Saturday, April 29, 2017

Nhà văn Thuần Phong Ngô văn Phát và việc đặt tên đường phố Sàigòn năm 1956.

Thưa quí vị,

Từ lâu, tôi đã có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Saigon vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Vì đây là một công việc qúa xuất sắc và qúa hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công trình do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…

Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đã được hoàn thành bởi … một người. Người đó là ông Ngô văn Phát, trưởng phòng họa đồ thuộc tòa đô chánh Saigon.

Nhà văn Ngô văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, sinh quán tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bặc Liêu.

Nhân đây, tôi cũng xin được gửi lại một vài ý kiến liên hệ của tôi:

“… Nói vào chi tiết hơn, vua Lê Thánh Tôn đã mở mang bờ cõi từ Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đã vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi còn tiếp tục mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc...

Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú mầu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cõi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.

Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do giòng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đã mang về cho dân tộc Việt Nam!

Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đã có công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc bình định và chinh phục vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Saigon... bây giờ. 

Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Saì Gòn. (CSVN đã thay Hiền Vương bằng tên của Võ thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).

Loại bỏ tên cuả Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài Gòn và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao bình dân gọi là “ăn cháo, đá bát”.

Đấy là chưa nói tới giấc mộng...Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đã mở mang bờ cõi nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đã thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). 

Phải chăng chính vì vậy mà ngay từ khi vừa dành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài Gòn hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua ngả Gò Dầu, đã được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”...

VŨ LINH CHÂU.


Nhà văn Thuần Phong Ngô văn Phát và việc đặt tên đường phố Sàigòn năm 1956.

Nguyễn văn Luân

Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Saigon, tôi có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Saigon Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Saigon Đông (Saigon) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì ngập nước sau cơn mưa, đường thì có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường thì dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc lòng tên hơn 300 con đường. 

Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:

Boulevard Charner
Boulevard Galliéni
Boulevard Kitchener
Boulevard Norodom v.v

Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho chính phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. 

Để đánh dấu việc dành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sàigòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi. 

Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ. 

Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ. 

Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả. 

Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với điạ thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khiá cạnh vừa tình vừa lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là ông có ý ấy:

Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.

Đường đi ngang qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.

Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sàigòn. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.

Đại lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sàigòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.

Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.

Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.

Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.

Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.

Bờ sông Sàigon được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông cổ, chống Nhà Nguyên cuả Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.

Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Saigon, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.

Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.

Trường nữ trung học Gia Long lớn nhất Sài gòn thì, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ trung học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.

Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng có lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Hoa Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Hoa Liễu có lẽ cũng xứng hợp.

Ông Nhà Văn - Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc. 

Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô văn Phát đã về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đã làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này. 

______________________________ _________


Tiểu sử nhà văn lấy từ nguồn:




*** Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. 

Thuở nhỏ học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ nữ tân văn, họa mười hai bài Thập thủ liên hoàn của Thương Tân Thị... Có lúc ông dạy Việt văn tại trường Pétrus ký Sài Gòn. 

Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia - Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn. 

Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du). 

Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ. 

Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.

Con trai nhà báo Đạm Phong bị Việt Tân kiện tiếm danh

LITTLE SAIGON, California (NV) – Ðảng Việt Tân cho biết, vừa chính thức khởi kiện ông Nguyễn Thanh Tú và bà Michelle Dương vì tiếm danh, thông cáo báo chí của đảng này đưa ra vào hôm Thứ Tư, 26 Tháng Tư, cho biết như vậy.

Ông Nguyễn Thanh Tú là con trai nhà báo Ðạm Phong, người bị sát hại trước cửa nhà ở Houston, Texas, năm 1982.

Theo thông cáo, “Ðảng Việt Tân đã chính thức khởi kiện ông Nguyễn Thanh Tú, bà Michelle Dương và tổ chức do họ thành lập với danh xưng Việt Tân – Vietnam Reform Party tại tòa án tiểu bang California vì lý do tiếm danh.”

Qua nhiều lá thư đưa lên trên các mạng xã hội trong thời gian qua, cũng như qua các cuộc phỏng vấn, ông Tú đều cho rằng người của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, tiền thân của đảng Việt Tân, hãm hại cha ông, mặc dù cho tới nay, chưa có bằng chứng cụ thể.

Thông cáo của đảng Việt Tân cho biết tiếp: “Vào ngày 26 Tháng Tám, 2016, ông Nguyễn Thanh Tú và những người cộng tác đã đăng ký danh xưng Việt Tân – Vietnam Reform Party tại tiểu bang California nhằm mục đích tiếm danh và tạo hoang mang trong dư luận về tư cách pháp nhân của đảng Việt Tân. Kể từ đó đến nay, nhóm ông Nguyễn Thanh Tú đã tìm nhiều cách ngụy danh đảng Việt Tân để cố gắng cản trở các hoạt động đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam của đảng Việt Tân.”

“Ðảng Việt Tân là một thực thể có tư cách pháp nhân, hoạt động hợp pháp tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác trên thế giới từ năm 2004. Ðảng Việt Tân được đồng bào trong và ngoài nước, chính giới, truyền thông và các định chế quốc tế biết đến như một thực thể có quá trình hoạt động cho mục tiêu dân chủ và canh tân đất nước Việt Nam từ nhiều năm qua,” vẫn theo bản thông cáo.

Thông cáo kết luận: “Trước hành vi bất chính của nhóm Nguyễn Thanh Tú, chúng tôi bắt buộc phải khởi kiện để làm sáng tỏ trước dư luận mọi nỗ lực xuyên tạc và phá hoại đối với đảng Việt Tân nói riêng và công cuộc đấu tranh nói chung.”

Khi được hỏi chuyện này, ông Nguyễn Thanh Tú cho nhật báo Người Việt biết: “Họ muốn chặn tôi trước khi tôi có cuộc họp báo tại San Jose vào ngày Thứ Bảy, 29 Tháng Tư, tới đây. Tuy nhiên, họ có làm được điều đó hay không lại là chuyện khác. Ở Mỹ này, ai cũng có quyền đâm đơn kiện. Thắng hay không tính sau.”

“Tôi sẽ chia sẻ chi tiết vụ kiện này trong cuộc họp báo sắp tới. Từ ngày tôi lấy tên, hoạt động của Việt Tân không thuận lợi,” ông Tú nói tiếp.

Về chuyện bị kiện, ông Tú cho biết: “Về chiến thuật, tôi đã đạt được mục tiêu.”

Hồi thập niên 1980 và thập niên 1990, có ít nhất năm nhà báo gốc Việt bị sát hại một cách bí ẩn ở Hoa Kỳ. Ðó là Dương Trọng Lâm (báo Cái Ðình Làng, San Francisco), Ðạm Phong (sáng lập báo Tự Do, Houston), Ðỗ Trọng Nhân (nhân viên báo Văn Nghệ Tiền Phong, Virginia), Lê Triết (bỉnh bút báo Văn Nghệ Tiền Phong), và Phạm Văn Tập, tức Hoài Ðiệp Tử (chủ biên tạp chí Mai, Orange County).

Mặc dù FBI đã điều tra, nhưng cho tới nay, họ không tìm được manh mối về thủ phạm, và hồ sơ đã đóng.

Trong cuộc họp báo tại Little Saigon hôm 18 Tháng Ba, ông Tú cho biết, cha ông từng làm việc cho CIA, và ông đang làm việc với Bộ Tư Pháp, cơ quan chống tội phạm của Sở Thuế IRS, và một số cơ quan khác để tiếp tục truy tìm thủ phạm.

Ðỗ Dzũng
Người Việt

-------


VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG

Thông Cáo Báo Chí

Khởi kiện ông Nguyễn Thanh Tú và bà Michelle Dương về việc tiếm danh

Đảng Việt Tân đã chính thức khởi kiện ông Nguyễn Thanh Tú, bà Michelle Dương và tổ chức do họ thành lập với danh xưng Việt Tân – Vietnam Reform Party tại tòa án tiểu bang California vì lý do tiếm danh.

Vào ngày 26/8/2016, ông Nguyễn Thanh Tú và những người cộng tác đã đăng ký danh xưng Việt Tân – Vietnam Reform Party tại tiểu bang California nhằm mục đích tiếm danh và tạo hoang mang trong dư luận về tư cách pháp nhân của Đảng Việt Tân. Kể từ đó đến nay, nhóm ông Nguyễn Thanh Tú đã tìm nhiều cách ngụy danh Đảng Việt Tân để cố gắng cản trở các hoạt động đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam của Đảng Việt Tân.

Đảng Việt Tân là một thực thể có tư cách pháp nhân, hoạt động hợp pháp tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác trên thế giới từ năm 2004. Đảng Việt Tân được đồng bào trong và ngoài nước, chính giới, truyền thông và các định chế quốc tế biết đến như một thực thể có quá trình hoạt động cho mục tiêu dân chủ và canh tân đất nước Việt Nam từ nhiều năm qua.

Trước hành vi bất chính của nhóm Nguyễn Thanh Tú, chúng tôi bắt buộc phải khởi kiện để làm sáng tỏ trước dư luận mọi nỗ lực xuyên tạc và phá hoại đối với Đảng Việt Tân nói riêng và công cuộc đấu tranh nói chung.

Ngày 26 tháng 4 năm 2017
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 (202) 596-7951


30/4 trong mắt ông Hoàng Đức Nhã

Ông Hoàng Đức Nhã (phải) bắt tay với Đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam Elleworth Bunker, 17/8/1972, trước buổi họp giữa Tổng thống Thiệu và Cố vấn Kissinger (giữa).

Biến cố 30/4/75 dưới con mắt của một trong các nhân chứng lịch sử, Bí thư kiêm Tham vụ Báo chí của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa. Báo New York Times năm 1973 miêu tả ông là “người đàn ông quyền lực nhất, sau Tổng thống”. Ông là người duy nhất có mặt trong các cuộc đàm phán giữa Tiến sĩ Henry Kissinger và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi ông Kissinger tới Sài Gòn bàn về bản thảo hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. 

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ, ông Hoàng Đức Nhã chia sẻ những cảm nghĩ của ông về sự bội ước của đồng minh Mỹ, và về Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn an ninh của Tổng thống Nixon. Ông Nhã cho rằng vai trò của ông Henry Kissinger là “một vết dơ trong quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng Hòa.” Sau đây là nội dung cuộc trao đổi giữa Hòai Hương và ông Hoàng Đức Nhã.

Nguyên Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi Việt Nam Cộng Hòa Hoàng Đức Nhã nói đối với người Mỹ, mọi sự đã an bài từ năm 1973, bởi vì Washington đã quyết định tiến tới ký kết Hiệp định Paris để rút ra khỏi Việt Nam. Trước sức ép của Washington, ông nói chính phủ miền Nam vẫn vận động cho một giải pháp ít bất lợi nhất, và cố duy trì nguyên tắc căn bản là “toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, đồng thời đề nghị tổng tuyển cử, ngưng bắn tại chỗ”. Sau cùng, vạn bất đắc dĩ Tổng thống Thiệu đặt bút ký Hiệp định Paris với hy vọng Mỹ sẽ giữ cam kết, giúp VNCH phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, đi kèm với lời hứa của cá nhân Tổng thống Nixon sẽ phản ứng quyết liệt nếu Hà Nội thực hiện ý đồ thôn tính miền Nam.

Về áp lực hết sức nặng nề từ Washington để chính phủ Sài Gòn ký hiệp định Paris, bất chấp thỏa thuận này rõ rệt bất lợi cho miền Nam, ông Hoàng Đức Nhã nói người Mỹ đã quyết rút ra khỏi Việt Nam bằng bất cứ giá nào cho nên đã phạm một lỗi lầm lịch sử, để ông Kissinger “đi đêm” với ông Lê Đức Thọ, cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại hội nghị Paris.

Bí thư của Tổng thống Thiệu nói hơn 40 năm sau, nỗi buồn bị đồng minh phản bội, vẫn làm ông cảm thấy uất ức:

“Cách đây bốn mươi mấy năm phải đối đầu với những áp lực của Mỹ rất là buồn cho ông đồng minh tới giờ chót muốn thoái lui, làm đủ cách nhượng bộ Bắc Việt và chính vì vậy mà Bắc Việt đạt được mục tiêu là đuổi người Mỹ đi và tiếp tục xâm lăng. Lúc đó lời hứa (của Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ phản ứng quyết liệt), cũng không giữ được.”
Vai trò của ông tiến sĩ Kissinger trong vấn đề đem đến hòa bình thì dĩ nhiên là một cái vết dơ trong bang giao giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa 
Ông Hoàng Đức Nhã
Tiến sĩ Kissinger đóng vai trò hệ trọng trong vận mệnh của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Hoàng Đức Nhã cho rằng vì có mâu thuẫn trong Đảng Cộng Hòa nên Bộ trưởng Ngoại giao lúc bấy giờ là William Rogers không được giao trách nhiệm thương thuyết hòa bình với Việt Nam, mà người nắm vai trò này là Cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger.

“Vai trò của ông tiến sĩ Kissinger trong vấn đề đem đến hòa bình thì dĩ nhiên là một cái vết dơ trong bang giao giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa.”

Ông Hoàng Đức Nhã nhận xét thêm về ông Kissinger:

“Ông cho rằng chỉ có ý kiến của ông ta là trúng, không hỏi ý kiến, không bàn với phía Việt Nam Cộng Hòa nhiều. Mình mà tiếp tục đưa ra đề nghị gì đòi hỏi gì thì ông ta có lúc bực mình và trong các tài liệu được giải mật thì ông ta rất là bất bình và có những lời lẽ không có lễ phép lắm đối với Tổng thống Thiệu và cá nhân tôi.”

Về trách nhiệm của các nhà lãnh đạo miền Nam trong cả thời Đệ nhất lẫn Đệ nhị Cộng hòa đã để cho tình hình dần dà xấu đi, tạo điều kiện đưa đến thảm họa cuối cùng là sự xóa sổ của chính phủ miền Nam trên bản đồ thế giới, ông Hoàng Đức Nhã nói:

“Trong Đệ nhất cũng như trong Đệ nhị Cộng hòa, cũng có những lỗi lầm về thi hành các mục tiêu. Chính phủ của ông Thiệu đã có những sơ suất, nội các đã không thi hành đúng mức chiến lược. Trong tất cả các lỗi lầm đó, lỗi lầm lớn nhất là không đạt được điều tối đa cho Việt Nam Cộng Hòa để tồn tại. Đó thực sự cũng là một điều nằm ngoài sự kiểm soát của mình là vì tin vào một ông Tổng thống xứ mạnh nhất thế giới mà hứa thì dĩ nhiên là phải thực hiện được, nhưng mà không ngờ lúc đó vì nhiều lý do, ông Nixon cũng như quốc hội Hoa Kỳ hoàn toàn coi như hiệp định đó không ràng buộc Hoa Kỳ.”

Ông nói các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa không thể nào tưởng tượng được một ông Tổng thống Hoa Kỳ, quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, lại bội hứa. Còn về các vấn đề nội bộ, từ phát triển nông thôn tới phát triển kinh tế, tìm ra tài nguyên để không phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ thì miền Nam đã không thực hiện được đúng mức. Ông giải thích lý do một phần là vì lúc đó miền Nam phải chống chọi với quân đội Bắc Việt được Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, đang tràn xuống miền Nam.

“Khi mà Bắc Việt tung ra bao nhiêu ngàn quân và được sự hỗ trợ rất mạnh của Liên bang Nga sô lúc đó và Trung Cộng. Miền Nam khó có thể chống đỡ trong khi đồng minh cúp viện trợ của mình.”

Thế ai, có phải Tổng thống Thiệu đã đưa ra lệnh bỏ Vùng II chiến thuật, được nhiều người cho là yếu tố gây phản ứng dây chuyền, đưa đến sự tan rã của quân lực Việt Nam Cộng Hòa? Ông Hoàng Đức Nhã nói cần nhìn vấn đề trên phương diện quân sự.

Ông nói địa lý của miền Nam rất khó bảo vệ bởi vì nó dài và có nhiều núi rừng, và lúc đó Hoa Kỳ đã rút quân và ngưng mọi sự hỗ trợ, trong các điều kiện đó miền Nam phải đổi lại chiến thuật. Muốn giữ số quân còn lại phải triệt thoái để củng cố những vùng đông dân cư và có tài nguyên nhiều là vùng duyên hải.

“Ai lấy quyết định đó thì thực sự Tổng thống với tư cách là Tổng thống và Tổng Tư lệnh quân đội lúc nào cũng làm việc chung với ông Đại tướng Tổng tham mưu trưởng, nghe những đề nghị của ông và các ông tướng vùng mới lấy quyết định đó.”

 
Cựu nhân viên ngoại giao Mỹ ông David Brown và ông Hoàng Đức Nhã (ảnh Bùi Văn Phú) 

Ông Hoàng Đức Nhã cho biết quyết định rút khỏi Vùng II chiến thuật được đưa ra tại một phiên họp ở Cam Ranh và Thiếu tướng Tư lệnh Vùng II là người thi hành.

“Khi mà người Mỹ rút ra hết thì mình phải sửa đổi cái chiến thuật của mình. Muốn giữ lại số quân còn lại thì mình phải có những sự triệt thoái để củng cố, bảo vệ những vùng đông dân cư và có tài nguyên nhiều là vùng duyên hải. Rất tiếc cho miền Nam là thi hành không đúng mức, quyết định rút quân là một quyết định về phương diện quân sự cần thiết.”

Được hỏi về những sơ suất trên mặt trận tình báo, Việt Nam Cộng Hòa đã cho phép tình báo miền Bắc thâm nhập vào những cơ quan trọng yếu nhất, tận tới Phủ Tổng thống, ông Hoàng Đức Nhã nói đó là một vấn đề chung cho các xã hội dân chủ cởi mở, ngay cả ở bên Mỹ:

“Trong một xã hội dân chủ cởi mở thì không thể nào kiểm soát hết vấn đề xâm nhập. Cộng sản Bắc việt xâm nhập, chúng tôi biết và bắt được khá nhiều, còn ở cao cấp từ trong Phủ Tổng thống mình cũng khám phá ra mình bắt, tôi nhớ có ông Huỳnh Văn Trọng và ngay cả những người như vợ của ông Trần Bạch Đằng, mấy người thuộc Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN) nhưng người Mỹ sau này muốn tỏ thiện chí với phía Mặt trận để thương thuyết thì họ áp lực miền Nam nương tay, đó là những điều mà người dân ở ngoài ít ai biết tới. Dĩ nhiên mình không thể bắt hết những tổ gián điệp nhưng mà những người chóp bu trong cái gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, thì mình biết chứ.”

Ông cho biết cùng bị bắt vào năm 1968 với ông Huỳnh Văn Trọng, Cố vấn của Tổng thống Thiệu và có lúc đã cầm đầu một phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa sang Hoa Kỳ, có ông Vũ Ngọc Nhạ, tướng tình báo miền Bắc, Cụm phó của Cụm tình báo chiến lược A.22.

Báo chí nói ông Hoàng Đức Nhã là cháu của Tổng thống Thiệu, nhưng ông xác nhận với VOA rằng ông không phải là cháu ông Thiệu:

“Tôi với Tổng thống Thiệu là hai anh em bà con, rất nhiều người cứ nói tôi là cháu ông Thiệu, điều đó là buồn cười nhất, ngay cả chính những người trong chính phủ cũng nói tôi là cháu ông Thiệu. Chuyện đó hoàn toàn sai.”

Tại sao Tổng thống Thiệu từ chức? 

Ông Hoàng Đức Nhã: “Bao nhiêu nhóm chính trị, kể cả người Mỹ, cũng nói ông phải ra đi để có cơ hội thành lập một chính phủ liên hiệp với MTGPMN hay là những lực lượng cộng sản ở miền Nam thì có thể đem lại hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Sau này lịch sử sẽ ghi lại là lúc đó Hoa Kỳ biết rõ là Bắc Việt xâm nhập và hoàn toàn giữ ý định thanh toán luôn cả miền Nam. Tác giả nào mà sau này viết giải pháp liên hiệp có thể thành công? Tôi thì tôi cho đó chuyện hoàn toàn hoang đường.”

 
Các diễn giả: Ông Hoàng Đức Nhã, bên trái, Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng và Giáo Sư Vũ Tường (ảnh Bùi Văn Phú). 

Ông Hoàng Đức Nhã nói điều rõ ràng là từ ngày ký hiệp định Paris, miền Bắc chủ trương tiếp tục xâm nhập vào miền Nam, tận dụng sự hỗ trợ của Nga và Trung Quốc để tiếp tục xâm lăng miền Nam:

“Việc cho phép một chính phủ giữa hai phía miền Nam thành tựu, Bắc Việt không hề có ý định đó. Thành ra đối với những người miền Nam Việt Nam đã làm việc cho chánh phủ và muốn đóng góp cho đất nước, đó là một nỗi buồn không bao giờ quên được.”

Ông Hoàng Đức Nhã rời Việt Nam vào đêm ngày 28/4, và từ trên máy bay quân sự, chứng kiến phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích. Ông chia sẻ với VOA-Việt ngữ:

“Máy bay lúc cất cánh lên nhìn xuống, thấy nỗi buồn mà cho tới giờ này nhắc lại vẫn thấy nhói trong tim, nhất là mất quốc gia mình mất những cái gì? Mất một miền Nam, một chế độ dân chủ mà có rất nhiều triển vọng trở thành một chế độ dân chủ pháp trị với tam quyền phân biệt, hành pháp, lập pháp, tư pháp, lúc đó mình có một hiến pháp rất tốt. Miền Nam Việt Nam có khả năng trở thành một quốc gia giàu với tài nguyên, và với sự hứa hẹn của dầu lửa, có thể trở thành một quốc gia phát triển nhanh nhất, nhưng mà rất tiếc mình không được có thời gian để làm điều đó. Đối với cá nhân chúng tôi, đó là một nỗi buồn vẫn còn ở trong trí óc, và dĩ nhiên trong tư cách một người yêu chuộng tự do, thấy nhân dân của mình bây giờ không có tự do, không có dân chủ thì càng thấy buồn thêm.”

Ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Bí thư và Tham vụ báo chí của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, từng nắm chức Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa. Báo New York Times năm 1973 nói dưới chính phủ Tổng thống Thiệu, ông Hoàng Đức Nhã cùng lúc đảm nhiệm những trọng trách tương đương với nhiệm vụ của ba quan chức Mỹ cùng thời: Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger, Phát ngôn viên Toà Bạch Ốc Ronald Ziegler, và người bạn tín cẩn của Tổng thống Nixon, Charles Rebozo. 

Thay mặt cho VOA-Việt ngữ và cho thính giả của đài, Hoài Hương xin chân thành cám ơn ông Hoàng Đức Nhã đã bỏ thời giờ quý báu cho cuộc phỏng vấn này.

Hoài Hương

Kim Yung-un: Miệng Dữ, Bụng Run




Từ sau Chiến tranh Triều Tiên chưa bao giờ Tổng Thống Mỹ, Tư Lịnh Tối cao của Quân Lực Mỹ ra lịnh cho Quân Lực Mỹ điều quân qui mô đến vùng Triều Tiên như hiện tại. Các cánh quân, ba thứ quân Mỹ sẵn sàng phối hợp tác chiến trên không, trên dưới biển, trên bộ, từ xa đến gần bán đảo Triều Tiên như lúc này. Cũng chưa lúc nào Kim Yung-un của CS Bắc Hàn mát dây điện nặng như lúc này. Bên ngoài cái miệng dữ của y hò hét sẽ tận diệt Mỹ cho đến người cuối cùng, nhơn kỷ niệm 85 năm thành lập quân đội của CS Bắc Hàn. Nhưng nhiều dấu chỉ cho thấy người lãnh tụ CS Bắc Hàn mà Thượng nghị sĩ Mỹ McCain Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Thượng viện gọi là “thằng nhóc phì lũ khùng” cũng cảm thấy y đang giỡn mặt với Tử Thần Mỹ. So tương quan lực lượng giữa Mỹ và CS Bắc Hàn nếu chiến tranh xảy ra thì CS Bắc Hàn sẽ từ chết tới bị thương với Quân lực Mỹ và đồng minh là Nhựt và Hàn Quốc. Y càng run vì thấy TC sẽ không tham dự cuộc chiến này để giúp CS Bắc Hàn, trừ những lời kêu gọi can gián, kềm chế bị lu mờ trong không khí chiến tranh. 

Về phía CS Bắc Hàn. Theo định luật tâm lý người càng tự tin, tự lực thì ít khoa trương, kẻ yếu, nhát thì thùng rỗng kêu vang. Kim Jong-un khoa trương “10 triệu quả bom” sẵn sàng xả thân bảo vệ y. Ngày 26.4 nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân CS Bắc Hàn, y cho tổ chức và ca ngợi cuộc tập trận pháo binh lớn nhất từ trước đến nay. Y say sưa nói như đồng bóng. Nào "Các pháo thủ dũng cảm đang tấn công tàn nhẫn các mục tiêu, cách họ nã pháo thể hiện sự giải phóng và những phát đạn của họ rất chính xác". Nào các binh lính cam kết trung thành với ông Kim Jong-un, thề "biến thành 10 triệu khẩu súng và 10 triệu quả bom" để bảo vệ nhà lãnh đạo tối cao. Y còn nói đã sẵn sàng thử vũ khí nguyên tử lần thứ 6, phóng hoả tiễn đạn đạo tầm xa vào bất kỳ thời điểm nào. Y sẽ trả đũa Mỹ, tận diệt Mỹ tới người cuối cùng.

Hai, về phía Mỹ. Mỹ tăng quân chuẩn bị mặt trận, hành động nhiều, liên tục mà ít nói, như tướng tài ít tuyên bố linh tinh mà khi nói thì lời nói như nhựt lịnh.

Dàn hoả tiễn THAAD của Mỹ đã tới Nam Hàn, quân đội Mỹ đang bố trí. TC quyết liệt phản đối, Mỹ cứ làm kế hoạch của mình ở Nam Hàn.

Tàu ngầm USS Michigan của Mỹ đã tới một căn cứ hải quân ở Busan, Hàn Quốc sáng nay 25.4. USS Michigan là một trong 4 tàu lặn của Hải quân Mỹ chạy bằng nguyên tử lực, mỗi chiếc mang theo hàng trăm và tấn công bằng hoả tiễn hành trình Tomahawk và hoả tiễn đạn đạo phóng từ tàu ngầm. Sứ mệnh là dùng để răn đe nguyên tử chiến lược của Mỹ. Chúng cũng được trang bị để khai triển tàng hình và từng tham gia tới 66 lực lượng tác chiến đặc nhiệm. Các chiến lược gia quốc tế nói chỉ cần một USS Michigan là có thể biến các công trình phòng thủ, cứ điểm chiến lược, chiến thuật của CS Bắc Hàn thành liệt bại.

Trong vùng biển của bán đảo Triều tiên, chiến đoàn tấn công tinh nhuệ với hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson đã đến bán đảo Triều Tiên theo chỉ đạo của Tổng thống Mỹ Donald Trump, và sẽ tập trận với lực lượng Hàn Quốc.

Chưa hết. Sau khi Kim Yung un tuyên bố sẽ thử hoả tiễn lần 6 ở thời điểm thích hợp, từ California Mỹ cho thử hoả tiễn mạnh nhất thế giới để "dằn mặt" CS Bắc Hàn. Theo Military Today, quân đội Mỹ ngày 26.4 đã phóng thử hoả tiễn đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) Minuteman III từ căn cứ không quân Vandenberg ở California để phô trương năng lực nguyên tử của Mỹ. Siêu hoả tiễn Minuteman III, là hoả tiễn đạn đạo, mang đầu đạn nguyên tử xuyên lục địa mạnh nhất thế giới, tầm bắn vượt trội và vượt qua mọi hệ thống phòng thủ hiện nay.

Với hoả tiễn này từ Mỹ và THAAD từ Nam Hàn, Mỹ có thể phá mọi hoả tiễn CS Bắc Hàn phóng vào Mỹ, Cali hay Hawaii. Và dĩ nhiên Mỹ có thể dùng chúng để tấn công CS Bắc Hàn. Sức tàn phá của một quả hoả tiễn Minuteman III có sức công phá gấp 31 lần quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima.

Ba, nhưng TC vì quyền lợi của mình sẽ cứu CS Bắc Hàn. TC là chế độ bảo hiểm nhơn thọ cho CS Bắc Hàn. TC đã làm thế cho ba đời vua CS Bắc Hàn. Vua ông nội là Kim nhựt Thành, vua cha là Kim Yung Il và vua cháu nội là Kim Yung Un. TC không bỏ rơi CS Bắc Hàn không phải vì tình “đồng chí đồng rận” CS, mà vì thế chiến lược của TC đối với Mỹ và vì quyền lợi riêng của TC lo ngại CS Bắc Hàn sụp đổ. Lãnh đạo CS Bắc Hàn nhiều khi cứng đầu, ngỗ nghịch, ăn cơm Trung Quốc mà không nghe lời Thiên Triều. Nhưng TC vẫn cứ giúp cho CS Bắc Hàn sống sót trước sự phong toả của Mỹ. TC từng cho hàng đoàn xe của TC ngày ngày chở hàng hoá qua Bắc Hàn, qua cửa “khẩu” Dandong, miền đông bắc TC. Xe đi Bắc Hàn thì đầy ắp hàng hoá nhưng về thì trống trơn, để CS Bắc hàn có thể sống. Tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, TC thường phủ quyết những trừng phạt có thể nguy hại cho sự sống còn của CS Bắc Hàn.

Sở dĩ CS Bắc Kinh cứu sống CS Bắc Hàn là vì, lý do đầu tiên là chiến lược của TC. Chỉ cần liếc qua bản đồ là thấy. Để CS Bắc Hàn sụp đổ, cái chắc là Bắc Hàn sẽ thống nhứt dưới sự che chở, bảo hộ kinh tế chánh trị của Nam Hàn như Đông Đức CS với Tây Đức Tự do. Trong trường hợp đó ảnh hưởng của Mỹ sẽ tiến sát biên giới TC. Các căn cứ quân sự của Mỹ đang phục vụ cho mấy chục ngàn quân Mỹ ở Nam Hàn sẽ bung ra Miền Bắc. Về quân sự TC không thể nào chấp nhận vòng bao vây của Mỹ siết lại sát biên giới của TC như vậy. Về ngoại giao uy thế trên thế giới của TC nếu thế sẽ bị mất như một đệ nhứt siêu cường ở Á châu.

Thứ đến là vì TC lo ngại khi CS Bắc Hàn sụp đổ làn sóng di tản của CS Bắc Hàn sang Trung Quốc khó tránh khỏi, sẽ trở thành một bài toán nhân mãn, an sinh xã hội khó giải quyết cho TC. Nên TC muốn có một trái độn giữa TC và thế giới tự do. Tự do, dân chủ tuy là quyền lực mềm nhưng rất dễ thẩm thấu, diễn biến hoà bình, chuyển hoá khắp xã hội TQ kể cả trong Đảng CS nữa.

Giúp cho chế độ độc tài CS Bắc Hàn này sống còn, TC còn có cái lợi dưới cái nhìn của thế giới nữa. TC tỏ ra là một nước lớn có trách nhiệm trong vấn đề an ninh hoà bình, vấn đề giải trừ nguyên tử trên thế giới. Trong vấn đề nguyên tử lâu lâu CS Bắc Hàn tạo thành một xì căn đan để vòi vĩnh Mỹ và Nam Hàn viện trợ, lúc nào TC cũng tỏ ra là một nước có trách nhiệm không để cho khủng hoảng biến thành chiến tranh nguyên tử.

Vì vậy, dù tại TC nhiều dư luận kêu gọi ngưng hậu thuẫn Bắc Hàn vì không xứng đáng để TC làm như vậy. Nhưng Đảng Nhà Nước TC vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, kiên định lập trường bảo hiểm nhân thọ cho CS Bắc Hàn. Mỹ vì thế chỉ phủi bụi cho CS Bắc Hàn thôi.

Kỳ này TT Trump làm mạnh với CS Bắc Hàn, nhưng cũng không tới mức phải đánh CS Bắc Hàn, trừ khi xảy ra những bất trắc. Còn CS Bắc Hàn chỉ khạc ra lửa mửa ra máu để kiếm ăn, lừa thế được hội đàm thẳng với Mỹ thôi. Nhưng TT Trump có thể dùng cái thế trấn áp CS Bắc Hàn ở Bắc Á châu Thái bình dương để trao đổi với TC giải toả bớt áp lực quân sự hoá của TC ở Nam Thái bình dương hầu tái tạo thế hải thượng của Mỹ trên vùng biển quan trọng này.

Cảm nghĩ 30 tháng tư

Hồ Chí Phèo

- Sài Gòn đã mất tên mình sau ngày 30/4/1975. Cùng với cả nước, tất cả đã nhuộm màu đỏ của máu, của người cộng sản. Người Việt sẽ không bao giờ quên đi được ngày ấy, một biến cố thay đổi hẳn cuộc đời hàng triệu triệu người. Có hàng ngàn bức ảnh, hàng triệu câu chuyện về ngày ấy được xem, được viết, được nhớ lại...

Một trong nhiều người lính trong quân đội VNCH ở lại đến ngày cuối cùng... 

“Cấp bậc cuối cùng của tôi là Trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà. 

Ngày 28/4/1975 đơn vị tôi được đưa về đóng ở cầu Sài Gòn. 

Trước đó một tuần, cố vấn người Mỹ, cũng là người bạn thân, đề nghị đưa tôi và gia đình lên máy bay di tản sang Mỹ. Tôi đã nghĩ đến những người lính đã từng gắn bó bao nhiêu năm, đã sống chết bên nhau. Cấp bậc có khác nhưng cùng là con người, cũng có niềm vui, nỗi khổ cực giống nhau, tôi không thể dứt bỏ ra đi một mình để họ ở lại chiến đấu đơn độc. Mặc dù tôi biết rõ khi cộng sản chiếm hoàn toàn miền Nam, bọn chúng sẽ đối xử tôi và những người sỹ quan chỉ huy của quân đội miền Nam tự do, rất “đặc biệt”. 

Khoảng trưa sau khi cùng nghe diễn văn của ông Dương Văn Minh, tôi bắt tay từ giã các chiến hữu cùng đơn vị trong nước mắt, chúc nhau gặp may mắn. Đời lính như chúng tôi, bao nhiêu năm tháng vào sinh ra tử cho tổ quốc quyết sinh có khi nào được khóc? Về đến nhà nhìn lên bàn thờ, tôi nghẹn ngào: "Cuối cùng mình cũng hoàn thành nhiệm vụ của một người lính trong danh dự và trách nhiệm". Tôi và gia đình đều hiễu mình sẽ đối diện với tương lai đen tối trước mặt. 

Tôi trình diện đi học tập theo diện sĩ quan. Tôi gặp lại nhiều bạn bè cũ, họ đã cùng một ý nghĩ như tôi, có điều kiện ra đi nhưng vẫn chọn ở lại đến phút cuối cùng. Chúng tôi bị đưa ra trại tập trung phía Bắc lao động khổ sai, làm quen với đói rét, ốm yếu, bệnh hoạn... Nhiều người không vượt qua, đã nằm lại trong những nấm mồ đơn sơ ở một nơi hoang vắng. Qua hơn 10 năm khổ cực trong tù, tôi may mắn còn sống sót để có ngày đoàn tụ lại với vợ con. 

Gia đình tôi qua Mỹ theo diện HO năm 1996. Hiện tại các con tôi đều có việc làm, cuộc sống ổn định. Tôi và vợ sống chung với gia đình đứa con trai út. 

Mỗi năm, vào ngày 30/4 tôi nhìn lại những bức ảnh ngày tháng tư đen đó để hồi tưởng thảm cảnh những người chạy loạn tránh cộng sản từ miền Trung vào Nam. Những chiếc tàu động nghẹt người, những chuyến máy bay người ta chen nhau, xác người chết trên đường... Bàn tay tôi đã run, trí óc tôi vẫn minh mẫn, vẫn nhớ, vẫn vẽ đầy đủ cảnh bi ai nhưng hùng tráng của những người dân, người lính miền Nam đến những ngày cuối cùng 30/4/1975. 

Sau tháng tư đen ấy, người cộng sản quá huyênh hoang với chiến thắng, không có đủ trí khôn để học hỏi cách thức xây dựng đất nước sau chiến tranh. Họ đã bỏ qua rất nhiều cơ hội đưa đất nước trở nên phồn vinh. Đức, Nhật hai quốc gia bại trận, đất nước tan nát do bom đạn nhưng chỉ sau khoảng 20 năm, đất nước họ trở thành những cường quốc. 

Nhiều đêm tôi thao thức, trí óc miên man quay về dĩ vãng. Nghĩ đến bao nhiêu anh em đồng đội đã ngã xuống. Nghĩ đến đất nước, biển đảo đã và đang bị kẻ thù phương Bắc xâm lấn. Rồi để ứa nước mắt với câu hỏi quay quẩn trong đầu “Khi nào dân ta thực sự hạnh phúc?”

Một du kích từ một mật khu trong rừng... 

“Ngày 30/4/75 tui vui quá trời! Từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ngày nào vui hơn! Năm 12 tuổi, đâu có học hành gì đâu, tôi theo cách mạng, vác súng, vác đạn cho các anh du kích. Từ đó tôi từ từ bò lên, liên lạc viên, rồi y tá, y sỹ... Nói thẳng nói thiệt, khi du kích bị thương, thằng nào gặp tôi cầm dao, kéo chuẩn bị mổ xẻ, đứa nào cũng sợ xanh mặt, tụi nó chỉ biết ứa nước mắt rồi đờ đẫn ra chấp nhận như số kiếp con ngựa bị gãy rời đôi chân để chạy. Trời, đi du kích mà mất khả năng di chuyển, mất khả năng chui rúc thì chỉ làm gánh nặng cho đơn vị, nên Bác và đảng đã ra chỉ thị đơn vị phải giải quyết “nhanh và gọn”. Tôi lúc nào cũng vượt chỉ tiêu “nhanh và gọn”, do đó du kích tôi đánh nhau chết thôi, quyết không để bị thương! 

Ngày được lệnh ra Rạch Giá tiếp quản thành phố, trong đơn vị, ai cũng mừng quá là mừng. Đang sống giống như chuột trong lổ cống tự nhiên có nhà cửa, giường nệm, chăn thơm, ăn nhậu thả giàn. Ôi chao, giống như lên thiên đường! 

Cũng từ ngày này, sự nghiệp tôi lên như diều gặp gió. Toàn chức vụ ngon ăn, chủ tịch tỉnh, bí thư tỉnh, phó thủ tướng, tổng giám đốc ngân hàng trung ương... Nghĩ lại tôi thấy thiệt mình có nhiều tài, lãnh vực nào mình cũng ngon lành. Học hành? Trời! Trên thế giới có thằng nào học nhanh bằng mình? Chỉ cần vài năm học chơi chơi là tôi có bằng cử nhân luật! 

Khi tôi làm thủ tướng, đảng thấy mình thanh liêm quá nên tôi được kiêm nhiệm trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Mấy đứa con tôi, tự tụi nó lo đi du học ở các nước Anh, Mỹ, rồi cũng tự tụi nó phấn đấu lên lãnh đạo chỗ này, chỗ kia. Tui nghèo đâu có tiền lo cho tụi nó, nó giàu sang là tụi nó do có giống di truyền từ tôi đó thôi! 

Bây giờ về làm “người tử tế”, nhưng chân rết trong đảng của tôi cũng còn vững lắm. Ngày 30 tháng tư năm nay, vui nhưng cũng lo. Chắc không sao, thằng cha già lo đập con ruồi còn chưa xong, đụng gì đế́n được con ếch. Con ếch là chú ông trời, mình ộp một tiếng, ai cũng im.”

Một người phụ nữ đã sinh ra, sống ở Sài Gòn...

“Ngày 30/4/1975 lần đầu tiên trong đời bác thấy bộ đội Bắc Việt, bác sợ quá chừng. Mặt mũi đứa nào cũng giống đứa nấy, nón cối, dép râu, súng ống lăm le trên tay. Vài ngày sau bác quen, không sợ, mà thấy tội nghiệp tụi nó. Nghèo nàn, khờ khạo, ngu quá trời, bồn cầu ngồi mà tụi nó nghĩ là chổ rửa tay, rửa mặt, hứng nước uống. Trời đất, ai mà tin! Dzậy mà có thiệt. Đi đâu tụi nó cũng lục tìm “cái đài”, nhiều cái củ rỉn, tụi nó cũng nâng niu. Tội nghiệp thiệt! Nhưng mấy ngày sau đó bác bắt đầu ghét. Đi đâu tụi nó cũng ca ngợi “Bác và Đảng”, lập đi lập lại giống như cái máy. Rồi mấy cha nội lãnh đạo đọc diễn văn, cũng lập lại y chang, cuối cùng mấy chả còn dơ tay hô khẩu hiệu “...muôn năm, muôn năm” và “...sống mãi, sống mãi”. Bà con mình phía dưới cũng phải dơ tay “...muốn nằm, muốn nằm”, rồi “...sống mái, sống mái”. Hổng làm theo, tụi nó đẩy cái rụp dô trại cải tạo, làm gì có toà án, luật lệ! 

Nhà bác chỉ có ổng, chồng của bác, đi học tập có mấy ngày nên cũng đở. Đến khi đánh tư sản mại bản, bác có cái sạp vải nhỏ síu ở chợ, tụi nó cũng đánh luôn. Luật rừng, luật rú, kêu ca ai nghe? Lạng quạng nó cho dô tù hay trại cải tạo. Nhiều người bị đánh tư sản, mất hết nhà cửa còn bị đẩy đi kinh tế mới. Đúng là tụi cướp dựt, cướp ban ngày ban mặt. Từ trên xuống dưới đều làm nghề ăn cướp như dzậy, sao đất nước khá lên được! Không còn gạo, người dân ai cũng ăn bo bo, khoai... thịt cá thì cấp theo tiêu chuẩn. Mà nước nghèo, dân đen lãnh chứ mấy thằng chóp bu ở trên cướp của người ta, chia chác nhau sống khoẻ re. 

Cảm giác từ sợ, tội nghiệp, ghét, căm thù để cuối cùng nhiều gia đình đã bất chấp nguy hiểm, vượt biên tìm đến bến bờ tự do. Gia đình bác có hai đứa con đi vượt biên. Một đứa chết trên biển vì hải tặc. Một đứa may mắn qua được Mỹ. Nhờ nó bảo lãnh, gia đình bác mới qua bên đây. Đời sống giờ cũng ổn. 

Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng tư, nhớ đến chuyện cũ ở Việt Nam, bác lại nổi da gà. Trời ơi, đất nước gì mà kỳ cục, sản sinh ra mấy thằng khùng khùng, điên điên chỉ vì chủ nghĩa tầm bậy tầm bạ gì đó. Miệng lúc nào cũng ba hoa, xã hội công bằng, mà tay chỉ lo cướp dựt của cải người dân để làm giàu riêng cho mình, cho gia đình mình. Bây giờ nó tiếp tục cướp đất, cướp tài nguyên của dân mình. Nghĩ tới nghĩ lui, đôi lúc bác ứa nước mắt, tức cái bọn lãnh đạo dối trá, thương người dân còn ở lại. Không biết bao giờ họ mới hưởng được tự do, hạnh phúc như gia đình bác bây giờ? 

Miền Bắc, chế độ độc tài đảng trị bọc người dân trong một cái vỏ kín của sự dối trá, mọi người tin miền Bắc đang “giải phóng” dân miền Nam nghèo đói... 

“Bác có đứa con nhập ngũ trước 30 tháng tư 75. Miền Bắc ai cũng nghe Bác và Đảng nói dân miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột nên đói khổ lắm, nên mình phải “giải phóng” cho họ. Khi con nó theo bộ đội tiến vào Nam, Bác gói cẩn thận cho nó mấy cân đường mang theo,. Sau khi giải phóng được Sài Gòn, dặn dò nó ghé nhà ông anh Bác cứu đói, đưa quà. 

Tháng sau ngày giải phóng, con nó về phép thăm nhà. Nó mang về bao nhiêu thùng hàng. Tôi ngạc nhiên hỏi thăm: “Con đến thăm Bác Thắng, đưa quà cho bác ấy rồi phải không? Chắc gia đình bác nghèo đói lắm?”. Con tôi ôm bụng cười: “Ối giời ơi, nhà bác ấy to như cái lâu đài. Bác trai phải đi học tập. Chỉ gặp bác gái, bác đã mời con vào nhà. Ối giời ơi, vào nhà rộng rãi, cái ghế sao mà nó ngồi êm thế. Con đưa tay vào túi xách tính lấy quà để đưa, nhưng nhìn căn nhà sang trọng quá, con quá xấu hổ lại rút tay ra. Đây bác gái gửi biếu mẹ mấy xấp vải, còn bố cái đài”. 

Bác ngồi mân mê xấp vải hàng giờ, nó như nhung như lụa. Suốt cuộc đời sống ở miền Bắc, chưa bao giờ bác thấy những tấm vãi đẹp đẽ đến thế. Còn chồng bác chả lo ăn uống gì, suốt ngày ông ôm cái đài, nghe chán cất vào tủ khóa lại. Nghĩ một lát, ông lại mở tủ, lấy đài ra... Cứ thế... 

Thấy con đeo cái gì là lạ ở tay, bác hỏi. Nó vui vẻ khoe ngay: “Ngồi nhà Bác Thắng, con cứ nhìn chăm chú cái đồng hồ đeo tay của con bác. Cuối cùng anh ấy cười, tháo ra tặng con làm kỷ niệm, vì anh ấy có đến mấy cái. Đấy bố mẹ xem, đồng hồ không người lái của bọn tư bản. Đeo vào tay, cử động tay làm nó chạy chả cần lên dây cót gì cả!”. Hai bác chưa bao giờ nhìn thấy cái vật gì đẹp và tinh xảo như vậy, cứ nâng niu và nhìn. Con bác bật cười “Cho Bố mẹ mượn. Mai trả lại cho con”. 

Tối lên giường nằm, bác trai cứ đưa tay lên, ngắm cái đồng hồ không người lái. Bác sốt ruột: “Ông đeo thế, ngủ làm vỡ nó mất. Để tôi cất lên cạnh ảnh thờ của Bác Hồ”. Bác để cái đồng hồ trước ảnh Bác Hồ: “Cháu cho Bác mượn tạm. Đời Bác chắc chẳng bao giờ có cái đồng hồ này đâu. Mai Bác trả lại cho chúng cháu”. Thế mà chỉ lát sau, ông chồng bác lại lồm cồm đứng lên: “Bà vẽ chuyện. Bác đứng yên thế kia, chả chịu “lắc” gì cả, “nó”chết toi” mất!”. Thế ông ấy cứ loay hoay cái đồng hồ không người lái: “Tôi để gần giường. Thỉnh thoảng, bà cầm lên “lắc” phụ tôi. Đấy xem kim nó nhúc nhích kia kià. Quên không “lắc” nó lăn kềnh ra thì khốn!”. Hai bác cả đêm không ngủ được vì lo “lắc”, nhưng hai bác vui vẻ lắm! 

Mỗi năm có dịp nhớ lại ngày 30/4/1975, bác lại nhớ đến cái đồng hồ không người lái. Một kỷ niệm không thể quên vì nó là vật thật, một trong những cái thật, đã thật sự “giải phóng” cho bác thoát khỏi cái không gian mà mình đã sống trong bao năm, chỉ có sự dối trá, sự lừa gạt. 

Chiến dịch đánh “tư sản mại bản” là một sự kiện gắn chặt với ngày 30 tháng tư. Đỗ Mười, Uỷ viên bộ chính trị TUĐCSVN, được cử vào Sài Gòn chỉ đạo chiến dịch với sự tham gia đông đảo của công an, bộ đội, cán bộ, công nhân viên chức nhà nước... Không chỉ tầng lớp giàu có, những người trung lưu, hoặc tiểu thương ở các chợ cũng bị kiểm kê, tịch thu hàng hoá, nhà cưả... Một cuộc cướp của qui mô có lẽ chưa hề có trong lich sử cận đại của nhân loại. 

Từ một nơi xa xăm, người phụ nữ nói về những ngày ấy...

“Hai vợ chồng bác do cần cù, chịu khó, đã vươn lên từ sự nghèo khổ có một gia đình tương đối sung túc. Bác không quan tâm nhiều đến chính trị, chỉ chăm chỉ lo làm ăn, lo cho gia đình. Ngày 30/4/1975 bác hy vọng đất nước thống nhất, cùng là người Việt, tất cả cùng chung lưng xây dựng lại. Nhưng sau ngày tháng tư ấy, tất cả đều xụp đổ, mọi chuyện xẩy ra khác hẳn, ngoài sự tưởng tượng của con người. Bác trai phải dẫn con vào Sài Gòn sống, ở đó gần trung ương, quốc tế nó e dè hơn. Xa xôi tỉnh lẻ, bọn chúng bắt người, cướp của... không một ai kiện tụng được! Bác ở lại tỉnh, giữ nhà. Nhưng nhà bác thuộc diện bị đánh tư sản mại bản. 

Bọn chúng lục xét nhà bác. Chúng bỏ ngoài tai những lời van xin, cầu khẩn. Chúng hăm dọa, rồi vỗ về, niêm phong tất cả mọi thứ trong nhà chỉ trừ vài món lặt vặt để bác có thể khăn gói lên đường đi vùng kinh tế mới. Chúng rời nhà, quăng lại bên cạnh người đàn bà khốn khổ đang ngồi bệt trên nền nhà, đã khóc cạn cả nước mắt, tờ giấy ra quyết định tịch thu nhà cửa, tài sản do Ủy ban quân quản tỉnh ký. 

Bác vẫn ngồi, gục đầu trên giường. Trưa, chiều rồi tối, bác vẫn ngồi im lìm, không còn biết đến không gian, thời gian... Cuối cùng bác quyết định đứng dậy, nhìn quanh. Không! Không thể để bọn cướp ngang nhiên như thế! Bác phải đấu tranh ở lại căn nhà của bác. Không đi đâu cả! Trời đã khua. Bác thấy lạnh lắm. Bác lần bước đến căn hầm xây dưới nhà để gia đình trú ẩn khi cộng sản pháo kích vào tỉnh. Bác sẽ trốn xuống dưới đó. Bọn chúng sẽ không bao giờ tìm ra bác. Cửa hầm tối đen, bác vướng chân, té nhào xuống lăn người trên nền đá lạnh của căn hầm. Đau quặn cả người, nhưng bác cũng cố gắng gượng dậy. Phải gắng sức chống bọn cướp, chúng không dễ dàng lấy được nhà của bác! 

Vài ngày sau, bác nghe những tiếng động trên hầm. Bọn cướp đã dọn vào ở. Bọn chúng tươi cười, ăn mừng ồn ào. Nghe chúng nói chuyện, bác biết một thằng tướng cướp, được thuộc hạ cung kính gọi là “anh Ba”đã dọn vào ở, đang chờ đợi vợ con từ miền Bắc vào. 

Khuya, bọn bộ hạ đã rời nhà, thằng tướng cướp đã ngủ, bác rón rén rời hầm. Bác lẻn vào phòng ngủ thằng tướng cướp. Khuôn mặt thằng tướng cướp trong giấc ngủ vẫn đầy vẻ ranh mãnh, giảo quyệt, hơi thở lẫn mùi bia, rượu, thuốc lá. Bác đưa tay khẽ chạm vào mặt nó, lẩm bẩm: “Thằng khốn nạn! Thằng ăn cướp!”. Nó chỉ nháy nháy lỗ mũi, quay đầu sang hướng khác, vẫn ngáy đều. 

Bác nhẹ nhàng rời phòng, sang một phòng khác. Một phòng có chứa nhiều thùng hàng trên có hàng chữ viết “Gửi anh Ba”. Vài thùng hàng hàng đã tháo dỡ dang, những xấp vãi, những kem đáng răng, xà bông, những chén, đĩa... Tất cả đều mới. Bác giận điên người: “Thằng khốn nạn! Nó cướp của bao nhiêu người!”. Bác vô tình làm rơi vài món xuống đất. Có lẽ tiếng động đi lại và vật rơi làm thằng khốn nạn thức dậy. Bác vội trốn vào một chỗ, lén nhìn. Nó tỏ vẻ ngạc nhiên, càu nhàu, cầm vài thứ rơi rãi trên nền nhà, quăng lại trên bàn, rồi quay trở về phòng ngủ. Bác không để nó ngủ yên. Bác bắt đầu mở cửa cho gió lùa vào. Tiếng động làm thằng khốn nạn lại thức dậy, càu nhàu đóng cửa. Bác lại chạy tung mở cánh cửa khác, rồi bác nấp kín... Bác nhanh nhẹn chơi trò cút bắt với thằng khốn nạn suốt đêm. Bác vui quá, không thấy mệt gì cả. Mãi đến khi trời sáng, bác sợ nó dễ thấy được mình, bác mới tạm lánh xuống hầm. 

Sau vài đêm chơi trò cút bắt, thằng tướng cướp có vẻ mệt mỏi và hoang mang. Chung quanh mắt nó có quầng đen và hơi thở trở nên nặng nhọc. Trong khi bác cảm thấy khoẻ hơn, đi đứng manh bạo, tự tin hơn. Bác còn có thể đẩy nhẹ chén bát nó hớ hênh để gần mép bàn, làm nó vỡ tung trên nền nhà. 

Cứ như thế, một đêm mưa gió, bác đã mở tung được nhiều cánh cửa, mưa gió gào thét tràn vào. Thằng khốn nạn đã hoảng sợ! Bác chạy chung quanh nhà, bác cười. Bác chạy ra ngoài trong cơn mưa, trong ánh sáng thấp thoáng của tiếng sét, bác chỉ vào mặt thằng khốn nạn qua khung cửa sổ, bác cười. Tiếng cười của uất ức đến cùng cực, man dại hẳn đi... Rồi bác chạy vào nhà, chạy từ khung cửa mở toang này đến khung cửa mở toang khác. Nó dường như đã nhìn thấy, quay vòng nhìn theo bác. Bác không còn sợ, chỉ tay vào khuôn mặt tái nhợt kia và cười. Nó gục mặt, lê bước, trợt vào những mãnh vỡ trên nền nhà ướt sũng nước. Nó té nhào, đầu va vào cạnh bàn. Máu chảy quanh mắt nó, qua mũi, qua miệng rơi xuống... Bác đưa tay chỉ vào mặt nó. Kỳ lạ thay, ngón tay của bác như dài ra, chạm được vào trán của nó. Nó đưa tay như cố gắng đẩy ra. Trong mắt ngoài máu có lẽ còn cả nước mắt, ánh mắt thằng tướng cướp nhìn như đang van cầu sự tha thứ. Rồi nó đã bò như con thú đã bị mù, bò mãi, bò ra khỏi cửa nhà, cố gắng đứng lên, khập khểng chạy, rồi té, gượng đứng lê bước thấp cao, thấp thoáng biến vào màn đêm mưa gió. Bác đứng nhìn, tự nhiên những khổ đau, uất ức dâng lên, thoát ra bằng tiếng cười. Tiếng cười vang lên trong căn nhà hoang vắng. Ánh sáng cả căn nhà, căn nhà của bác, như chớp tắt theo. 

Thằng tướng cướp không trở lại. Chỉ còn bác một mình trong căn nhà. Căn nhà bác bị khoá cửa lại. 

Vài năm sau, phía trước nhà được mở cửa hàng bán thuốc tây. Cô bán hàng buổi chiều hàng ngày khoá cửa về nhà riêng. Có nhiều người khách đến mua hàng, tò mò: “Căn nhà rộng rãi, sao không có ai ở?”. Cô cúi đầu, trả lời nhẹ nhàng “Bà chủ cũ căn nhà bị đánh tư sản. Bà uất ức, treo cổ ngay trong nhà nên không ai dám ở”. 

Không, bác không chết. Dù thời gian qua, tóc bác nay đã bạc phơ như sương tuyết, da thịt bác như từ từ tan biến đi, lẫn vào không khí. Bác vẫn sống trên nền nhà cũ và những ngày 30 tháng tư bác vẫn nhớ lại cái ngày gọi là ngày “giải phóng”. 

Trở về hiện tại, những người trẻ sinh ra sau 30 tháng tư 1975 nghĩ gì về ngày ấy. Có lẽ muôn ngàn ý kiến. Có những ý kiến do tự cảm nhận, tự tìm hiểu, tự học hỏi. Có những ý kiến do sự giáo dục nhồi sọ ngay từ lúc còn nhỏ. Có ý kiến chủ quan, khách quan...

Một người trẻ sinh ra và lớn lên ở Mỹ... 

Ba má tôi vượt biên khoảng năm 1980 và được nước Mỹ cho định cư. Tôi không hiểu nhiều về chiến tranh Việt Nam, chỉ hiểu đại khái miền Bắc cộng sản được Liên Xô, Trung cộng hậu thuẩn, đưa quân qua đường mòn HCM tấn công quân đội chính quyền miền Nam được Mỹ, Úc, Nam Hàn... giúp đỡ. Tôi có xem nhiều hình về ngày 30/4 trên internet, nổi bật trên hết là hình những người dân chạy loạn từ Trung vào Nam. Họ được “giải phóng” nhưng lại bất chấp sinh mạng của mình chạy trốn sự “giải phóng” ấy. Tôi rưng rưng nước mắt. Tôi chỉ cho cô bạn gái người Mỹ. Cô ấy khóc “Tội nghiệp người miền Nam. Cũng là con người sao họ khổ quá!”. Sau 30 tháng tư, hàng triệu người bất chấp hiểm nguy, tiếp tục vượt biên. “Giải phóng” gì kỳ lạ quá, tôi không thể hiểu được? 

Một cô gái được nhồi sọ từ nhỏ, đang mong làm “cô dâu Trung quốc”, một mode đang dần thịnh hành..

“Em yêu Bác và Đảng từ khi còn tấm bé. Em cũng yêu bác Mao. Nhờ bác Mao và Liên Xô nên Bác và Đảng mới có chiến thắng ngày 30 tháng tư. Trung quốc có đánh Việt nam năm 1979 nhưng mình có khi cũng hư lắm nên họ mới “thương cho roi cho vọt” thôi. Biển đảo người mình cứ đánh cá bừa bãi, hủy hoại môi trường thế nên Trung quốc nó chiếm để giữ gìn. Khi nào môi trường tốt họ trả cho VN ngay. Về chính trị, Trung quốc họ chả bao giờ chịu ngồi yên để VN thay đổi gây ảnh hưởng đến chế độ của họ. Đến đây em phải đi vì mắc hẹn với con bạn gặp các anh Trung quốc. Trai Trung quốc giàu có, khéo và chiều các em lắm. Chả bù các anh trai VN nghèo, không tiền bạc gì”. 

Một cô gái chỉ muốn yên thân học hành... 

“Em bắt đầu lên đại học. Cùng lứa tuổi, các em chỉ biết về ngày 30 tháng tư do đảng và đoàn nói cho biết. Ba má em cũng khuyên em phải nghe lời đảng, đừng đụng đến chính trị, nhạy cảm lắm, ảnh hưởng sự nghiệp sau này. Em sợ ba má em buồn, lỡ có gì ai lo cho ba má em, còn tương lai gia đình riêng của em sau này? Học ở Việt nam, ra trường muốn có việc làm phải có quan hệ, có phong thư, em cũng lo lắm. Em với nhiều đứa bạn rất mong ước đi học nước ngoài Mỹ, Anh, Canada, Úc... Học xong xin ở lại, bão lãnh gia đình...”. 

Một cô gái trẻ học trong trường, học ngoài xã hội... 

“Em ở tuổi hai mươi. Em đọc và tìm hiểu rất nhiều trên internet. 30 tháng tư 1975 là ngày thống nhất đất nước nhưng qua hơn 40 năm giữa người Việt còn rất nhiều chia rẽ, hận thù. Không thống nhất được lòng người với nhau thì thống nhất chỉ là cái vỏ bề ngoài, không mang lại sức mạnh của một quốc gia thống nhất thực sự, Trung quốc coi thường mình là chuyện đương nhiên. Như thế thà giữ như nam bắc Triều Tiên, hai miền có hai chế độ phát triển ngược nhau và Trung quốc có thái độ nể nang hơn so với VN”. 

Một bạn trẻ suy nghĩ nhiều về “thống nhất”... 

“Tôi nghe lãnh đạo cộng sản VN nói đến hoà hợp, hoà giải để thực sự thống nhất. Tôi nghĩ khó lắm khi nhiều người Việt sống ở nước ngoài, và nhiều người trong nước thích tư tưởng tự do, dân chủ. Người Việt trong nước thấy cùng là con người, sao người nước ngoài có nhân quyền, đất nước giàu có? Lãnh đạo Việt nam luôn bắt người dân phải phục tùng, ép buộc theo đường lối của họ, nhân quyền bị chà đạp... thì làm sao có hòa hợp. 

Một ông thủ tướng VN đã nói “Ngày 30 tháng tư triệu người vui, triệu người buồn”. Một câu nói bâng quơ không có giá trị thực tế gì cả. Tuy nhiên ông ta trong lúc bất chợt cũng thấy được một điều gì chứng tỏ ông ta có một ít nhân tính hơn các người lãnh đạo CS khác. 

* * * 
30 tháng tư 1975 theo cộng sản là ngày giải phóng miền Nam, ngày thống nhất hai miền Nam Bắc. Không thể một người nghèo hơn, đi cướp giựt người giàu hơn rồi nói mình đi giải phóng cho họ. Kệch cỡm và trâng tráo lắm. Thống nhất chỉ trên hình thức, lòng người sau bao năm vẫn chia rẽ, hận thù. Một bên giai cấp thống trị vẫn ôm lý thuyết Mác Lê, mục đích bảo vệ đảng, bảo vệ quyền lợi của mình. Một bên giai cấp bị trị đòi hỏi nhân quyền, công bằng trong xã hội. Người giai cấp bị trị chắc chắn phải đông hơn cái thiểu số giai cấp thống trị đang được hưởng đặc quyền, đặc lợi kia. Nhưng nhóm quần chúng đa số, ngoài lý do không vượt qua nỗi sợ hãi với bạo quyền. 

Một lý do cũng rất quan trọng là chưa có phối hợp gắn bó với nhau giữa các cá nhân trong giai cấp bị trị. Lech Walesa đã tạo sự kết dính những người cùng tư tưởng đấu tranh đã đưa đến sự thành công của Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan. Tương tự Mandela của cộng hòa Nam Phi, Aung San Suu Kyi của Miến Điện là những nhân tố kết hợp, tạo sức mạnh của sự đoàn kết đưa đấu tranh đến thành công. Khi chúng ta chưa đoàn kết để có tiếng nói chung, e rằng chúng ta sẽ tiếp tục ngậm ngùi khi ngày 30 tháng tư lại đến. 

29.04.2017
Hồ Chí Phèo

Tháng Tư, Kính Tiễn Cô Hạnh Nhơn




blankTrung Tá Hạnh Nhân thời tại ngũ trước 1975.

Như nhiều người quen biết và gần gũi với Cô, tôi gọi “Cô Hạnh Nhơn” và xưng là con.

Pháp danh “Thân Từ” khiến tôi nghĩ đến Cô là một Phật tử đã quy y với một vị Thầy nổi tiếng thường đặt Pháp danh cho các Phật tử bắt đầu bằng chữ “Thân”. “Tướng tùy tâm sanh”. Có lẽ vị Thầy đã nhìn thấy khuôn mặt thanh tú và phúc hậu của Cô toát ra tấm lòng từ bi nên đặt cho Cô pháp danh có ý nghĩa gần gũi và yêu thương: “Thân Từ”. “Từ” là tình thương, là lòng lân mẫn trước nỗi đau khổ của những người khốn cùng. Tình thương đã khiến Cô tận tụy với hàng chục ngàn hồ sơ thương phế binh, quả phụ, cô nhi và tử sĩ trong hai mươi năm qua từ các Hội Tương Trợ Tù Nhân Chính Trị và Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh. “Từ” còn là ý trong kinh Pháp Hoa “Từ nhãn thị chúng sinh” đem mắt thương nhìn cuộc đời.

Có người ví Cô như một vị Bồ Tát, nếu hiểu Bồ Tát là những người có đời sống bình thường và ở gần chúng ta chứ không ở trên cõi hay tầng trời nào xa xôi. Người ấy lao vào làm những việc khó khăn không ai dám làm và không làm nổi. Người ấy sáng mang niềm vui đến cho người, chiều giúp người bớt khổ. Người ấy hy sinh, quên mình, “làm dâu trăm họ” mà vẫn vui, nghe những lời thị phi, sái quấy mà không hờn giận. Tinh thần phục vụ của người ấy bền bỉ và kiên trì đối với tha nhân cho đến lúc sức tàn, hơi kiệt. Đó là hành trạng của một vị Bồ Tát. Nếu hiểu như thế, Cô là một vị Bồ Tát.

Có ai biết cô gái sinh ra từ đất Thần Kinh thơ mộng ấy là con gái của một vị quan đại thần thanh liêm, chức vụ “Đô Thống Chưởng Vũ Sự” dưới triều vua Khải Định. Tuy là con nhà võ nhưng thấm nhuần đạo lý Nho gia, ông bố đặt cho con gái một cái tên trong sách vở của người xưa “Trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời đức hạnh làm câu trau mình”.(1)

“Hạnh Nhơn”, người con gái đức hạnh. Cái tên hợp với tính tình và phong cách đạo đức của Cô. Cô dịu dàng, hiền hòa từ cách ăn nói đến đối nhân xử thế. Khi gặp hoàn cảnh ngặt nghèo như tù đày hay khó khăn, người con gái đức hạnh ấy vẫn giữ được phẩm chất của người phụ nữ Á Đông trong thời loạn, chung thủy, chịu đựng, kiên trì vượt qua mọi chướng ngại, thử thách.

Xuất thân từ một gia đình thấm nhuần Nho học, khi lớn lên, Cô tiếp nhận nền văn hóa và giáo dục phương Tây. Cô nữ sinh trường Đồng Khánh học tiếng Pháp. Cô gia nhập đoàn Nữ Hướng Đạo của trường Đồng Khánh. Thời của cô, con gái được bố mẹ cho đi sinh hoạt hướng đạo là một quan niệm mới và tiến bộ. Mục đích của hướng đạo là đào tạo những con người chân thật và kiên cường, tháo vát và mạnh mẽ, luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân, thích nghi với mọi hoàn cảnh, luôn luôn đặt danh dự và trách nhiệm trên hết. Nền giáo dục của ngành hướng đạo bổ túc cho nền giáo dục gia đình và nhà trường, “dẫn đường” cho người đi sau này trở thành người công dân tốt, toàn diện và hữu ích cho đất nước.

Cô đã từng là Trưởng cao cấp, dự những khóa huấn luyện trong phong trào hướng đạo, được nhận bằng “Rừng” (Wood Badge) là đẳng cấp cao nhất dành cho huynh trưởng hướng đạo với cái tên thật là ý nghĩa “Hạc Bác Ái”. Sau này khi sang Mỹ, Cô đã được phong trào Hướng Đạo Việt Nam tại Mỹ tặng huân chương “Bắc Đẩu” và “Bách Hợp” để vinh danh công lao đóng góp của Cô.

Ai đã đặt cho Cô cái tên của loài chim hạc? Chim hạc là loài chim quý. Chim hạc là hình tượng chính trên trống đồng Đông Sơn của Việt Nam. Chim hạc là biểu tượng văn hóa của nước Nhật. Chim hạc tượng trưng cho sự trường thọ, hạnh phúc và an hòa. Chim hạc còn tượng trưng cho sự khôn ngoan, sự cao sang và quyền lực. Bác ái là tình thương mở rộng đến muôn người. “Hạc Bác Ái” cũng như “Thân Từ” là sự hòa hợp của tình người từ trái tim yêu thương của Cô khi đến với những người cùng khổ không chút phân biệt.

Năm nay Cô đã ngoài chín mươi. Với cái tên có nhiều ý nghĩa, “Hạc Bác Ái” đã bay một đoạn đường dài hơn bảy mươi năm, là chứng nhân của những thăng trầm trong giòng lịch sử Việt, đã “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của đất nước.

Đâu chỉ có việc ăn cơm nhà vác ngà voi” những chuyện đại sự ngoài đời, đối với việc nhà, tuy xuất thân từ một cô tiểu thư khuê các xứ Huế, người con gái giỏi giang và đảm đang ấy “ngộ biến tòng quyền”. Cô đã từng ôm những mâm khoai, rổ mía đi bán thời tản cư khốn khó để kiếm sống giúp gia đình. Gần năm năm tù đày dưới chế độ Cộng sản, cô đã viết những trang hồi ký “Chuyện Người Tù Cải Tạo” kể lại những ngày sống gian khổ, bệnh hoạn, tủi nhục và cay đắng trong tù khiến người đọc vô cùng cảm động và khâm phục. Bên cạnh trái tim yêu thương, hiền hòa ấy còn là một dũng lực phi thường, một ý chí vững mạnh, lòng tự trọng son sắt để đối đầu với những âm mưu của cán bộ Cộng sản.

Ở tù thời cộng sản, chỉ có các bà đi thăm nuôi các ông. Trường hợp Cô Hạnh Nhơn là một trong những trường hợp hy hữu. Ông đi thăm nuôi bà. Tráng Trưởng Tráng đoàn Hoa Lư Lý Nhật Hướng có tên “Đà Điểu Điều Độ”, người bạn đời lý tưởng, người đã cùng chen vai sát cánh với Cô từ thời thanh xuân, những ngày đổi đời ấy, ông phải đóng vai bà Tú Xương chạy hàng buôn bán nuôi bà vợ ở tù và đàn con chín đứa.

Được trả tự do, năm một chín chín mươi, gia đình Cô lần lượt qua Mỹ theo diện HO2 và đoàn tụ để rồi từ cơ duyên đó, sau này Cô lãnh chức vụ Hội Trưởng Hội Tương Trợ Tù Nhân Chính Trị, tiền thân của Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả phụ Việt Nam Cộng Hòa suốt hai mươi năm.

*
blank
Bà Hạnh Nhơn 2017.

Tôi biết Cô Hạnh Nhơn từ phong trào “Một gia đình, một thương phế binh” của Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa tại nước Mỹ. Hội kêu gọi người Việt đồng hương tiếp tay với Hội bảo trợ một năm hai trăm bốn chục đồng cho những thương phế binh thuộc loại nặng như mù hai mắt, liệt hoặc cụt một hoặc hai tay và chân. Trường hợp thương phế binh nhẹ như mù một mắt hoặc bị nội thương, cụt một tay hoặc chân được bảo trợ một trăm hai chục đồng.

Tôi gửi thư xin được bảo trợ một thương phế binh. Cô chọn và gửi cho tôi hồ sơ và tấm hình của người thương phế binh tên Trần Văn Phụng. Anh bị mù hai mắt, khuôn mặt dị dạng, cánh tay trái bị gẫy, địa chỉ huyện Cam Lâm tỉnh Khánh Hòa.

Ám ảnh bởi đôi mắt mù của anh thương binh Trần Văn Phụng, tôi về Việt nam tìm đến thôn Phú Bình, xã Cam Tân gặp anh Phụng. Về Mỹ, tôi viết một bài về chuyến đi này. Bài viết được giải thưởng chung kết “Viết Về Nước Mỹ” năm hai ngàn mười sáu.

Khi bài viết được đăng trong mục “Viết Về Nước Mỹ”, cô em gái Hoa Lan trong nhóm Việt Bút đã mau mắn chuyển bài viết này đến Cô Hạnh Nhơn. Từ đó hai Cô cháu thành thân tình, cô thường gửi điện thư hoặc nói chuyện điện thoại với tôi. Tôi kể chuyện chuyến đi thăm người thương phế binh Trần Văn Phụng, về chị Nguyễn Thị Mai vợ của người anh hùng mũ đỏ Nguyễn Văn Đương mà có lần Cô gọi về Việt Nam hỏi thăm chị. Cô tâm tình về hoài bão mong có thêm nhiều tiền trong các chương trình Đại Nhạc Hội để việc giúp đỡ thương phế binh hữu hiệu và tích cực hơn. Cô nói bài viết của tôi làm cho Cô xúc động.

Nhiều bạn đọc Việt Báo Viết Về người Việt có lòng thương khi đọc bài viết này, họ gọi vào hỏi thăm và muốn gửi tiền về giúp đỡ. Tôi cho số phone và địa chỉ điện thư để họ trực tiếp nói chuyện với Cô. Cô gọi điện thoại lại: “Annie ơi. Bà con mình đọc bài của Annie gửi tiền về cho Hội nè. Cô vui lắm. Cô cảm ơn Annie”.

Cô cảm ơn tôi hay tôi phải cảm ơn Cô? Cô là người đã giúp tôi nuôi dưỡng thêm lòng từ bi và bác ái. Cô đã tạo cho tôi cơ hội để làm một việc có ý nghĩa. Cô đã cho tôi bài học phải biết cho đi và cách sống vị tha. Sự đóng góp của tôi thật là nhỏ nhoi so với việc lớn Cô đang làm.

Hôm ra mắt đặc san Đại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh- Người Thương Binh- VNCH”, Cô gửi cho tôi một quyển với những giòng chữ nắn nót thật đẹp. “Gởi tặng Annie Kim brochure Đại Nhạc Hội kỳ 10 vừa mới in xong. Trong này có đăng bài “Người thương binh và bóng tối còn lại” của Annie. Cô cháu mình còn gặp lại, sẽ nói chuyện nhiều hơn. Thân mến.”

Nhìn nét chữ cứng cáp, chân phương của người phụ nữ tuổi đã gần chín mươi mà vẫn còn làm việc, đầu óc vẫn minh mẫn, lúc nào cũng chu đáo, chân tình, tôi gọi cảm ơn Cô và hẹn gặp Cô trong buổi lễ phát giải thưởng “Viết về Nước Mỹ” vào tháng tám.

Vẫn mái tóc bạc trắng như một bà tiên, nét mặt phúc hậu và giọng Huế nhỏ nhẹ, nhưng lần này cô yếu nhiều và đi đứng chậm chạp hơn trước. Cô là khách mời quen thuộc hàng năm của giải thưởng “Viết Về Nước Mỹ” do Việt Báo tổ chức. Ngồi cạnh Cô là cô cháu gái cưng Hoa Lan. Tôi đến chào và chuyện trò với Cô một lát. Cô cười và nói nhỏ bên tai tôi “Cô chúc mừng Annie”. Có những người bạn của tôi nghe tiếng Cô đã lâu nhưng chưa biết mặt, lần này, trên sân khấu, tôi có dịp nhắc đến Cô, nhắc đến công việc lớn lao Cô đang làm và giải thưởng tôi đang cầm trong tay. Tất cả những gì tôi nhận được tối hôm ấy là những cái duyên trùng trùng nối kết với nhau bắt đầu từ sự quen biết với Cô và Hội.

Có một buổi chiều trời mưa tầm tã, cô em Hoa Lan từ xa xuống Little Saigon ghé tôi chơi một lát rồi đi thăm Cô. Hoa Lan nói đó là lần gặp, được Cô hôn nụ hôn ấm áp cuối cùng trước khi Cô cháu chia tay từ giã. Được tin Cô mất, hai chị em bùi ngùi tâm sự. Tang lễ của Cô rơi vào những ngày cuối của tháng Tư đen. Cô sống khôn chết thiêng, ra đi vào những ngày lịch sử này để mọi người ghi nhớ.

Theo di chúc của Cô, đám tang sẽ không làm lễ phủ cờ, chỉ có hai lá cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Hoa Kỳ đặt trên quan tài. Tiền mua hoa phúng điếu xin được xung vào quỹ của Hội HO Thương Phế Binh Và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa. Cô ra đi nhưng vẫn nghĩ đến những người thương phế binh còn lại ở quê nhà.

Ngày viếng tang, đi từ xa, tôi đã thấy những chiếc mũ đỏ, những chiếc áo rằn ri, những chiếc xe “Jeep” treo cờ vàng và cờ Mỹ của tập thể anh em chiến hữu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đậu trước cửa nhà quàn Peek Family Funeral Home phòng số một. Những chiếc pa-nô đầy những hình ảnh của Cô chụp với gia đình, cá nhân và hội đoàn dựng chung quanh sân. Bức ảnh lớn Cô cười thật tươi bên một lẵng hoa hồng đỏ dựng trước cửa ra vào. Tôi cùng với những người đến phúng điếu sớm nhất trong ngày đầu tiên dừng lại ghé xem. Những trang viết, tiểu sử, hình ảnh, lời di huấn, thông báo....là những kỷ vật mọi người sẽ nhớ mãi về Cô.

Cô nằm đó, an bình, tĩnh lặng. Cặp kính trắng gác trên sống mũi như Cô đang nằm đọc sách. Sau thời kinh tụng cầu siêu, một dãy người xếp hàng dọc theo lối đi, tuần tự vào thắp hương và đứng trước quan tài tưởng niệm Cô lần cuối.

Bên trái quan tài là một tấm pa-nô lớn với hình ảnh Cô giơ cánh tay phải lên chào. Bức ảnh này nếu tôi không lầm là bức ảnh mới nhất chụp trong ngày Đại Hội “Cám Ơn Anh- TPB- VNCH” kỳ 10, Cô mặc chiếc áo “vest” màu xanh. Cô cười tươi và đẹp quá với màu son môi hồng thắm. Mái tóc trắng phau như tuyết chải thành nếp gọn gàng. Còn cặp kính? Tôi nghĩ đến một đời sống mới sau khi chết đi. Chiếc kính này biết đâu sẽ cùng đi theo Cô sang bên kia thế giới lành thiện để rồi tái sinh ở cõi người, Cô sẽ tiếp tục đọc những hồ sơ còn dở dang của những người thương phế binh VNCH như ước nguyện của Cô khi còn sống?

Bốn mươi hai năm sau ngày miền Nam tự do bị bức tử, tháng Tư 2017, những lá cờ vàng trên đường phố Little Saigon góp phần thương tiếc Cô, người Nữ Trung Tá Việt Nam Cộng Hòa, vị Chủ Tịch Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh & Quả Phu, trọn đời tận tụy với đồng bào đồng đội.

Sau khi viếng tang cô, từ nhà quàn trên đường Beach, tôi thấy mình phải đi ra biển.

Chiều tháng Tư, nắng nhạt. biển Huntington Beach vắng. Nhìn sóng biển dào dạt trên bờ cát, rồi nhìn mây trắng lững lờ trên bầu trời, tôi nhớ Cô.

Vàng tung cánh hạc bay bay mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
...
Gần xa chiều xuống nào quê quán
Đừng dục cơn sầu nữa sóng ơi (2)

Thưa Cô Hạnh Nhân,

Cô là Hạc Bác Ái của Hướng Đạo Việt Nam. Mây trời và sóng biển nhắc con rằng từ đây, Cô cũng là Hạc Vàng.

Bài viết cho ngày 30 tháng Tư năm 2017. Kính tiễn Cô Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.

Cầu nguyện hương linh Cô vãng sanh Tịnh Độ.

Phùng Annie Kim

Chú Thích:

1 - Thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

2 - Thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu- Bản dịch sau Tháng Tư 1975 của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương

Blog Archive