thành một cặp vợ chồng và sống ở Việt Nam, trôi nổi theo thời sự thăng trầm đầy biến cố ở đây. Pyle thực ra là cha ruột của Loan, một mối tình loạn luân kỳ lạ vì Phượng dù nhận lời làm vợ Fowler nhưng lại có con với Pyle. Và, tác giả kết cuộc: Loan cắt tóc coi như đi tu nhưng trong bụng lại mang giọt máu của Pyle.

Tiểu thuyết của Hồ Hữu Tường rất đặc biệt kiểu... Hồ Hữu Tường. Luôn luôn trong cốt truyện hoặc trong những câu đối thoại ông cố tình mang vào những kiến thức để tạo ra những gợi ý khác nhiều khi không ăn nhập gì đến diễn tiến câu chuyện. Nếu dùng luận lý thông thường thì tiểu thuyết của ông có nhiều điều vô lý không tưởng, nhưng đi sâu hơn một chút, thấy được sự độc đáo và cái cảm giác khi đọc là sẽ nhiều bỡ ngỡ với lối kết cấu bừa bộn những suy tưởng và bị dẫn đi trên những con đường mà trong vô lý thấy sự hữu lý.

Trong bài phỏmg vấn của Nguyễn Ngu Ý, Hồ Hữu Tường đã nhận xét về tác phẩm của mình như sau: “Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh và xuất bản ở Mỹ để làm bức thư cảm ơn chung cho những ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên để xin ân xá cho tôi. Là bộ ‘Thuốc Trường Sanh’. Tôi viết nó khi ở tù Côn Ðảo, Tháng Tư và Tháng Năm. Ðó là một quyển khảo cứu về triết học trình bày dưới hình thức tiểu thuyết có tính thời đại. Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu Châu tả sự cô đơn của cá nhân, trong Thuốc Trường Sanh tả sự cô đơn của tập thể, sự cô đơn của nhóm Tuyết Lê, trong thế giới hai phe đang chống đối nhau kịch liệt bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng ‘lấp cái hố của đấu tranh, của hận thù.’ Và nhân vật chánh của tiểu thuyết tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài người, cọp giết người vì bản tính tự nhiên còn người giết người lắm khi vì một cớ không đâu.”

Hồ Hữu Tường cũng tự nhận xét về tác phẩm “Thằng Thuộc Con Nhà Nông”:

“Tôi viết tự truyện ‘Thằng Thuộc Con Nhà Nông’ là để tôi tìm hiểu lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong tiềm thức sau này tô lên một lớp sơn dày. Mà ‘Thằng Thuộc Con Nhà Nông’ là quyển đầu của bộ ‘Một Kinh Nghiệm Sống’. Quyển kế sẽ là ‘Căm Hờn’, tả nỗi lòng của tôi tự kỷ ý thức được thân phận của mình, thân phận của một con nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bóc lột, phải phục thù, tôi chụp lấy cái khí giới Mác Lê. Quyển ba là ‘Mê Ly Ðồ’ người tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác-Lê là tôi đã hành động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này.”

Và, có khi như tự trách mình khi làm việc ôm đồm và thường xuyên bỏ dở nhiều công việc:

“Nhiều anh em trong đó có anh, trách nhẹ tôi hay bỏ mứa trong công việc viết. Bỏ dở dang những công trình đã khởi sự. Như dịch Tam Quốc Chí thì dịch có quyển đầu. Viết Lịch Sử Văn Chương Việt Nam thì chỉ cho ra quyển một. Có biết đâu, viết văn cũng như viết báo, đối với tôi là việc nhỏ, việc phụ.”

Thế việc lớn, việc chánh của anh là:

“Là sống. Khi mà cái tiểu tiết là viết, là gì gì khác mà không hợp với đại thể là tôi gạt qua bên.”

Thực ra khó mà định hình được chân dung Hồ Hữu Tường. Ông là một chính trị gia thất bại, ở tù nhiều lần, và coi thời gian ở tù như thời gian để chiêm nghiệm, để suy tư. Và cuối cùng ông chấm dứt cuộc sống ở tù ngục Cộng Sản. Ðọc những trang sách của ông, cái phong cách độc đáo, không giống bất cứ một tác giả nào khác và đôi khi cũng khác với cả những điều ông viết từ trước. Tôi không được đọc hết các tác phẩm của ông, nhưng tôi vẫn có cảm giác rằng ông là một người luôn đi kiếm tìm một con đường để thực sự sống, không phải cho riêng ông mà cho cả dân tộc Việt Nam nữa.

Sunday, June 21, 2009

CHÍN NĂM BÊN CẠNH TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Mạn đàm với cựu Đổng lý QUÁCH TÒNG ĐỨC

Lâm Lễ Trinh

Tuy là bạn tâm giao với người viết từ lâu, ông Quách Tòng Đức luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng khi nhắc đến những năm dài làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, vị lãnh tụ khai sáng nền Đệ nhứt Cộng hoà Việt Nam. Sau chính biến 1.11.1963, ông Đức trở lại ngành Tư pháp và được thăng trat Chủ tịch Tham Chính Viện naêm 1969. Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ, ông và gia đình xin tị nạn chánh trị tại Paris. Chánh phủ Pháp tuyển dụng ông vào Phòng Tố tụng Tổng quát của thị xã Paris, thời Thị trưởng Jacques Chirac. Ông về hưu đầu năm 1984. Nay 89 tuổi, trí tuệ còn minh mẩn tuy sức khoẻ không tốt như trước. Gần đây, trong những lần gặp nhau lại ở Pháp cũng như qua nhiều cuộc điện đàm có ghi âm, ông Đức đã chịu thố lộ với người viết nhiều điều liên hệ đến giai đoạn chín năm phục vụ vị nguyên thủ quốc gia bị sát hại năm 1963.

Lần đầu gặp chí sĩ Ngô Đình Diệm
Ông Quách Tòng Đức sanh tại An xuyên năm 1917, thuộc một gia đình trung lưu, đậu cử nhân và Cao học Luật Đông Dương năm 1941, Đại học Hànội, sau khi lấy bằng tú tài tại trường Pétrus Ký, Sàigòn. Ông thuộc toán cử nhân đầu tiên gồm có Nguyễn Thành Cung và Lê Văn Mỹ thi đậu năm 1942 vào ngạch huyện, phủ tại Miền Nam VN mà cấp bậc cao nhứt là Đốc phủ sứ thượng hạng ngoại hạng tương đương với chức Tổng Đốc đứng đầu tỉnh ở ngoài Trung và Bắc. Khi vua Bảo Đại chỉ định Trần Văn Hữu lập Chánh phủ, Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành (xuất thân là một Đốc phủ sứ như các ông Nguyễn Ngọc Thơ, Lê Tấn Nẩm, Dương Tấn Tài, Lê Quang Hộ ...) bổ nhiệm ông Quách Tòng Đức năm 1951 làm Chánh Văn phòng và thiếu tá Dương Văn Minh, Chánh Võ phòng. Năm 1953, thủ hiến Thành và Thiếu tướng Chanson bị nhóm Cao Đài kháng chiến của Trình Minh Thế ám sát tại Sadec trong một cuộc kinh lý.49 ngày sau Điện Biên Phủ thất thủ, tức là 26.6.1954, Bảo Đại giao cho cựu Thượng thơ Ngô Đình Diệm lập chánh phủ, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Trước đây, ông Diệm đã ba lần từ chối lời mời của Bảo Đại: năm 1937, 1945 và 1948. Ông giao thiệp thân tình với nhà cách mạng Phan Bội Châu lúc sanh tiền, có ghé Nhựt năm 1950 để hội kiến với Kỳ ngoại hầu Cường Để và, theo một số sử liệu, từng lãnh đạo Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội trong nước. Có lúc ông bị Việt Minh bắt giữ và - khác với Bảo Đại - đã cương quyết bác bỏ lời mời của Hồ Chí Minh làm Cố vấn cho Chánh phủ do Hồ dựng ra..Hiệp định Genève, ký ngày 20.7.1954, chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17. Trong đám đông quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có ông Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên bí thơ của Toàn quyền Decoux, cùng đi với ông Quách Tòng Đức. Thủ tướng Diệm - kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ - mời ông Thơ tham gia Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ. Ông Thơ chọn ông Đức làm Đổng lý Văn phòng năm 1954. Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ nhứt Cộng hoà VN. Quân đội tổ chức một cuộc diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới quyền điều khiển của Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên tại Rừng Sát. Ông Quách Tòng Đức thay thế Đổng lý Tôn Thất Trạch cuối năm 1954 và giữ chức vụ này cho đến ngày Quân đội đảo chánh năm 1963.

Nhận xét về mối liên hệ của TT Diệm với gia đình.
Theo ông Quách Tòng Đức, năm 1954 chánh phủ Pháp trả trước dinh Gia Long ở đường Gia Long, và sau khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhà cầm quyền Đệ nhứt Cộng Hoà mới thu hồi Dinh Toàn quyền Norodom, đổi tên thành Dinh Độc lập, trên đại lộ Thống nhứt.

Dinh này đươc kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên La Mã, xây cất lại hoàn toàn sau ngày 27.2.1962 vì Dinh bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại khá nặng. Dinh Độc lập chia làm hai tầng: tầng dưới có hai phòng khánh tiết tráng lệ và các Văn phòng của Cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Đổng lý Văn phòng, Tổng thơ ký Phủ Tổng thống và nhân viên. Tầng trên chia làm ba phần: phía trái dành làm Văn phòng và phòng ngủ của Tổng thống, phòng sĩ quan tuỳ viên; ở giữa có hai phòng tiếp tân khang trang; phiá phải là nơi cư ngụ của gia đình ông bà Nhu gồm có hai trai, hai gái. Tổng thống Diệm thích làm việc trong phòng ngủ, trang trí sơ sài voi một cái giường nhỏ bằng gổ, một bàn tròn và ba ghế da. Nơi đây, Tổng thống thường dùng cơm và tiếp các Bộ trưởng và tướng lãnh.

Gia đình Tổng thống rất trọng Nho giáo. Hằng năm vào Tết Nguyên đán, luôn luôn tụ họp đông đủ ở Phủ Cam, Huế, để chúc thọ bà cụ Ngô Đình Khả giao cho người con áp út Ngô Đình Cẩn săn sóc ngày đêm. Ông bà Ngô Đình Khả có chín người con: 6 trai, 3 gái. Trưởng nam, Tổng đốc Ngô Đình Khôi và con trai là Ngô Đình Huân bị CS giết năm 1945. Ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao tức bà Thưà Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ám, thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, mẹ vợ của Nghị sĩ Trần Trung Dung. TT Diệm là người con trai thứ ba trong gia đình nhà Ngô, sanh năm 1901 tại Huế, được vua Bảo Đại bổ nhiệm năm 1933 Thượng thơ đầu Triều lúc 33 tuổi nhưng ông Diệm sớm rủ áo từ quan vì thực dân Pháp không chấp nhận chương trình cải tổ rộng lớn của ông. Sau ngày ông Khôi qua đời, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả “quyền huynh thế phụ”. Đức cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Diệm. Ông Quách Tòng Đức cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long, Giám mục Thục vài tuần có về Saigon ngụ trong Dinh. Ông Ngô Đình Luyện, con út trong gia đình, đại sứ ở Luân Đôn, năm khi mười họa mới về nước nghỉ phép hay để dự các phiên họp của Hội đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên. Ông Đức không nhớ có lần nào gặp ông Cẩn trong Dinh Độc Lập. Văn phòng Đổng lý không làm việc thẳng với Cố vấn Nhu. Ông Nhu có nhân viên riêng trong Sở Nghiên cứu Chánh trị Phủ Tổng thống mà người giám đốc đầu tiên là đốc phủ sứ Vũ Tiến Huân, Tham lý Nội An Bộ Nội vụ, về sau thay thế bởi bác sĩ Trần Kim Tuyến. Văn phòng của Sở Nghiên cứu xử dụng một ngôi nhà riêng trong hàng rào Dinh Độc lập. Vài tháng trước vụ binh biến 1.11.1963, Tuyến bị thất sủng, trung tá Phạm Thư Đường thay thế. Tuyến được bổ nhiệm làm Tổng lãnh sự (hụt) tại Le Caire, trở lại VN và liên hệ đến một nhóm âm mưu đảo chánh. Đảo chánh thành công, bs Tuyến bị Hội đồng Cách mạng đày ra Côn Đảo (tỉnh trưởng là trung tá Tăng Tư) trên một năm cùng với lối 200 nhân vật chế độ cũ gồm có Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ, đại tá Nguyễn Văn Y, Hà Như Chi, Dương Văn Hiếu). Ông Quách Tòng Đức không thể xác nhận tin nói rằng trước ngày 1.11.1963, ông Nhu đã giao cho người em vợ là Trần Văn Khiêm điều khiển cơ quan mật vụ. Khiêm bị nhiều tai tiếng, từng cộng tác với Văn phòng của luật sư Trương Đình Dzu, ứng cử viên Tổng thống thời Thiệu-Kỳ. Vụ Khiêm giết cha mẹ là ông bà cựu đại sứ Trần Văn Chương tại Hoa kỳ sau 1975 làm dư luận xôn xao. Toà án Mỹ tha Khiêm với lý do Khiêm bị bịnh tâm thần và trục xuất Khiêm khỏi Hoa kỳ. Khiêm hiện sống bình thường ở Pháp. Có sự điều đình chánh trị gì bên trong vụ án này?

Khi được hỏi cách cư xử của TT Diệm với bà Nhu (nhu danh Trần Lệ Xuân), ông Đức cho biết “ông cụ có vẻ nể và ủng hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới và vận động Quốc hội ban hành Bộ Luật Gia đình cấm ly dị. Tổng thống cho rằng bà Nhu hành động như vậy là giúp cải tổ xã hội. Tuy nhiên, những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia đình nhằm mục tiêu riêng: ngăn luật sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với vợ là Trần Lệ Chi, chị của bà Nhu. Ngoài chức vụ dân biểu Quốc hội, bà Nhu còn là chủ tịch Phong trào Phụ nữ Liên đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu đóng vai trò Đệ nhứt Phu nhân vì Tổng thống độc thân. Tuy bất bình về những lời tuyên bố châm dầu vào lửa của người em dâu trong vụ Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11.6.1963 (đặc biệt với câu “monks’ barbecue”), ông Diệm không công khai phủ nhận vì ngại đụng chạm đến ông Nhu vào một giai đoạn rối như tơ vò. Chính ông Nhu, với tánh hay nhường nhịn cho yên nhà yên cửa, cũng không kiểm soát nổi lối phát ngôn của vợ. Bà Nhu hiện có một cuộc sống kín đáo, nặng về tôn giáo giữa Paris và Rome, tất cả con cái đều thành tài. Trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy chết trong một tai nạn lưu thông sau 1975. Sự bất hạnh không ngớt đeo đuổi gia đình nhà Ngô. Thời gian gần đây, bà Nhu thay bà Luyện để tổ chức hằng năm tại Paris một lễ cầu hồn cho TT Diệm và ông Nhu. Trong số ít người còn lui tới với bà Nhu, có vợ chồng cựu bộ trưởng Lao động Hùynh Hữu Nghiã. Ông Nghĩa qua đời năm vừa rồi.

Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail..v.. v..), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà thánh Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục được Giáo hoàng phục hồi chức tước, về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri.

Ông Quách Tòng Đức xác nhận ông Ngô Đình Nhu chẳng những là lý thuyết gia mà còn là bộ óc của Đệ nhứt Cộng hoà, “l’homme indispensable, nhân vật cần thiết”. Ông xuất thân từ Ecole des Chartes Paris, trầm tỉnh, ít nóí, lạnh nhạt bên ngoài, thích nghiên cứu lịch sử, có nhiều sách hơn đồng chí. Trong lối ba năm chót của chế độ, dù giữ quyền quyết định cuối cùng trong mọi việc, TT Diệm thường phê chuyễn các hồ sơ chánh trị quan trọng qua cho ông Nhu để lấy ý kiến, không kể những cuộc gặp mặt thảo luận riêng hằng ngày. Ông Nhu làm việc âm thầm, cần mẩn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần nửa điếu, do sự can ngăn của bà Nhu) trong một văn phòng không rộng, đầy ngập sách vở, ánh sáng mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc lập, có gắn máy lạnh và interphone với bên ngoài. Ông thường phê vào các công văn với một cây bút chì mỡ màu xanh lá cây.

Ông là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị, Personnalisme, đúc kết hai xu hướng của triết gia công giáo Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques Maritain (1882-1973). Ông phát động và thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp chiến luợc từng gây khiếp đảm cho CS Bắc Việt. Quốc sách này được thành lập bởi Nghị định số 11-TTP của Tổng thống và ông Nhu là Chủ tịch Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp chiến lược. Ông Nhu cũng cho thành lập Phong trào Thanh niên và Thanh nữ Cộng hoà giao cho Cao Xuân Vỹ phụ trách. Ông đẩy mạnh tổ chức Lao động ở Việt nam và nâng đở Trần Quốc Bửu. Đại tá CIA Lansdale (người đã ủng hộ Magsaysay trở thành Tổng thống Phi Luật Tân năm 1952) giúp ông móc nối với Lực lương kháng chiến Cao Đài để đưa tướng Trình Minh Thế về với Quốc gia. Ngoài chức Tổng Bí thơ Đảng Cần Lao (tổ chức theo mô hình đảng Cộng sản, với một Quân ủy trong Quân đội), có một lúc ông Nhu là dân biểu Quốc hội. Ông không bao giờ tháp tùng Tổng thống trong các cuộc kinh lý. Săn bắn là thú tiêu khiển yêu chuộng của ông và đồng thời là cơ hội tìm nơi yên tịnh để suy nghĩ.

Ông đại sứ Ngô Đình Luyện, gốc kỹ sư, tánh tình cởi mở, thích giao du với bạn bè mỗi khi về VN nhưng không có nhiều ảnh hưởng vì không xen vào vấn đề nội trị. Ông là bạn học của cựu hoàng Bảo Đại, sống tại Luân đôn và đại diện VNCH ở nhiều xứ Âu châu và Phi châu. Sau khi vợ trước qua đời, ông Luyện tục huyền với em vợ và có rất đông con. Bà Luyện sống ở ngoại quốc nhiều hơn và ít khi xuất hiện. Sau 1963, ông Luyện daỵ toán tại một trường tư thục Paris, sau đó sang Phi châu làm việc một thời gian, tình trạng khá chật vật khi về hưu. Ông có qua Hoa kỳ vài lần để thăm Đức TGM Thục, không còn liên lạc với bà Nhu và ông đã quá vãng? Pháp,

Cho đến cuối năm 1961, vai trò của ông Ngô Đình Cẩn, Cố vấn lãnh đạo Miền Trung, trái lại, rất hệ trọng về mặt an ninh và đoàn thể. Ông Cẩn không ăn học cao nhưng nắm vững tình hình địa phương, có óc tổ chức, luôn luôn trang phục theo lối Việt, áo dài, khăn đống, ăn trầu, (từ đó biệt danh “Ông Cố Trầu”), độc thân, thích hút thuốc Cẩm Lệ, đan rổ, làm vườn, nuôi thú, nuôi chim. Ảnh hưởng của ông lan vào Miền Nam với những điệp vụ mang danh nghĩa chiêu hồi của Đoàn Công tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu quán xuyến, sự hiện diện của Nguyễn Văn Hay trong cương vị phó TGĐ tại Tổng nha Cảnh sát Công An Sàigòn và các hoạt động của cánh Cần Lao do nha sĩ thân tín Phan Ngọc Các điều khiển. Sau 1.11.1963, viên lãnh sự Mỹ Helble tại Huế không cho Cẩn và thân mẫu được tị nạn chánh trị tại Toà lãnh sự trong khi trước đó, cơ quan USAID Sàigòn chứa chấp Trí Quang nhiều ngày.Lúc vừa bị bắt, ông Cẩn có chỉ cho tướng Đổ Cao Trí tịch thu tại nhà ông ở Phú Cam, dưới gầm giường, "một bao bố và một va-li đựng quý kim" (đọc hồi ký Dòng họ Ngô Đình của Nguyễn Văn Minh, bí thơ của N Đ Cẩn, trang 307).Ông Cẩn bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng, thời Nguyễn Khánh, xử tử vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 9.5.1964 tại sân sau khám Chí hoà, Sàigòn. Luật sư bào chữa là Võ Văn Quan. Cố vấn Cẩn tỏ ra bình tỉnh tại pháp trường, tuyên bố tha thứ cho các người tuyên án ông và xin đừng bị bịt mắt nhưng không được chấp nhận. Nếu gia đình thỏa thuận lấy của đổi mạng, ông Cẩn có thể đã thoát chết. Vụ tống tiền này đã được cố nghị sĩ Trần Trung Dung và cố trung tướng Lâm Văn Phát xác nhận với người viết sau 1975.

Được hỏi về tin đồn có sự cạnh tranh ảnh hưởng chánh trị giữa Nhu và Cẩn, ông Quách Tòng Đức nói chỉ nghe nói phong thanh. Vào tháng 10.1963, ông Cẩn nhận được lệnh của TT Diệm ngưng mọi hoạt động về đoàn thể và đóng cửa Văn phòng Cố vấn chỉ đạo ở ngoài Trung gồm có Hồ Đắc Trọng và đại úy Nguyễn Văn Minh. Hình như sự hiện diện của TGM Ngô Đình Thục tại Huế đã bó tay ông Cẩn phần nào. Ông Cẩn không dám phê bình chị dâu tuy không ưa bà Nhu.

Trong phạm vi cá nhân, ông Cẩn giữ liên lạc tốt với Thượng tọa Trí Quang nhưng điều này không giúp giải quyết cuộc khủng hoảng Phật giáo. Hoa kỳ và Cộng sản đã nhúng tay quá sâu.

Người viết có yêu cầu ông Quách Tòng Đức cho biết trong gia đình họ Ngô, ai là người gây tiếng tâm bất lợi cho chế độ. Suy nghĩ một phút, ông Đức đáp: TGM Thục và bà Nhu. Đặc biệt trong giai đọan Phật giáo, Đức cha ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh vực tôn giáo. Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị, điều ít thấy trong giới phụ nữ VN. Ngó từ bên ngoài, năm anh em Ngô Đình rất khắn khít, mỗi người giúp tay tích cực xây dựng chế độ trong một lãnh vực. Sự đoàn kết ấy được diễn tả trong huy hiệu Đệ nhứt Cộng Hoà: năm cành trúc kết thành một bó, dưới khẩu hiệu “Tiết trực Tâm Hư.” Tuy nhiên, mỗi nhân vật có cá tánh riêng, nhận định không luôn luôn nhất thống, đôi khi còn mâu thuẩn. Đó là hậu quả khó thể tránh trong một chế độ dựa vào gia tộc để lãnh đạo. Phe chống đối cũng như Hoa kỳ và Cộng sản đều khai thác triệt để và dễ dàng nhược điểm này.Dư luận cho rằng trong năm chót của chế độ, trước cuộc binh biến 1.11.1963, ông Nhu – trên thực tế – là một “Tổng thống không ngôi” vì có nhiều quyền lực, làm lu mờ vai trò của ông Diệm nhưng quyền bính hiến định vẫn ở trong tay ông Diệm bị tấn công tứ phiá, bên trong lẫn ngoài nước. Không có một văn kiện chánh thức nào bổ nhiệm ông Nhu lẫn ông Cẩn làm Cố vấn Chánh phủ. Chính các đoàn thể chánh trị ở Miền Trung mời ông Cẩn làm “Cố vấn Chỉ đạo” và dành cho ông danh xưng này. Có lúc dư luận cảm thấy ông Diệm cần ông Nhu hơn là ông Nhu cần ông Diệm. TT Diệm không thể tách rời khỏi ông Nhu đóng vai trò "l'âme damnée, linh hồn đày đọa". Đó là đầu mối thảm trạng xảy ra cho hai người vào giờ phút chót.TT Diệm tưởng lầm có thể dùng uy tín cá nhân để bảo vệ sanh mạng của bào đệ. TT Diệm cũng tưởng lầm khối tướng lãnh chấp nhận điều đình với ông. Phần đông tướng lãnh kính nể TT Diệm nhưng tất cả ngán sợ ông Nhu vì ông Nhu lắm mưu mô, nhiều bản lãnh. Sự ngán sợ đã trấn áp lòng nể trọng và dẫn đến quyết định hy sinh vị nguyên thủ quốc gia. 3 giờ trưa ngày 1 tháng 11, lúc tiếng súng đang nổ lớn, TT Diệm điện thọai cho đại sứ Lodge: Một cuộc điện đàm ngắn ngủi, đầy phẩn nộ trong khuôn khổ ngoại giao. Khi hay hai ông Diệm, Nhu thoát khỏi Dinh Gia Long đêm 1.11.1963, nhóm phản loạn “run lên phát rét “ và một tướng cầm đầu định “trở cờ”, theo sự tiết lộ của Tổng thống Thiệu trước khi qua đời với người viết.

Conein thúc phe phản loạn phải bắt sống cho kỳ được hai ông Diệm, Nhu. Conein nói suồng sã: “On ne fait pas l’omelette sans casser les oeufs", [Không thể rán trứng mà không đập bể trứng ! ], theo Trần Văn Đôn kể lại trong Hồi ký. TT Diệm không chịu ra lệnh cho một số đơn vị võ trang trung thành phản công quân đảo chánh vì muốn tránh cảnh nồi da xáo thịt, làm suy giảm tiềm năng kháng cộng. 4 giờ sáng ngày 2.11.1963, hai tư lệnh Quân khu thân tín ở Vùng I và II là tướng Đổ Cao Trí và Nguyễn Khánh tuyên bố ủng hộ Hội đồng Cách Mạng. Hy vọng cuối cùng tan biến. Hai giờ sau, Tổng thống cho phép đại úy Đổ Thọ, sĩ quan tùy viên, điện thoại cho chú y là đại tá Đổ Mậu yêu cầu cho xe đến đón tại Nhà thờ Cha Tam Chợlớn. Lúc 6 giờ và 6 giơ 45 sáng ngày 2.11.63, TT Diệm đích thân điện thoại cho các tướng Minh, Đôn và Khiêm để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Dương Văn Minh chỉ-định Nguyễn Văn Nhung (tên vệ sĩ đã từng thủ tiêu xác của Ba Cụt) trong toán đi đón, với chỉ thị riêng thanh toán hai ông Diệm, Nhu, trước khi về tới Bộ Tổng tham mưu. Thái thú Cabot Lodge nhắm mắt trước vụ mưu sát bỉ ổi này mà ông có dư quyền chận lại nếu muốn. Đây là một vết nhơ không bao giờ rửa sạch trong lịch sử đại cường Hoa kỳ. Tổng thống Kennedy (lãnh tụ đảng Dân chủ) quá yếu đuối, để cho thuộc hạ lật đổ ông Diệm một cách vô trách nhiệm, với sự a tùng của viên đại sứ đồ tể Cabot Lodge (thuộc đảng Cộng hoà). Ông Nhu có thiện cảm với Pháp hơn với Mỹ, yếu tố văn hoá/ giáo dục ảnh hưởng nặng. Ông Diệm lại e dè với Pháp (qua kinh nghiệm thất vọng thời làm quan dưới triều thực dân) nhưng rốt cuộc, oái oăm thay, ông trở thành nạn nhân của Mỹ mà ông nghĩ là văn minh và nhân đạo hơn!

Con người của chí sĩ Ngô Đình Diệm.
Nhiều sách vở và tài liệu đã nóí về cuộc đời chánh trị và riêng tư của TT Ngô Đình Diệm: một lãnh tụ cương trực, khí khái, chống cộng cố hữu (anti-communiste invétéré) cũng như bướng bỉnh với đế quốc, bất luận Pháp, Tàu hay Mỹ. Theo ông Quách Tòng Đức, TT Diệm có cái uy nghiêm riêng phát xuất từ một gương mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm áp, một lối nhìn thẳng vào người đối thoại. Một nốt ruồi đen thấy rỏ trên gò má dưới mắt trái của Tổng thống được các nhà tử vi xem như báo hiệu một số mạng nhiều buồn phiền và tang tóc. Ông không nặng lời hay gắt gỏng với cấp thừa hành, khi không vừa ý.Phong cách của TT Diệm làm cho những người tiếp xúc với ông phải kính nể. Sau cái bề ngoài trầm tỉnh, TT Diệm là một con người cuồng nhiệt, một hỏa diệm sơn, kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những đức tin căn bản. Trong chín năm làm việc tại Dinh, ông Đức cũng có dịp chứng kiến một ít trường hợp – vì lý do đặc biệt – Tổng thống thịnh nộ, quát tháo, đập bàn .. Những “trận bão” này, tuy nhiên, qua mau, Tổng thống tự kềm chế cấp thời vì bản tánh của ông bộc trực, không cố chấp, không thâm độc như Hồ Chí Minh. Ông có thể độc thoại hàng giờ khi nói đến những đề tài mà ông nghiền ngẫm như chủ thuyết cộng sản, ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, cải tổ hành chánh, hay văn hoá Khổng Mạnh. Mái tóc đen nhánh, dáng người thấp, chân đi hai hàng lạch bạch nhưng mau lẹ. Rất sùng đạo, xem lễ mỗi buổi sáng, hoăc tại một phòng riêng trong Dinh, hoặc tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu thế. Trang phục màu trắng, cà vạt đen quanh năm, không thay đổi. Làm việc bất chấp giờ giấc, với nhịp độ làm các người thân cận mệt nhoài. Khi có vấn đề khẩn, ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Bằng không, ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không bao giờ hút hết phân nửa điếu thuốc. TT Diệm kinh lý không biết mệt, có khi mỗi tuần đi suốt hai ba ngày, đến các tiền đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, xử dụng mọi phương tiện chuyên chở: máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng….. Ông không hùng hồn trước đám đông nhưng rất thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan cách, không mị dân. Khi nhóm Hội đồng Nội các, Tổng thống Diệm thường ra ngoài chương trình ấn định, nếu tình cờ gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê, không đầu không đuôi, lắm khi không kết luận. Với tư cách thơ ký phiên họp, ông Quách Tòng Đức ghi mệt tay. Lúc bế mạc, các bộ trưởng thường phải nhờ ông Đức tóm tắt vì suốt chín năm trời làm việc bên cạnh Tổng thống, ông Đức đã quen và rút kinh nghiệm, tuy đôi lúc cũng đoán lầm. TT Diệm sống rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng giáo nghiêm khắc và Công giáo khổ hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát thực tế. Ông thường nhắc rằng người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại cuộc mà không cần đến cơm áo và chức tước, một lời khen của lãnh tụ đủ gây mãn nguyện. Khổ nổi, không phải cán bộ nào cũng thánh thiện như thế. Cuộc nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa.

Sánh với Hồ Chí Minh, ông Diêm là một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược. Thú tiêu khiển của TT Diệm không nhiều vì thiếu giờ rảnh. Ông thích cỡi ngựa ở Đàlạt hay trong vòng rào của Dinh Độc Lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập máy ảnh, thích chụp hình và rất vui khi nhận được một máy loại mới. Chủ tiệm chụp hình Hà Di thường được gọi vào Dinh về vấn đề chuyên môn. Tổng Thống ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già Ẩn và đại uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi gồm có cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Tổng thống ít khi đau, lâu lâu cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông nhân viên, do ông Tôn Thất Thiết phụ trách. Vấn đề tiền bạc riêng của Tổng thống thì giao trọn cho Chánh văn phòng đặc biệt Võ Văn Hải, ông Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, học trò cũ của GM Ngô Đình Thục, tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, cử nhân Hán học, rể của cựu Thượng thơ Nguyễn Khoa Toàn, theo sát Tổng thống Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải ngoại và được ông Diệm thương như con. Ông Hải chính là người được TT Diệm chỉ định ngày 11.11.1960 ra trước cổng Dinh Độc Lập tiếp xúc với các sĩ quan phản loạn Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông để tìm hiểu yêu sách của họ. Hải chống ông bà Nhu và bác sĩ Tuyến, giám đốc Sở Mật vụ và cũng không thích ông Cẩn.

Ông Đức còn thêm: Vài hôm sau 1.11.1963, ông có chứng kiến vụ Hải trao cho đại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của tướng Trần Văn Đôn số tiền của TT Diệm giao cho Hải cất giữ. Ông Đức không biết số tiền này được bao nhiêu và lọt vào túi của ai. Khi phe quân nhân lên cầm quyền, Võ Văn Hải có can đảm tổ chức nhóm “Tinh thần Ngô Đình Diệm” và ra ứng cử dân biểu tại Sàigòn nhưng thất cử. Năm 1974, không hiểu vì sao Hải lại xoay qua, cùng với Tôn Thất Thiện, ủng hộ nhiệt tình tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh hạ sát hai ông Diệm, Nhu. Hải qua đời trong một trại giam Bắc Việt sau 1975, đem theo nhiều điều bí mật chưa hề tiết lộ.

Về câu hỏi TT Diệm liên hệ ra sao với đảng Cần Lao, ông Quách Tòng Đức cho biết ông Diệm chỉ để ý theo dõi hoạt động của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia (tổ chức nồng cốt của chế độ từ lúc đầu) và Liên đoàn Công chức Cách mạng, một tổ chức ngoại vi của Chánh phủ. Về chuyện thành lập và sinh hoạt của đảng Cần Lao, TT Diệm giao hết cho hai ông Nhu và Cẩn. Trong các năm chót của chế độ, kế hoạch Áp chiến lược cũng do ông Nhu hoàn toàn phụ trách, Tổng thống không lưu ý đến như đã từng lưu ý đến kế hoạch Dinh điền hay Khu Trù mật. Các gương mặt nổi trong hoạt động Cần Lao gồm có các ông Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa, Lê Quang Tung, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Châu, Đổ Kế Mai, Nguyễn Trân ..v..v.. Bs Tuyến làm việc với ông Nhu, ít khi gặp Tổng thống, trừ trường hợp đặc biệt.. Quyết định đưa Cần Lao vào Quân đội – tức là chính trị hoá Quân đội – làm yếu Quân đội vì phá vỡ hệ thống quân giai và làm nản lòng các sĩ quan chuyên nghiệp. Quân đội chỉ biết có Tổ Quốc. Và phục vụ tổ quốc mà thôi.

Vụ công điện số 9159 cấm treo cờ Phật giáo và sự trở mặt của các sĩ quan thân tín.
Trong quyển hồi ký “ Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 tại Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu tại răng hắn để tới ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông Đức đã gởi đi một công điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu..Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức?”

Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông Quách Tòng Đức tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ có nhận được lệnh của ông Diệm thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6.5.1963 do ông Nguyễn Văn Minh nêu ra, với nội dung “chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền..) chỉ treo cờ Quốc gia mà thôi” (nguyên văn). Trước đó, việc treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.Ông Đức kể lại: Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa lễ Phục Sinh, TT Diệm có chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức Tỉnh về thể thức treo quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo, không phân biệt tôn giáo nào: treo trước cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích thước, còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn. Thông tư nhấn mạnh: phiá trong các giáo đường, chùa chiền và những nơi thờ phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới hạn.. Lệnh của Tổng thống được phổ biến ngay ngày hôm sau. Theo ông Quách Tòng Đức, đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc: Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục của Đức cha Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ Vatican "loạn xạ", bất chấp thông tư nói trên. Một tuần sau - ngày 8.5.1983 - vào lễ Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo cờ Phật giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành thể thức treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng thống nên gây sự phẩn nộ của Phật tử vì họ cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại Miền Nam, theo ông Đức, với 4.800 chùa Phật, không có xảy ra vấn đề như ở Huế.Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nản”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vưà kể. Theo ông Quách Tòng Đức, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Độ tự thiêu, Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) , TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang ? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức” ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền. Để tỏ thiện chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban Liên bộ và Liên phái công bố một thông cáo chung ngày 16.6.1963 xác định những điểm đã thỏa hiệp về việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hưá xét lại Dụ số 10 trước Quốc hội vào cuối 1963, tạm ngưng áp dụng Nghị định của Phủ Tổng thống số 116/TTP/TTK ngày 23.9.1960 ấn định thể thức mua bán bất động sản và đất đai của Phật giáo, hưá sẽ trừng trị nhân viên có lỗi và bồi thường các gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, mọi việc đã quá trễ đối với Hoa kỳ và Bắc Việt.

Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà bình dang dở”, (nxb Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm chiều 8.5.1963 tại Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống? (tập 2, trang 366-370). Theo trung tướng Trần Thiện Khiêm xác nhận với Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our nightmare, chương VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý 30.1.1964) đã hy sinh thiếu tá Đặng Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để Thich Trí Quang trì hoãn chống đối. Toà án Mặt trận xữ Sỹ khổ sai chung thân.Tình trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ muà hè 1962, nổ lớn tại Huế với vụ Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan rộng. Ngày 21.8.1963, đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối với tướng lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc Biệt của Đại tá Lê Quang Tung lục soát chùa chiền, các tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo phe phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm động khi được biết đại tứớng Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận với người viết rằng sau ngày 30.1.1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông Diệm-Nhu, - từ đại úy thăng thiếu tá - bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực lượng Nhãy Dù của Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ bằng một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời tướng Viên.

Được hỏi: trong các tướng thường vô ra Dinh Độc lập, ai là người được sủng ái nhứt, ông Quách Tòng Đức đáp không do dự: “Tôn Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, mà Tổng thống xem như người nhà!” Điều này không ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh 1.11.1963, hệ trọng hơn cả Dương Văn Minh được chọn làm bình phong. Chính Trần Văn Đôn, với tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, rằng Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng 9.1963, và Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ trương”. Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên ông ta không nên bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!”(trang 193). Trong những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ 1.11.1963 cho đến ngày Tổng thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện Khiêm đứng sau màn giựt giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân chứng hàng đầu khả tin. Tới nay, ông Khiêm không đính chánh mà cũng không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ ra đi như tướng Thiệu, mang xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị Cộng hoà Miền Nam ?

Theo Quách Tòng Đức, Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời cuộc đưa lên ghế Quốc trưởng hai lần: sau 1..11.1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư 1975 (với sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần sau, được 40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện. Với tư cách Bộ trưởng Nội vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viễn và có mời tướng Dương Văn Minh đến giải thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống, một chức vụ tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc gươm Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô ơn sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ Thủ tướng Diệm, giúp dẹp Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. Một lý do khác gây nghi ngờ đối với tướng Minh là cơ quan tình báo quốc gia bắt đủ bằng chứng về mối liên hệ thầm lén giữa ông Minh và người em CS là thiếu tá Dương Văn Nhựt, bí danh Mười Ty. Một người em khác của tướng Minh là Trung tá QĐVNCH Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc ở trong và ngoài xứ. Cựu đại tá Nguyễn Văn Y, cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát Công an, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người viết có đích thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng thống liền ra lệnh hủy hồ sơ này "trước mắt ông" vì không muốn cho Hoa kỳ biết, “xấu hổ..” (sic). Hoa kỳ và Cabot Lodge đã khai thác mối thù riêng của tướng Minh đối với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ nhứt Cộng hoà và thay ngựa giữa giòng. Hoa kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực Trần Văn Hương trao quyền gắp lại cho D V Minh – trái với Hiến pháp - hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN. Nguyên đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện ở Huntington Beach, Californie, kể lại với tác giả bài này: Năm 1983, ông có gặp tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu cuối tháng 4.1975 lại hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút trong vòng 24 giờ? Tướng Minh đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn - đã làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin.” Các sự kiện trên đây cho thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối trong tay Hoa kỳ, Pháp và Bắc Việt. Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN bằng cách tuân lệnh đảo chánh ông Diệm. Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên TT Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu: “Minh không phải là con người thích hợp với cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!” Năm 1988, đại tướng Minh được Hoa kỳ cho phép rời Paris qua Pasadena, Californie, sống với người con gái. Phải chăng đây là một cách trả ơn? Ông Minh quá vãng ngày 6.8.2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ Văn Kiệt cũng có đến thăm ông tại Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi ký Không Tên” vưà xuất bản tại Saigon. Với vài người thân tín, tướng Minh nói ông không tiếc hối đã đóng vai trò của một Pétain Việt Nam!

Nguyễn Khánh là một sĩ quan thân tín có công “cứu Chúa” trong vụ binh biến 11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ông nuôi cao vọng thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi thăng Thiếu tướng tạm thời tại mặt trận, ông được đưa lên Cao nguyên hẻo lánh để trấn Quân khu 2 và Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn, vì thế tuyên bố trên đài phát thanh lúc bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng hộ phe đảo chánh. Theo tướng Khánh kể lại với người viết: đêm 1.11.1963, ông Diệm và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn lên Pleiku cố thuyết phục ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải cứu nhưng ông Khánh trả lời “Quá trể và ở quá xa.”. Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng Khánh nhận về “cứu giá”, nếu TT Diệm trì hưởn xuất hiện sáng 2.11.1963 và nếu sự cứu giá thành công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc biết bao nhiêu chữ “nếu”! Sau hết, với người viết, tướng Khánh còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa (viết tay) trao quyền lại cho Quân đội sau cuộc binh biến 11.11.1960. Đây là một sự kiện khác mà tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi lễ long trọng truy điệu cố TT Ngô Đình Diệm tại thủ phủ Little Sàigòn, Californie, tướng Nguyễn Khánh không tiếc lời ca tụng TT Diệm như một anh hùng dân tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi gương.

TT Diệm nể trọng đại tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong Quân đội được kêu bằng Ngài. Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu năm 1963 để phản đối trong vụ Phật giáo.

Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên “trở cờ”? Tuy không thân cận với giới tướng lãnh, ông QTĐ có thể trả lời theo một nhận định chung: Trần Văn Đôn (em út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng công khai đốt lon sĩ quan Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn Thất Đính (con cưng của chế độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một Brutus hay một Juda? .

Ai thâm độc nhứt? Đổ Mậu. Ông Mậu - một cột trụ Cần Lao - thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao gộc) để van xin Đính theo quân nổi loạn. “Đại tá muôn năm” Đổ Mậu hận vì TT Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn. Người viết có dịp hỏi nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo Bộ Văn hoá không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng Khánh nheo mắt cười, trả lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một số Phật tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cọng tác sốt sắng và đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn chánh trị” quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá Quốc gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong hồi ký Chung Một Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 1993). Chẳng những thế, trang 453-454 của hồi ký còn tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện trợ và bỏ rơi TT Thiệu, Khánh công khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn chót của Hiệp định Paris.

“TT Diệm có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông Đức: Tại Bắc Việt, Cộng sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam, cũng có khuynh hướng ấy đối với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong Phong trào Cách mạng Quốc gia với số đoàn viên tăng từ 10,000 năm 1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức đến tận xã, phường. Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cộng tác với ông Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê Quang…..Ông có công xây dựng Phong trào CMQG, tổ chức Chiến dịch tố cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng thống”. Bất thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng khác ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán bộ Cần lao dân sự và quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn Sĩ (Tư pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi thành Nha Tổng Giám đốc Thông tin do bác sỉ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ trách. Ngày 30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu) tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs Tuyến thì được nhà báo điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân Ấn lấy xe chở đến một địa điểm dùng trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm việc cho Tòa Đại sứ Anh ở Sàigon. Tuyến làm chủ một nhà trọ bed and breakfast gần Cambridge và qua đời cách đây vài năm, sau khi phát hành với Cao Vĩ Hoàng quyển hồi ký “ Làm thế nào giết một Tổng thống?”

Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân trong những năm đầu chấp chánh nhưng về sau, trở nên khó tánh và khép kín hơn. Ảnh hưởng của quyền lực? hoàn cảnh ? giới cận thần a dua? Qua ba giai đoạn Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ nhứt Cộng hoà đi lần vào bế tắc.

Trong gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia của ông Nhu, - chồng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc - lợi dụng chức vụ để phản tuyên truyền và đả kích kịch liệt Chánh phủ Sàigòn và luôn cả vợ chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn Đổ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên bộ trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột chèo với ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm. Ls Châu đào thoát qua Paris ngang con đường Nam Vang nhờ sự giúp đở của bạn học cũ là Quốc vương Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ luật chỉ trích chương trình viện trợ Hoa kỳ ở VN và sau đó, dạy luật tại Đại học Paris. Ls Châu như khoa học gia Bửu Hội, năm 1972, cũng ngã theo ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam.

Trần Văn Đôn- người chủ trương đảo chánh - nhìn nhận một cách thương hại: Tội nghiệp, mọi người đều bỏ TT Diệm! Ông QTĐ tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị Phật giáo. Ông cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một số chùa như chùa Sư Nữ của Sư bà Diệu Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở Huế..Chính ông Đức đã nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội Phật giáo Nam Việt những số tiền giúp đở. Một chuyện mà ít người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15.000 mỹ kim, giải thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng thống. Vì lý do chánh trị, quyết định này không được công bố. Ủy ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình - sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị giết - rằng Đệ nhứt Cộng hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm di cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm ngầm. Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống đối ra mặt.Cho đến ngày TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ sát cạnh bên Tổng thống hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo: Đổng lý (Quách Tòng Đức), Tổng thơ ký Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần Sử, nội dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…..

Vấn đề thủ tiêu các người đối lập và việc tiếp xúc của ông Nhu với đối phương Cộng sản.
Sau chánh biến 1.11..1963, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng tố cáo chánh quyền Diệm đã thủ tiêu một số ngưới đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Vũ Tam Anh, Hồ Hán Sơn, ..v..v.. Quách Tòng Đức tuyên bố không biết gì về những chuyện này thuộc thẩm quyền các cơ quan công an, tình báo. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng ông Diệm không bao giờ đích thân chủ trương như vậy vì Tổng thống là một tín đồ Công giáo thuần thành, phân biệt tội phước, không khát máu như Cộng sản mà ông tích cực chống đối. Có thể một số nhân viên an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle) hay giải thích sai lầm chỉ thị cấp trên. Một bằng chứng cụ thể là TT Diệm chỉ ra lệnh giam chớ không cho xữ tử Hà Minh Trí, một cán bộ Cao Đài, mưu sát hụt ông tại Ban Mê Thuột và gây thương tích cho Bộ trưởng Đổ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội đồng Cách Mạng trả tự do khi họ đã giết TT Diệm. Câu hỏi nêu ra là cuối cùng, TT Diệm có hay biết các vụ thanh toán toán đối lập hay không và phản ứng thế nào? Dù sao, lịch sử vẫn đặt vấn đề trách nhiệm tinh thần đối với ông.Trong giai đoạn chót của chế độ, có tin đồn trong quần chúng và báo giới Mỹ rằng cố vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS kháng chiến để tìm ra giải pháp giữa Nam, Bắc. Chính ông Nhu có đề cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khoá 13. Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun ( An dộ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon để liên lạc với Hànội.Ông Quách Tòng Đức nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa kỳ, Tổng thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí Minh. Hơn nửa, Hiến pháp VNCH có ghi rỏ chủ trương của Miền Nam Việt Nam chống chủ nghĩa vô thần. Ông Đức còn xác nhận: một Tết Nguyên Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng lẩy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Độc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tich Nhà nước Cộng hoà Xã hội Miền Bắc”.

Những ngày chót của Tổng Thống Diệm. Các cận thần cuối cùng.
42 năm trôi qua, mọi công dân VN, ủng hộ hay chống đối ông Diệm, đều cảm thấy nhục nhã khi đọc lại những lời thú nhận sống sượng của tướng Trần Văn Đôn, đầu não trong chánh biến 1.11.1963 và tác giả của quyển hồi ký “VN Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, Californie, 1989) về vai trò Hoa kỳ chỉ huy vụ lật đổ và sát hại một lãnh tụ đồng minh. Đôn viết: “Đúng 1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng của Đôn) mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ và một bao tiền là ba triệu bạc VN” (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge để thỉnh thị: “Chúng tôi (nhóm đảo chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân, chỉ muốn cứu nước!” (trang 210). Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963. không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.

Ông Đức bùi ngùi nhắc lại: Tối 1.11.1963, khi tiếng súng nổ rền khắp nơi, ông và gia đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường Lê Văn Thạnh, Sàigòn, ngủ đêm tại Chợ Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên, nơi Tổng thống và ông Nhu tạm ngụ. Sáng hôm sau 2 tháng 11, trở lại nhà thì được hay Tổng thống có điện thoại tối hôm trước nhưng người giữ nhà trả lời không biết ông Đức ở đâu. Vài giờ sau, ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu “tự tử”, điều mà Đức không tin chút nào. Đến nay, ông Đức vẫn ân hận vì không được tiếp xúc lần chót với Tổng thống.

Hỏi: Trong Nội các, ai được Tổng thống Diệm tin cậy nhứt những ngày, tháng cuối cùng?Quách Tòng Đức đáp: Nguyễn Đình Thuần và Trương Công Cừu. Thuần kiêm ba trọng trách: Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống, Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, và Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hoá Xã hội. Ngoài ra, còn có Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là đại sứ VNCH ở Nam Vang, bị Chánh phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho tướng Đap Chuon đảo chánh (hụt) Quốc vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh sách của Cabot Lodge ghi các nhân vật cần thanh toán, theo hồi ký nêu trên của trung tá Nguyễn Văn Châu.

Ông Đức không ngạc nhiên cho lắm khi được người viết cho biết một số tài liệu giải mật tại Hoa kỳ tiết lộ Thuần là tay trong thân tín của CIA, theo dõi để phúc trình từng phản ứng của hai anh em Diệm-Nhu. Thuần từng được Mỹ chấm như một “Thủ tướng có triển vọng” nếu TT Diệm chịu sửa Hiến pháp để đặt thêm chức vụ này (đọc The Storm has many eyes, A personal narrative của Henri Cabot Lodge, NY 1973, trang 62 và Lodge in Vietnam, A Patriot abroad của Ann Blair, nxb Yale University Press, New Haven 1995, trang 92). Một số nhân vật rất gần Dinh Độc lập cho biết Thuần dùng đủ mưu chước để thu hút cảm tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách ly gián ông Diệm và ông Nhu trong giai đoạn chót của chế độ. Ông Quách Tòng Đức ngạc nhiên khi hay chính Đệ nhị Phòng Pháp đã giúp Thuần trốn khỏi VN. Cố Ứng Thi, chủ của Khách sạn Rex và bạn thân của Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa nói. Thuần hiện sống thong dong tại Paris. Tác giả bài này thắc mắc: không lẽ một ngưởi tinh vi như ông Nhu mà không nhận ra mặt trái của Nguyễn Đình Thuần? Ông Đức trả lời: Có thể ông Nhu không mù quáng nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không còn ai liên lạc để dò xét âm mưu đen tối của Hoa kỳ, ông Nhu phải “tương kế, tựu kế.” xử dụng Thuần. Ông Nhu cũng đã áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống đảo chánh Bravo) để tìm cách chi phối nhóm tướng bị Mỹ mua chuộc.

Ông Đức cho biết thêm: Linh mục Cao Văn Luận cũng là một cố vấn thân tín của Tổng thống được giao phó ra nước ngoài xin tài trợ về giáo dục, tìm kiếm trí thức Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học Huế mà ông là Viện trưởng đầu tiên. Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, dư luận cho rằng cha Luận đã trở mặt, ngã theo phe chống chánh quyền. Chẳng những thế, ông còn viết hồi ký “Trong giòng lịch sử “ để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí Minh. Tình đời rỏ đen bạc!

Ông Quách Tòng Đức quả quyết không bao giờ gặp Vũ Ngọc Nhạ (mà CS tuyên bố phịa trong quyển sách và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn gài được vào Dinh Độc Lập!) Trả lời về các cán bộ gốc Cộng sản cộng tác với chế độ, ông Đức cho biết Kiều Công Cung – nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng – đã tỏ ra xứng đáng đến cùng trong chức vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo – mà Tổng Nha Công an có hồ sơ – được bổ nhiệm đại úy Bảo An, sau đó Tỉnh trưởng Kiến Hoà và thanh tra dinh điển.

Hai chuyên viên Mỹ về Giáo dục và Dinh điền thường lui tới Dinh và ăn sáng với Tổng thống là giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học Michigan và Ladejinsky mà Tổng thống quen từ lúc bôn ba ở Hoa kỳ. Về sau, được hay hai chuyên viên này làm việc cho CIA. Đặc biệt, Fishel đã ra mặt chống phá ông Diệm tại Hoa Thịnh Đốn trước ngày đảo chánh.

Trần Văn Đôn ghi nơi trang 182 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”: Trong một buổi học tập chính trị tại bộ Tổng Tham Mưu trước chính biến 1.11.1963, ông Nhu nóí, sau khi nghe các tướng lãnh trình bày thỉnh nguyện : “Mấy anh muốn cải tổ chánh phủ mà xin như vậy đâu có nhiều. Muốn làm cách mạng thật sự, tôi tưởng các anh phải xin nhiều hơn. Ông Diệm bị kẹt với một số Bộ trưởng thối nát bất tài. Trong lúc này Quân đội phải nhận rỏ vai trò của mình để cứu nước, nên đảo chánh một đêm bắt mấy ông Bộ trưởng đó rồi hôm sau trao quyền lãnh đạo lại cho Tổng thống. Nếu có vị tướng nào muốn đảo chánh thì quân đội phải chống lại, phải bắt người đó mà treo cổ trên đường Công Lý.”Đâu là sự thật? Nếu đúng, thì đây có phải là ván bài tố xả láng của ông Nhu để dò xét và sập bẩy nhóm tướng tạo phản? Hay một nhìn nhận chua chát chế độ đang tuột dốc thê thảm, đưa dân tộc vào một trận đại hồng thủy?

Tổng thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm nguy hại khi cầm quyền – điều này sẽ được sử sách phê phán công và tội – nhưng không một ai – từ đồng minh Hoa kỳ cho đến Hồ Chí Minh – chối cãi rằng ông là một lãnh tụ yêu nước, trong sạch, có khí phách và không làm dân tộc VN hổ thẹn vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và quyền uy quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào mà lại hy sinh nặng như thế cho Đất nước, mất một lần bốn người con ưu tú, một vì tay Cộng sản và ba vì tay quốc gia. Ông Diệm ra đi, Hồ Chí Minh không còn đối thủ, Mỹ rảnh tay Việt nam hoá chiến tranh, Miền Nam sụp đổ mau lẹ.

Hay tin TT Diệm bị sát hại, Mao Trạch Đông phản ứng bằng nhận xét: “ Chính quyền Kennedy hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rỏ rệt!”

Và Hồ Chí Minh tuyên bố: “Ông Diệm là một nhà yêu nước, theo lối của ông ấy!”

Trong hồi ký The Real War, chương V, Richard Nixon viết: Tổng thống Pakistan Ayub Khan nóí với tác giả vài ngày sau vụ đảo chánh 1.11.1963: “Việc Tổng thống Diệm bị giết có ba ý nghĩa đối với nhiều người Á Đông: trở thành bạn Hoa kỳ là một nguy hiểm, trung lập có giá hơn và đôi khi tốt hơn là kẻ thù.”

Riêng về De Gaulle thì ông nhận định: ‘Sau Diệm, không phải là một khoảng trống mà là một sự quá đầy!” De Gaulle muốn nói: Miền Nam lạm phát lãnh tụ, trở thành một giỏ cua và một hí trường tranh dành địa vị. Đối với thế hệ lãnh đạo mai sau, sự thất bại của TT Diệm – mà đồng minh Hoa kỳ lẫn kẻ thù Cộng sản đều xem như một mối đe doạ cần triệt hạ - là một bài học quý báu về kinh nghiệm chống Đế quốc, về Nhân tình thế thái và thân phận của một nước nhược tiểu.

Học giả Úc Denis Warner đã tặng cho ông biệt danh xứng đáng “The Last Confucian, Người hiền triết Khổng giáo cuối cùng”. TT Diệm là một thầy tu lạc lõng giữa chính trường gió tanh mưa máu. Sau tháng 4.1975, hai ngôi mộ của TT Diệm và Cố vấn Nhu được cải táng từ nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, Saigon, về quận Lái thiêu, tỉnh Bình Dương. Mộ bia của TT Diệm có khắc chữ Huynh. Mộ bia của Cố vấn Nhu khắc chữ Đệ. Hai nắm mồ khiêm nhường và quạnh hiu, kết thúc một cuộc đời đấu tranh khắc nghiệt, đầy oan trái nhưng chắc chắn không phải là một hy sinh vô bổ trên bàn thờ Tổ Quốc.

Kết luận
Ông bạn Quách Tòng Đức chấm dứt buổi nói chuyện thân tình bằng một lời than chua xót: Dĩ vãng buồn nhiều hơn vui, phá hoại nhiều hơn xây dựng, hận thù thay vì đoàn kết. Đến nay, Đất nước chưa thấy lối thoát, những bài toán của Xứ sở chưa tìm ra đáp số. Ngày nào Cộng sản vẫn bám víu vào quyền lực thì quốc nhục chậm tiến còn kéo dài. Thế cuộc xoay vần. Lý thuyết chánh trị, chế độ, lãnh tụ rồi cũng phải trở về với cát bụi. Vanitas vanitatum, omnia vanitas, Hư danh, tất cả đều là hư danh! Cuối cùng chỉ còn lại Dân tộc, Dân tộc trường tồn, Dân tộc bất diệt. Lưu đày, dù trên mãnh đất dân chủ, chưa phải là Tự do. Người Việt tha hương, vào tuổi gần đất xa trời, vừa đau buồn hướng về Đất Mẹ, vừa thao thức tự vấn như Thôi Hiệu trong bài thơ Đường Hoàng Hạc Lâu :

Chiều xuống, Quê nhà đâu đó tá?
Bên sông khói toả, não lòng ai.
(Chi Điền dịch)

LÂM LỄ TRINH
Ngày 4.7..2005, Quốc khánh Hoa kỳ
Thuỷ Hoa Trang
Californie

Blog Archive