Thursday, April 30, 2015


Ngày Tự Sướng

Lê Hữu
April 30, 2015



Về ngày 30 tháng Tư, tôi chỉ biết diễn tả cảm giác duy nhất của tôi ngày hôm đó, là họ (công an trại tù Phong Quang, Lào Cai) cho tôi xem một tờ báo có đăng một tấm ảnh rất lớn, chụp cầu Tràng Tiền, trên cầu có chiếc xe Jeep còn mang cờ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, và trên xe có mấy anh Việt Cộng đội mũ tai bèo, xe cắm cái cờ mà họ gọi là cờ giải phóng. Tôi cảm thấy đau nhói trong lòng và có cảm giác như nhìn thấy vợ mình đang nằm trong tay một người đàn ông khác.

Người thốt ra những lời trên là ông Nguyễn Hữu Luyện, cựu sĩ quan Biệt Kích Dù QL/VNCH, trong cuộc phỏng vấn của đài Little Saigon Radio vào tháng Tư năm 2001, 26 năm sau ngày 30/4/1975.

Trong số những cách diễn tả cảm xúc về ngày 30 tháng Tư mà tôi nghe được, đọc được, đến nay tôi vẫn chịu cách diễn tả trên nhất.

“Cảm giác như nhìn thấy vợ mình đang nằm trong tay một người đàn ông khác” là cảm giác thật đau đớn trước một thực tế phũ phàng đập vào mắt mình, mà đành “bó tay” vì bất lực. Tôi cho là không có cách ví von, diễn tả nào “thật” hơn và đúng hơn thế. Còn nỗi đau nào hơn trông thấy người vợ yêu quý của mình bị cưỡng đoạt, vùi dập trong tay gã đàn ông xa lạ. Những ai chưa có vợ ngày ấy có thể hình dung người mình yêu nằm gọn trong vòng tay của tình địch. Giá mà kẻ tình địch ấy bảnh trai hơn, văn minh lịch sự hơn mình thì cái đau ấy còn ít, đằng này thì… “tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”.

Phải thương nước thương nòi ghê lắm, phải đau và hận ghê lắm mới diễn tả được nên lời cảm xúc như thế. Cách ví von ấy rất tượng hình, và tôi tin rằng không ít người có cùng một cảm giác như ông Luyện vào cái ngày thương tâm ấy. Riêng tôi, mãi đến nay cứ mỗi lần hồi tưởng lại cái “biến cố” đó là mỗi lần “đau nhói” trong lồng ngực đến mấy giây vì cảm giác ấy.

Ông Luyện nói thêm,

Sự đau đớn đã làm tôi khóc nhiều ngày, mắt tôi sưng lên. Trong tù rất đói, mà những ngày đó tôi không ăn được nữa.”

Đúng vậy, làm sao ăn nổi, làm sao nuốt cho trôi nỗi đau và hận ấy.

Tôi vẫn chuộng những cách ví von tượng hình như thế, chẳng hạn như cách nói “như đàn kiến loi ngoi bò trong lòng chảo nóng” để diễn tả cảnh hoảng loạn của người dân Saigon đang nháo nhào, cuống cuồng tìm đường thoát thân trong những cố gắng tuyệt vọng vào những ngày cuối tháng Tư ấy. Tôi cũng là một chú kiến nhỏ trong lòng chảo tháng Tư ấy, cũng nháo nhào tìm một lối thoát và sau cùng tuyệt vọng, đành chờ bức màn đen của số phận phủ chụp xuống đời mình.

Cái lòng chảo khổng lồ ấy là số phận của cả một dân tộc.

Triệu Người Vui, Triệu Người Buồn
Ông Nguyễn Hữu Luyện nằm bẹp trong một trại tù ở ngoài Bắc (ông bị bắt năm 1966), chỉ xem ảnh trong một tờ báo thôi mà đã “cảm thấy đau nhói trong lòng” như thế, tôi và những bạn bè tôi còn “đau” đến mức nào khi trông thấy tận mắt những chiếc xe tăng của lính Bắc Việt chạy ngờ ngờ giữa lòng thành phố. 

Không chỉ đau vì người mình yêu bị cưỡng đoạt, tôi còn đau cái đau khác khi trông thấy những khuôn mặt rạng rỡ của từng đoàn người đổ ra ngoài đường phố hoan hô “bên thắng cuộc” (như đã từng hoan hô các “bên thắng cuộc” khác trong cuộc “cách mạng” lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và những cuộc đảo chánh, chỉnh lý tiếp theo sau đó), trong lúc tôi và các đồng đội cúi gầm mặt lầm lũi đi vào các trại tù cải tạo.

Hoan hô “Bên thắng cuộc” [SIC] ngày 30/4/1975 (lật đổ chính quyền VNCH)

Tấm ảnh này có thể “gây sốc” (nói như trong nước) cho không ít người, thế nhưng chúng không biết nói dối và là những “ảnh tư liệu” cho thấy hai mặt khá phũ phàng của cuộc sống mà lắm khi chúng ta chỉ nhắm vào một mặt và quên đi hay cố tình quên đi cái mặt kia, cũng như không muốn nghe những sự thật khó nghe.

Người khác có thể nói “chỉ một số nào đó thôi”, hoặc số người này bị ép uổng sao đó, thế nhưng nói gì thì nói, những vẻ mặt tươi vui rạng rỡ, những tiếng reo hò phấn khởi hồ hởi của đám đông “cứ bên nào thắng là ta hoan hô”, đặc biệt là những “em gái hậu phương” áo dài trắng ấy cũng đủ làm tan nát lòng những người lính xấu số trong cuộc “đổi đời” nghiệt ngã ấy.

Thực tình thì thời nào cũng có, ít hay nhiều, những kẻ “ăn theo”, những kẻ “đón gió trở cờ” và “gió chiều nào theo chiều ấy” để dễ dàng quăng đi không chút tiếc thương lá cờ vàng của hồn thiêng sông núi, của máu thắm biết bao người đã đổ ra cho họ có được cuộc sống tự do no ấm, và chụp vội lấy lá cờ xa lạ của “bên thắng cuộc” mà phất lia phất lịa, để tỏ ra có tinh thần “giác ngộ cách mạng” sớm hơn ai hết.
Có điều, người dân miền Nam còn ngây thơ, dễ tin chứ người cộng sản thì không ngây thơ, cho nên các diễn viên phụ “chạy cờ” này khi xong việc bèn được mời đi chỗ khác chơi cho rộng chỗ, còn đứng xớ rớ có khi lại bị hốt đi cải tạo vì tội “cướp công cách mạng”.

Đến cả thành phần thứ ba, thứ tư gì đó cũng được cho “tan hàng, cố gắng”, và các tờ báo “đối lập” như tạp chí Đối Diện (Đứng Dậy, Đồng Dao), nhật báo Tin Sáng đều lần lượt được cám ơn và cho nghỉ hưu non với lý do đã “hoàn thành tốt nhiệm vụ” (mặc dù ai cũng biết là truyền thông báo chí luôn đồng hành với mọi sinh hoạt của người dân chứ làm gì có chuyện… đã hoàn tất nhiệm vụ).

Biến cố 30 tháng Tư là biến cố “kẻ khóc, người cười” của dân tộc Việt. “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn,” câu nói ký tên ông cựu Thủ Tướng CSVN Võ Văn Kiệt cũng khá phổ biến không thua gì câu nói “Đừng tin những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cái ý của ông Kiệt không có gì mới, nếu có “mới” chỉ là mới được nghe lần đầu từ một quan chức chính quyền CSVN.

Nhiều người chê trách ông Kiệt là chỉ nói được câu ấy sau khi đã về vườn, chẳng còn quyền bính gì trong tay. Điều này có thể hiểu được, lúc còn tại chức dẫu có muốn nói cũng chẳng dại gì nói để còn ngồi yên vị được trên chiếc ghế Thủ Tướng. Tuy rằng có muộn màng nhưng “có còn hơn không”, nói được như thế cũng là giỏi rồi.
Có điều ông Kiệt chỉ nói chung chung thế thôi, thực tế thì có nhiều trường hợp vui buồn khá “phức tạp” mà ông khó lường trước được, gọi là “khi buồn, khi vui” hoặc “trước buồn, sau vui” hoặc “trước vui, sau buồn”, chứ không hẳn chỉ là vui hoặc buồn. 

Chẳng hạn có người chưa kịp vui thì đã buồn, hoặc thoạt đầu đứng về phía “triệu người vui”, đến khi tỉnh người ra, thấy mọi việc không như mình tưởng thì lại buồn tê tái và nhập vào “triệu người buồn”. 

Ngược lại, có nhiều người thoạt đầu đứng về phía “triệu người buồn”, buồn đến độ phải bỏ nước ra đi, đến lúc quay về lại thì vui quá là vui, bèn chạy tọt sang phía “triệu người vui” (như là các “Việt kiều yêu nước” xênh xang áo gấm về làng, hoặc các ca sĩ “miền Nam ruột thịt” dắt díu nhau về quê hát véo von và cảm động đến rơi nước mắt khi được nhà nước chiếu cố cho tổ chức những đêm liveshow “hoành tráng” đánh dấu sự nghiệp hát hỏng một đời). 

Số người “buồn đổi ra vui”, “hết khóc lại cười” ấy cho thấy chẳng có “lập trường” rõ rệt chi cả về việc biểu tỏ trạng thái tình cảm của mình, vì vậy cũng khó mà xếp vào cột nào trong hai cột “triệu người vui” và “triệu người buồn” của ông Võ Văn Kiệt.
Một trong số “triệu người vui”
Một trong số “triệu người buồn”

Tên Gọi Khác cho Ngày 30 Tháng Tư

Hồi tưởng về những kỷ niệm vui, người ta không còn cảm thấy vui nữa; hồi tưởng về những kỷ niệm buồn, người ta vẫn còn cảm thấy buồn khổ.”

Câu ấy đúng hơn bao giờ khi tôi đọc trên báo, xem trên đài truyền hình những câu chuyện và cảm xúc của nhiều người về những ngày cuối tháng Tư ấy. Những câu chuyện vẫn còn nóng hổi như mới xảy ra ngày hôm qua và những cảm xúc vẫn còn tươi rói, nguyên vẹn. Tôi nhìn thấy những khóe mắt đỏ hoe, tôi nghe thấy những giọng nói rưng rưng, nghẹn ngào. Sau 40 năm, dòng nước mắt ấy vẫn chưa cạn, nỗi đau ấy vẫn chưa nguôi, vết cắt ấy vẫn chưa lành.

Viết về ngày 30 tháng Tư là viết về những gì không vui, những gì nặng nề. Thật không may cho tháng Tư, trở thành tháng ít được thiện cảm nhất trong số mười hai tháng của một năm cũng vì gợi lên những cảm giác nặng nề ấy. “Tháng Tư đen”, trong cái nghĩa đó, là tháng của số phận đen tối phủ trùm lên đất nước, dân tộc. Những ai có muốn quên cũng không dễ gì quên được những ngày ấy, tháng ấy khi mà tấm lịch nào giở ra hoặc treo lên cũng có nguyên tờ lịch tháng Tư và cũng nhìn thấy rành rành con số cuối cùng của cái tháng oan nghiệt ấy.

Có những tên gọi khác nhau ở trong nước và ngoài nước cho ngày 30 tháng Tư năm 1975. Những cách gọi và tên gọi khác nhau ấy đẩy người Việt ra xa ở hai phía đối nghịch. Phía này trang trọng cử hành lễ truy điệu anh hùng tử sĩ và “tưởng niệm 40 năm Ngày Quốc Hận”; phía kia rầm rộ tổ chức diễu hành diễu binh “kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, trong lúc vẫn tiếp tục kêu gọi thực hiện “hòa giải, hòa hợp dân tộc”.

Người cộng sản vẫn tỏ ra xuất sắc trong những chiêu lừa gạt. Đã từng là nạn nhân của những vố lừa đau điếng đến “thân tàn ma dại”, người ta không còn cho phép mình tiếp tục ngây thơ, ngu dại nữa. Cái khó cho người cộng sản bây giờ là khó mà làm cho người ta tin được nữa, dẫu họ có tỏ thiện chí cách nào thì cũng bị nhìn dưới cặp mắt ngờ vực, hoặc giả nhân giả nghĩa, hoặc ve vãn phỉnh phờ, hoặc có “ý đồ” gì đây.

Nạn nhân của những quả lừa ngoạn mục ấy không chỉ là người miền Nam mà cả người miền Bắc, và người miền Bắc còn “đau” hơn nhiều. Mãi đến lúc đặt chân lên vỉa hè của thành phố lớn vừa được “giải phóng” thì mới ngã ngửa ra, “Thôi chết rồi, thế là mình bị lừa mất rồi!” “Mất rồi” là đánh mất cả tuổi thanh xuân, cả những năm tháng tươi đẹp nhất của một đời người, hoặc hơn thế nữa, cả một đời làm “cách mạng”. Thế là khóc như mưa. Thế là tình yêu biến thành tình hận.

Ngày 30 tháng Tư tôi còn khóc vì một lý do khác nữa là vì chúng tôi bị lừa. Chúng tôi đi không nghĩ ngày về, chúng tôi tưởng đấy là chiến thắng quân ngoại xâm nhưng thực sự hoàn toàn là không phải. Và tất cả tuổi trẻ của chúng tôi đã bị tiêu hủy đi hoang phí. Và vì vậy mà tôi khóc. Trong những giọt nước mắt của tôi có cái phần chung cho dân tộc và có phần riêng của chúng tôi, của những người bạn tôi đã chết và của bản thân tôi đã hy sinh tuổi xuân một cách vô ích.”

Người thốt lên những lời lẽ chua xót trên là nhà văn miền Bắc Dương Thu Hương, trong cuộc nói chuyện với đài Á Châu Tự Do tháng trước.

Một nạn nhân người miền Bắc khác, “nghệ sĩ ưu tú” Kim Chi (người có lần khiêm tốn từ chối bằng khen thưởng của ông Thủ Tướng và “nói thẳng nói thật” rằng chỉ vì không muốn trong nhà mình “có chữ ký của kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân”), cũng bày tỏ những “cảm xúc tháng Tư” của mình với phóng viên đài VOA như sau:

Bây giờ trong lòng tôi nó lạ lắm. Ngày 30 tháng Tư thì tôi thương nhớ đồng đội của tôi vô cùng, nhưng mà tôi cũng thương những người lính Việt Nam Cộng Hòa, và tôi nhận ra rằng trong cái cuộc chiến này người thắng người thua cũng đều đau, đều mất mát, đều đổ máu hết, cho nên thật lòng mà nói thì tôi cảm thấy nó rưng rưng mà xót xa lắm chị à.”
Nói thêm về “những người lính Việt Nam Cộng Hòa”, bà Kim Chi bộc lộ,

Với tôi, những ai sẵn sàng đem tính mạng của mình ra để bảo vệ đất nước thì tôi đều coi tất cả là anh hùng. Vinh danh những người lính VNCH ở trận chiến Hoàng Sa năm 1974 là một việc làm vô cùng ý nghĩa. Nó biểu hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân và đất nước đối với những người con ưu tú của tổ quốc Việt Nam.”

Và gần đây nhất là những bộc bạch trong lá thư bà Kim Chi vừa gửi ra từ Hà Nội, 40 năm sau ngày 30/4/1975:

Bây giờ tôi mới thấy đó là niềm vui ngộ nhận. Hóa ra, niềm vui, niềm tin và những hy vọng cứ sáng lên trong tôi suốt thời chiến trường khói lửa ấy là do ‘nghệ thuật tuyên truyền’… Những năm bom đạn ‘đi theo lý tưởng’ thì quả là ‘lớn rồi mà còn ngây thơ’. Tôi cũng như biết bao đồng đội đã ‘ngây thơ’.

Bây giờ mỗi lần 30 tháng Tư, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng CSVN và chế độ XHCN hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời. Ngày xưa tôi khóc trong niềm vui chiến thắng, nay tôi lại phải khóc trong nỗi đau thời cuộc, trong những nỗi buồn da diết.”

Những “sự lừa dối ngọt ngào” ấy khủng khiếp đến mức nào khiến cho những kẻ bị lừa khi chạm mặt với sự thật đều phải bật khóc, phải đớn đau, phải thốt ra những lời lẽ đắng cay, chua xót đến như thế.

Tên gọi “Ngày Quốc Hận”, vì vậy không chỉ có ý nghĩa đối với “bên thua cuộc” ở miền Nam mà cả người trong Nam ngoài Bắc, cả những ai từng là nạn nhân, từng say mê “lý tưởng cách mạng” và theo đuổi cái “chiến thắng vĩ đại” ngày 30 tháng Tư mà bà Dương Thu Hương gọi là một “ảo ảnh”, để rồi “sáng mắt sáng lòng” khi nhìn thấy cái ảo ảnh óng ánh, lung linh ấy vỡ tan như những bong bóng xà-phòng.

Đối với rất nhiều gia đình ở miền Nam, ngày 30 tháng Tư là ngày khơi dậy những kỷ niệm buồn, là ngày gợi lên những nỗi đau và những tiếc thương vô hạn. Nhiều gia đình lấy ngày này là ngày giỗ cho người thân yêu mình, những người đã chết tức tưởi hoặc xem như đã chết vì mất tích và đến nay vẫn biệt vô âm tín sau những năm chờ tháng đợi mỏi mòn. Đối với nhiều người chạy thoát ra được nước ngoài trước, trong và sau ngày Saigon hấp hối ấy thì ngày 30 tháng Tư là ngày nước mất nhà tan, ngày sinh ly tử biệt. Tháng Tư vì thế được xem như tháng của tưởng niệm, của tưởng tiếc những nỗi mất mát, tang tóc và chia lìa.

Trước nỗi thống khổ của người khác, người ta chỉ có nghiêng mình và… thinh lặng. Reo hò, nhảy nhót, cười cợt để tỏ sự hả hê, vui sướng trên nỗi đau của đồng loại là việc làm chỉ có ở những kẻ mất nhân tính, thiếu lương tri, và chỉ khoét sâu thêm cái vết thương mà ông Võ Văn Kiệt gọi là “vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”, và chắc chắn đấy không phải là cách tốt nhất để tỏ thiện chí “hòa giải, hòa hợp”.
Theo tin báo chí trong nước, “lãnh đạo thành phố Đà Nẵng quyết định chi gần 20 tỷ đồng trích từ ngân sách thành phố để mở tiệc ăn mừng 40 năm giải phóng Đà Nẵng”, và “nhiều buổi tổng duyệt quy mô trong suốt những tuần qua để chuẩn lễ cho đại lễ ‘kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’ sẽ diễn ra tưng bừng trong cả nước vào ngày 30 tháng Tư này, với những màn bắn pháo hoa rực trời và diễu hành, diễu binh thật hoành tráng có đến 6 ngàn người tham gia.”

Đọc bản tin về những màn biểu dương lực lượng rất “khí thế” này, tôi bỗng nhớ đến ngày 30 tháng Tư của 40 năm về trước. Đâu đâu cũng trông thấy cờ xí ngờm ngợp, những biểu ngữ đỏ chói giăng đầy đường phố, đâu đâu cũng nghe thấy vang lên những bài hát “cách mạng” nhịp quân hành rầm rập, trong lúc loa phóng thanh liên tục mở hết cỡ phát đi những khẩu hiệu ròn rã. Nào là “Chiến công vĩ đại”, “Cuộc kháng chiến thần thánh”, “Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch muôn năm!”, nào là “Đỉnh cao chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc”, “Đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ nhất thế giới là Pháp và Mỹ”, nào là “Vinh quang này thuộc về…, vinh quang kia thuộc về…”, kể ra không hết.

Có vẻ như tên gọi “Ngày Quốc Hận” được hầu hết người Việt “bên thua cuộc” tán đồng để gọi ngày 30 tháng Tư, và cũng khó mà tìm được tên gọi nào tốt hơn; 
tuy nhiên, nếu cần phải tìm một cái tên gọi cũng ngắn gọn như thế cho “bên thắng cuộc”, là cái bên lúc nào cũng vênh mặt lên với vẻ dương dương tự đắc mà bà Dương Thu Hương gọi là “chiến thắng vênh vênh váo váo”, tôi nghĩ chắc cũng không khó lắm. 

Ở trong nước có một cái “từ” khá phổ biến, và thiết nghĩ ta có thể dùng cái từ khá thích hợp ấy để đặt tên cho ngày 30 tháng Tư của “bên thắng cuộc”: Ngày Tự Sướng.




Lê Hữu
(29/4/2015)
 THÁNG TƯ ĐEN: 30.4

Tôi nhớ lại cái cảm giác xúc động và mừng vui khi được xem TV chiếu trực tiếp cảnh dân chúng đạp đổ bức tường Berlin tháng 11 năm 1989.

Là người vừa thoát khỏi chế độ cộng sản Việt Nam chưa đầy một năm trước đó và đã từng được theo dõi cuộc tàn sát đẫm máu sinh viên Trung quốc bởi chính quân đội “nhân dân” Trung quốc trong sự kiện Thiên An Môn tháng Tư 1989, lẽ đương nhiên tôi cảm thấy phấn khích trước một điều dường như không tưởng vào thời điểm đó: ngày cáo chung của Chủ nghĩa CS đã bắt đầu.

Không ai có thể nghĩ rằng Liên xô và khối XHCN lại có thể sụp đổ, sụp đổ chỉ trong một thời gian ngắn với rất ít máu rơi như thế. Và lẽ đương nhiên, tôi liên tưởng và hy vọng cho một Việt Nam. Tôi chờ, lại chờ…!

Nước Đức và Việt Nam
25 năm sau, tôi được đặt chân tới Berlin. Tới phần còn lại của bức tường lịch sử, tới Checkpoint Charlie, đi ngang nơi lá cờ cuối cùng của Kremlin vẫn còn được treo và được thăm nhiều nơi khác trong thành phố nổi tiếng này. Và niềm xúc động của ngày xưa lại về dù lần này mùi vị có hơi khác trước. Tôi may mắn có dịp đi đến nhiều nơi trong nước Đức và tôi thực sự ngưỡng mộ và ganh tỵ với dân tộc này.
25 năm thống nhất Đông Tây, nước Đức đã trở thành một quốc gia với nền kinh tế đứng thứ tư thế giới, một thiên nhiên tuyệt đẹp, một môi trường trong lành.

Tôi chưa hề nghe ở nước Đức có sự phân biệt giữa Đông và Tây, giữa những người “Bên Thắng Cuộc” và “Bên Thua Cuộc”. Bà Angela Merkel, xuất thân là một người Đông Đức và từng là thành viên của Đoàn Thanh Niên CS, thành viên của Đảng CS, bây giờ là vị Thủ tướng xuất sắc của nước Đức thống nhất.

Và tôi tự hỏi, nếu như đổi lại lịch sử, một nước Đức thống nhất nhưng “Bên Thắng Cuộc” là nước Đức Cộng sản thì sẽ thế nào. Sẽ có bao nhiêu ngàn người đi cải tạo? Bao nhiêu ngàn gia đình ly tán, bao nhiêu người trẻ sẽ phải lớn lên trong sự dối trá, thờ ơ, trong sự e sợ trấn áp, hù dọa của chính quyền, bao nhiêu cái đầu non nớt sẽ bị tẩy rửa… như Việt Nam của tôi sau ngày “Thống nhất”?

Không diễu binh, không tuần hành, không cờ quạt, không đổ tiền vào những “hội thảo cấp nhà nước” để “đào sâu thêm ý nghĩa lịch sử của ngày thống nhất”, vị Thủ Tướng Đức chỉ có một bài diễn văn ngắn gọn mà cảm động: 

"…It was a day that showed us the yearning for freedom cannot be forever suppressed – Đó là một ngày cho chúng ta thấy niềm khát vọng cho tự do không thể bị đè bẹp mãi mãi".

Chính phủ Việt Nam, với bao nhiêu công văn, nghị định… về “chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải” đã thực sự đi đến đâu sau 40 năm?

Sẽ chẳng đến đâu khi lời nói không đi đôi với việc làm, khi cứ tiếp tục mang cái vênh vang của kẻ chiến thắng gí vào mặt những người mà cuộc đời đã bị tù đày, ly tán, bị hoàn toàn đảo ngược sau cuộc chiến?
Và nếu như có những tiếng nói phản đối thì lại khoác cho họ cái áo choàng của lòng thù hận, của “thế lực thù địch điên cuồng chống phá Việt Nam”, của “bọn chống cộng”...

Những người lính của 40 năm trước nay đã mất đi nhiều, trong số đó có ba tôi, dượng tôi. Phần lớn những ngưòi còn sống thì họ cũng đã già đi nhiều và cùng với tuổi già thì hầu như ai cũng sẽ khoan dung hơn.

Nếu nói rằng họ mang niềm thù hận cho cái biến cố năm 1975 thì có lẽ rất ít trong số họ còn mang cái nỗi niềm đó trong đời lưu vong ở xứ người. Cứ cho rằng họ chống đối vì thù hận thua cuộc là một nhận định cũ rích cho ta thấy Chính quyền Việt Nam mới là kẻ sống trong quá khứ.

Vì sao? Vì họ quên hoặc cố tình lờ đi rằng cái vấn đề chính là sự khác biệt trong ý thức hệ. Họ không nhìn ra được những sự thay đổi của cả hai phía sau thời gian 40 năm.

Năm 1975, dưới chiêu bài “giải phóng thống nhất đất nước”, họ đã thắng và mục đích thật sự là đem CNCS bao trùm toàn cõi Việt Nam để xây dựng một “thiên đường XHCN”. 40 năm qua, họ xây dựng cái thiên đường này như thế nào?

Họ đem cả một dân tộc đi thí nghiệm ra làm sao? Nhìn vào Việt Nam bây giờ, ta không thể phủ nhận rằng nhiều thứ đã thay đổi: nhà cửa, đường sá, cầu cống, sức ăn sức nhậu… Không thay đổi sao được khi nguồn tài nguyên của một đất nước từng tự hào là “rừng vàng biển bạc” đang bên bờ cạn kiệt chỉ sau bấy nhiêu năm?

Không khá lên sao được khi nguồn viện trợ của “những kẻ chống phá đất nước” hàng năm lên đến 12 tỷ đô-la trong lúc chính quyền VNCH chỉ cần có 350 triệu đô trong những năm tháng cuối để giữ vững cuộc chiến mà bị Mỹ từ chối?

Đàng sau cái hào nhoáng bên ngoài của những thay đổi vừa nói là một sự thật còn đáng sợ hơn: Chủ nghĩa Tư bản Đỏ, một sự liên kết tuyệt hảo giữa nền độc tài chuyên chế của CNCS và sự bóc lột ghê sợ của CNTB sơ khai tạo nên một môi trường tuyệt vời cho tầng lớp cầm quyền.

Về mặt Tư bản, họ tha hồ làm giàu, bóc lột tài nguyên và con người một cách bất chính mà không phải e sợ luật pháp vì họ ở bên trên luật pháp, bao che bởi luât pháp.

Về mặt Đỏ: Chính thể chuyên chế thì bịt miệng, gieo rắc sợ hãi, cầm tù ngược đãi mọi tiếng nói phản đối. Việt Nam sau 40 năm đang hướng đến mô hình của nước Nga Putin.

Xã hội lý tưởng
Những người Việt ở Hải ngoại thì sao? Bao nhiêu năm trước họ dùng xương máu đấu tranh cho một nền công hòa non trẻ.

Thất trận, họ bỏ xứ ra đi bằng nhiều cách và phần lớn đến sống ở những nước Tư bản dân chủ. Nếu như xưa kia họ đấu tranh cho một lý tưởng còn khá mơ hồ thì bây giờ họ được sống ngay trong chính cái xã hội lý tưởng đó.

Một xã hội dù đương nhiên là không hoàn hảo nhưng vẫn đủ để họ ước mơ và muốn đấu tranh cho những người còn ở lại trên quê hương cũng được sống trong một xã hội tôn trọng quyền con người như vậy. 

Trong những người tôi quen biết, không một ai mong về Việt Nam làm ông nọ bà kia. Con cái, tương lai họ ở đây. Họ lên tiếng không phải thuần túy do thù hận mà vì họ là những người còn biết thao thức, lo lắng cho quê hương và lẽ ra Việt Nam phải cảm ơn họ vì chí ít họ còn biết quan tâm đến quê hương đất nước.

Hãy nên lo lắng về cái ngày không xa trong tương lai, khi mà thế hệ thứ hai, thứ ba của người Việt hải ngoại không biết gì về quê hương. Khi đó, có lẽ tiếng nói chống đối từ bên này sẽ tắt vì Việt Nam là một đất nước xa lạ với chúng.

Khi đó, cái “indifference”, cái sự thờ ơ sẽ thế chỗ và cùng với nó là sự cạn kiệt của món tiền 12 tỷ/năm cộng với khối chất xám khổng lồ.

Vì thế, bao giờ còn chưa có Dân chủ ở Việt Nam, chừng nào những tiếng nói phản biện ở Việt Nam còn bị đặt vào cảnh lưu vong ngay trên chính quê hương mình thì chừng đó chuyện Hòa Hợp Hòa Giải còn là điều viễn vông.

Viết đến đây chợt nghĩ lại: xưa thầy la mình hát bài hát “phản động” là đúng. Bức tường Berlin không tự đổ sụp nếu dân Đức cũng cứ ngồi chờ. Thay đổi không tự nó đến và cái giá của Tự do không hề là miễn phí.

Nếu cả một dân tộc đều chỉ biết ngồi chờ, từ tôi, anh, người mẹ, anh lính, ngưòi tù… đều ngồi chờ thì cái ngày được nhìn quê hương sáng chói sẽ còn bao nhiêu lần của 40 năm?

Không thể cứ mãi ngồi chờ, Việt Nam!
ROSIE NGUYEN – Speech at Fall of Saigon 2015 Memorial


Good afternoon, ladies and gentlemen. I am honored for the opportunity to stand up here and speak to you today. I would like to share my thoughts and feelings about the April 30th memorial.
When I come to the April 30th memorial every year, I am very saddened by the lack of attendance from the younger generation in the Vietnamese community. The reason why I choose to attend this event every year is because I moderately understand the historical and cultural significance of this date. When I was a little girl, my father would tell me stories about when he was a soldier for the South Vietnamese forces…and my mother would tell me stories about when she was a boat refugee. Over time, they would educate me about more details regarding the war…like why it happened, who was involved, and what the outcome was. They emphasized that this was an essential part of my identity, and I must never forget why I am here in America instead of my homeland.
However, when I talk to other Vietnamese-Americans, they appear oblivious to what the Fall of Saigon means. This is disheartening, because they are forgetting their identity. It is alarming to think that someone around my age could look at the yellow flag with 3 red stripes and then the red flag with a yellow star…and not understand the difference between the two. We need to do something about this…now.
As a member of the younger Vietnamese-American generation, I urge all of you, as my elders, to teach your family about the Vietnam War. You are the only people left that can ensure that the history and legacy of South Vietnam does not fade away and disappear. As a mother, father, aunt, uncle, grandmother, and grandfather who survived and witnessed the tragedies caused by the Viet Cong – please inform and educate your children and grandchildren about what our people had to overcome.
I know that looking back and re-telling about the Vietnam War brings back painful memories. But what about your brothers and sisters who were killed so unjustifiably during the war? Can you allow them to die in vain and be forgotten by future generations?

This is exactly what the Viet Cong wants. They want all of the descendants of the refugees who fled from Vietnam to forget about their history. They want Vietnam to forever be ruled by Communism, but it won’t. Because the Vietnam in our hearts will never belong to them…as long as we sustain the legacy of South Vietnam. Please…please pass on this vital part of history to your children and grandchildren. 
Do NOT let them forget where they came from and why they are here today. The Vietnam War may be over, but we are still fighting a war with the communists everyday. And they will NOT win this war.”

Thiền và Thở
Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Câu hỏi đặt ra là vì sao bệnh viện mở ra ngày càng nhiều mà lúc nào cũng “quá tải”? Vì sao con người bây giờ tiện nghi dồi dào mà đau ốm triền miên? Vì sao bệnh nhiễm gia tăng và bệnh do hành vi lối sống ngày một phát triển trong khi khoa học y học tiến như vũ bão? Rõ ràng sức khỏe không phải là chuyện của y tế. 
   
Sức khỏe là chuyện của mỗi người, của mọi người. Đời sống càng tiện nghi, nhu cầu vật chất càng được thõa mãn thì con người càng xa lạ với tự nhiên, với chính mình. Stress chính là nguyên nhân của 60-90% bệnh lý đưa người ta đến bác sĩ. Mà bác sĩ thì chỉ chữa được cái đau chứ không chữa được cái khổ, chữa được cái bệnh, chứ không chữa được cái hoạn.
Thiền có thể góp phần giải quyết căn cơ. Nhưng thiền là gì? Cách nào? Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, một nhà minh triết – Đức Phật- bảo đừng vội tin, cứ đến nếm thử đi rồi biết. Đến và nếm thử. Đến là thực hành. Làm đi, đừng nói nữa. Đừng “hí luận” nữa. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự mình cảm nhận, tự mình thể nghiệm để cảm nhận, không thể nhờ ai khác.
Hãy bắt đầu từ việc đơn giản nhất mà cốt lõi nhất: Đó là Thở. Và là Thở bụng. Ô hay, thở phải bằng ngực chứ, phổi nằm ở ngực kia mà? Phổi nằm ở ngực, nhưng thở nằm ở… bụng. Cứ nhìn một em bé đang ngủ say mà xem! Cứ nhìn một người bình thường đang ngủ yên mà xem! Chỉ có cái bụng là phình lên xẹp xuống, còn cái ngực thì… im re. Thật vậy, khi cái ngực mà khò khè, cò cử thì đã bị bệnh rồi. Nói khác đi, cách thở sinh lý, thở thiên nhiên, thở bình thường nhất chính là thở bụng. Người khỏe thì luôn thở bụng nên thở bụng làm cho ta khỏe. “Bí quyết” nằm ở chỗ đơn giản nhất đó. Các phương pháp khí công, dưỡng sinh, yoga, thiền… đều bắt đầu bằng tập thở bụng. Tại sao phải tập? Bởi không biết tự lúc nào con người lại xa rời cái nguồn gốc tự nhiên của mình, bày ra thở ngực, cũng như thay vì ăn những thức ăn lành mạnh sẵn có trong thiên nhiên thì bày đặt chế biến đủ kiểu cho nó hư đi! Do vậy, thở phải được rèn tập trở lại. Về sinh lý, cơ hô hấp chính của ta là cơ hoành, cơ vắt ngang giữa bụng và ngực chớ không phải cơ gian sườn hay cơ cổ. Khi các cơ gian sườn, cơ cổ mà ráng sức phì phò thì đã bệnh rồi!
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là THỞ. Kinh viết
Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn…”.
Tóm lại, là luôn quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở. Chỉ có vậy. Nhưng khi đọc câu “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra…” có thể gây nhầm lẫn, bởi ai mà chả biết thở cơ chứ! Thế nhưng ở đây không phải là biết thở, mà là nhận thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra kia kìa. Đó mới là điều cốt lõi! Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ), là quán ( quan sát, suy tưởng) về sự thở, về hơi thở. Nhờ đó mà một mặt, ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, một mặt ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống và từ đó, buông bỏ bao nỗi lo toan, sợ hãi của kiếp nhân sinh để có cuộc sống có sức khỏe và hạnh phúc.
Câu hỏi đặt ra là tại sao quán sát hơi thở? Quán sát hơi thở thì có gì hay? Sao lại không chọn các đối tượng khác để quán sát? Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp- nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp- nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy “ngũ uẩn giai không” hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy “vô ngã” thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở là tốt nhất, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó theo dõi, hoàn toàn ngoài ý muốn, khó can thiệp. Dạ dày thì làm vịệc âm thầm, khó quan sát. Các bộ phận khác cũng vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta mệt “bỡ hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe, ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta. Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quan sát thở, ta còn có dịp đào sâu xuống…vô thức. Ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Để ý một chút ta sẽ thấy đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít mạnh không khí vào phổi để rồi khi lìa đời, cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những gì mình đã vay mượn! Giữa hai lần thở vào thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ lăn tăn đó lại với nhau ta có cuộc rong chơi trong cõi “Ta bà”! Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Quán sát hơi thở do đó ta thấy đựơc sự sinh diệt.
Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán sát sự thở của mình thấy nó phập phều kỳ cục, tức cười, bèn quên giận mà hơi thở được điều hoà trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói khác đi, ta có thể dùng cách quán sát hơi thở để tự kiểm sóat cảm xúc và hành vi của mình. Quán sát hơi thở cũng lôi kéo ta trở về hiện tại tức khắc- không còn đắm mình trong dĩ vãng hay tương lai. Bởi vì thở là thở trong hiện tại. Ở đây và bây giờ.
Giận dữ , lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức! Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc!Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khóai đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể. Một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả, phải chăng đó chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt?).
Phổi ta như một cái máy bơm, “phình xẹp” để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi và các phế nang, cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, áp suất bằng không (0=zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Đó chính là quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tịnh, vì không hề tốn năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có nghĩa là trước và Ana là thở vào ( trước thì thở vào cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga, khí công, cũng như y học Đông phương nói chung đã nói đến Prana từ thời cổ đại. Trong yoga có “pranayama” là kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không còn phải là vấn đề kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở sẽ tự kiểm soát! Đến một lúc nào đó, khi vào sâu trong thiền định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Có thể nói đến một phương pháp thiền tập- tạm gọi là “Pranasati” chăng?- tức đặt “niệm” vào quãng lặng, và thực chất cũng không còn cả niệm, một sự “vô niệm” hoàn toàn chăng? Những hành giả giàu kinh nghiệm (thiện xảo) cho biết có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà khoảng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người… Tiến trình hô hấp vẫn diễn ra, sâu trong các tế bào, nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ nhàng nhất, tiêu thụ năng lượng tối thiểu và do vậy nhu cầu sản xuất năng lượng không còn đòi hỏi nữa, các tế bào ở trong trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng, “nghỉ ngơi”!
Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến ngồi: ngồi thiền. Rồi nào kiết già, bán già, hết sức phức tạp và bí hiểm như chỉ dành riêng cho một giới nào đó. Thiền thực ra không nhất thiết phải ngồi, không nhất thiết phải kiết già, bán già. Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được. Người Nhật, người Tây Tạng có cách “ngồi” thiền riêng của họ, người Tây phương có cách khác hơn, miễn sao có một tư thế thoải mái, dễ chịu là được. Thế nhưng cách ngồi tréo chân (kiết già, bán già) lại có lợi ích hơn cả. Tại sao? Tại vì khi ta đứng, ta đi, các bắp cơ phía trước của hai chân phải co lại để nâng đỡ cả thân mình, trong khi các bắp cơ phía sau thì duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân ta đã làm cho hoạt động các bắp cơ đổi chiều. Đây là phương pháp “đối chứng trị liệu”. Khi đi bộ lâu, mỏi chân, ta ngồi xuống, xếp bằng và hít thở một lúc sẽ thấy hai chân bớt mỏi rất nhanh. Cơ nào đã duỗi lâu thì được co lại, cơ nào đã co lâu thì được duỗi ra! Thiền hay yoga do vậy khai thác kỹ thuật này để trị liệu rất có hiệu quả sự mỏi mệt, không kể ngồi theo cách này cũng giúp làm giảm sự tiêu thụ oxy đáng kể!
Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong thiền. Ta dễ có khuynh hướng chiều theo độ cong tự nhiên của cột sống dưới sức nặng của thân thể do trọng lực- và nhất là do tuổi tác- dễ dẫn đến cong vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Ở tuổi trung niên nhiều người đã bị những cơn đau dữ dội đến phát khóc. Đó là những cơn đau cấp tính, nếu nghỉ ngơi hoàn toàn và uống thuốc theo toa bác sĩ chừng mươi ngày sẽ khỏi, nhưng không khỏi hẳn, dễ tái phát do tư thế chưa được điều chỉnh. Bởi nguồn gốc sâu xa hơn của đau cột sống, đau thắt lưng lại là do stress, nếp sống căng thẳng phải chịu đựng, dồn nén lâu ngày. Cơn đau là tiếng chuông báo động để ta “tỉnh ngộ”! Một người cúi gầm suốt ngày trước máy vi tính hay tivi thì sớm muộn cũng bị những hội chứng về cột sống. Một người đi chùa lạy Phật mà tư thế không đúng thì lâu ngày cũng bị đau cột sống như vậy! Nhất là khi đã có tuổi, cột sống có khuynh hướng cứng lại, mất đàn hồi, các lớp sụn độn giữa hai đốt sống dễ bị bẹp, có khi “xì” ra một bên, chèn ép gây đau. Do vậy, giữ lưng thẳng đứng trong lúc ngồi thiền là điều cần thiết. Kết hợp với tập thể dụng bụng, có nghĩa là tập cho thắt lưng được dẻo dai, cũng sẽ làm chậm tiến trình lão hóa.
Trong thiền, một yếu tố rất quyết định nữa là sự thả lỏng toàn thân, “buông xả” toàn thân, mà có người ví như thả trôi theo dòng nước. Thả lỏng toàn thân là cách làm cho toàn thân như rủ xuống, xẹp xuống, bình bồng, không còn căng cứng nữa! Có thể nói cơ thể ta như chỉ gồm có hai thành phần: “thân xác” và “thân hơi”. Thả lỏng là “xì” cho xẹp cái thân hơi đó- mà tiếng Việt ta có một từ rất hay là “xả hơi”! Khi quá mệt, quá căng thẳng thì ta cần “xả hơi”! Khi đó, không một bộ phận nào của cơ thể còn phải căng nữa, phải gồng nữa, kể cả vỏ não. Tiêu hao năng lượng cho trương lực cơ ( tonus musculaire) và hoạt động của vỏ não sẽ giảm thấp nhất có thể được. Y học chứng minh tiêu hao năng lượng trong thiền rất thấp, dưới mức chuyển hóa cơ bản, thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy mà năng lượng được tích lũy tốt hơn, giúp chữa nhiều thứ bệnh hoạn một cách hiệu quả.
Cơ thể ta có khoảng trăm ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một “sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ oxy ( để kết hợp với thức ăn qua những phản ứng gọi là oxyt-hóa) nhằm tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động. Nhưng oxyt-hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và các chất… bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, mau già nua! Giống như một thanh sắt để ngoài nắng gió một thời gian sẽ bị oxyt-hóa thành rỉ sét ngay. Khi cơ thể có cách nào làm giảm tiêu thụ năng lượng không cần thiết thì các tế bào cũng sẽ được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.
Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn (bột, đạm, dầu mỡ)… vốn là nguồn tạo năng lượng! Ăn ít mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu trên sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn!
Các nghiên cứu y sinh học cho thấy các nhà sư có thể làm giảm nhu cầu oxygen đến 40% trong lúc thiền. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ thiền chắc cũng giống như ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng thật ra khác hẳn! Thiền khoảng 30-40 phút thì mức lactate trong động mạch giảm, phenylalanine tăng 20%, giảm các họat động hệ giao cảm trên bề mặt da, giảm nhịp tim và hô hấp đáng kể.
Cortisol và ACTH cũng giảm, do đó, không bị stress; trong khi Arginine và Vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ gia tăng đáng kể. Nhiều nghiên cứu ngày càng sâu hơn về beta-endorphin, corticotropin, melatonin, DHEA… hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của thiền trên nhiều mặt… trong tương lai.
Những năm gần đây, nhờ có các phương tiện như PET (positron emission tomography) hay SPECT (single photon emission tomography) và fMRI (functional magnetic resonance imaging) để đo hoạt động tưới máu não, cho thấy một số vùng được tưới nhiều hơn vùng khác, chứng minh thiền khác với giấc ngủ, mà đó là một trạng thái tỉnh giác an tịnh (state of restful alertness). Kỹ thuật fMRI cho thấy hoạt động tưới máu não gia tăng ở vùng liên quan đến sự chú ý (vùng lateral prefrontal và parietal), cũng như gia tăng ở vùng kiểm soát tự động, tỉnh thức (pregenual anterior angulate, amygdala, midbrain và hypothalamus). Nhưng nói chung, tưới máu não trong thời gian thiền rõ ràng là giảm một cách đáng kể, chỉ tập trung vào một số vùng nhất định như đã nêu trên. Điều này cho thấy thiền giả không tiêu hao nhiều năng lựơng cho các hoạt động vỏ não.
Các nghiên cứu về sinh lý học trong thiền vẫn còn đang tiếp tục nhưng rõ ràng thiền có khả năng làm giảm stress, giảm huyết áp và tạo sự sảng khoái, là yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống. Thiền ngày càng trở nên một kỹ thuật trị liệu hiệu quả trong y sinh học, nhất là lĩnh vực tâm lý trị liệu, nên đã có nhiều ứng dụng thực tiễn trong y khoa.
Nghiên cứu về lâm sàng cho thấy thiền giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân, giảm lo âu, trầm cảm, giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung. Người hành thiền hơn 5 năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi, dựa trên 3 yếu tố là huyết áp, khả năng điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng phân biệt của thính giác. Học sinh cấp 2 có thực tập thiền trên 2 tháng, có kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, thói quen làm việc, cải thiện hành vi (giảm xung đột, hung hăng), tự tin hơn, có khả năng hợp tác và quan hệ tốt hơn với người khác. Thiền giúp làm giảm cân, giảm béo phì, giảm nghiện thuốc lá, rượu, các chất ma túy nói chung.
Bầu khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700 triệu năm – tức là khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái đất- thì cũng chẳng khác biệt! Với người anh em đơn bào đó thì ta cũng đang cùng hút chung một bầu khí, cùng bú chung một “núm vú” vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa! Các sinh vật cùng chia sẻ một cách…bình đẳng, không phân biệt và theo nhu cầu như vậy. Ta hút lấy oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic lại tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương… cũng phình ra xẹp vào như ta vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt. Nhưng chính con người có thể làm hại môi trường sống của mình mà không hay nếu cứ theo đà hủy diệt sự sống của thiên nhiên và muôn loài trên hành tinh xanh này!
Hãy nương tựa chính mình. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?




 


Cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã: Đồng minh bội ước

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
 Files photos
Cuộc chiến ý thức hệ quốc-cộng ở Việt Nam kết thúc ngày 30/4/1975 với sự chiến thắng của miền bắc cộng sản. Tại sao chế độ VNCH đã đứng vững 21 năm lại nhanh chóng sụp đổ như vậy. Nhân đánh dấu 40 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nam Nguyên phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã, cựu tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi, cựu bí thư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để tìm hiểu một số khía cạnh liên quan. Ông Hoàng Đức Nhã 73 tuổi hiện cư trú tại Chicago tiểu bang Illinois Hoa Kỳ.
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã đồng ý trả lời phỏng vấn  của Đài RFA. Thưa ông sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, nhiều tài liệu của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật cho thấy Hoa Kỳ đã có ý định không can thiệp vào VNCH nữa từ rất sớm và có mục đích chỉ là để rút lui an toàn. Là người thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông nhận định gì khi có ý kiến cho là các nhà lãnh đạo và toàn bộ chế độ VNCH bị động, không chuẩn bị việc tự lực cánh sinh hay phải sớm tìm kiếm một con đường khác để VNCH có thể tồn tại.
Ông Hoàng Đức Nhã: Chính quyền của Tổng thống Thiệu lúc đó hiểu rõ mục đích của Tổng thống Nixon, khi ông ta bắt đầu chính sách gọi là “Việt Nam hóa” có nghĩa là Hoa Kỳ rút và hứa sẽ giúp VNCH trên phương diện quân sự và kinh tế để bảo tồn toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước. Nói chính quyền VNCH lúc đó bị động là hoàn toàn sai, vì mình đã có rất nhiều thành quả. Những người viết sách về Việt Nam không hề đề cập tới khía cạnh này, Đệ nhị Cộng hòa một mặt chống lại xâm lăng Bắc Việt, một mặt xây dựng đất nước, tạo dựng một chế độ pháp trị có quyền tự do cá nhân. Khi tôi đề cập điểm đó cũng là để nói lên là khi chúng ta chống Bắc việt và người đồng minh dần dần rút đi, họ tìm cách thương thuyết và ký kết một hiệp định trên đầu chúng ta, cũng như người Pháp đã làm hồi 1954… lúc đó chính quyền Đệ nhị Cộng hòa quyết định ngồi vào và tìm đủ mọi cách để tạo những điều kiện tối thiểu để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu để bảo vệ và phát triển đất nước.
Nam Nguyên: Nhưng VNCH không còn nguồn viện trợ nữa, đạn dược vào tháng 3/1975 như Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên có nói là chỉ còn đủ dùng 30 ngày. Tại nhiều bệnh viện vào lúc đó đến bông băng cũng phải giặt đi xài lại…không có viện trợ…người ta nói bị động là không tìm nguồn viện trợ thay thế mà phải chuẩn bị rất là lâu dài mới có thể đương cự được với làn sóng quân cộng sản được Liên Xô, Trung Cộng hỗ trợ rất nhiều và họ đã đánh xuống. Họ nói bị động là như vậy, xin ông có thể làm rõ chỗ này?
"Tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước."
Ông Hoàng Đức Nhã
Ông Hoàng Đức Nhã: Khi mà chúng ta biết Hoa Kỳ đã rút lui, người đồng minh chính đã tài trợ cho chúng ta và giúp chúng ta rất nhiều. Khi VNCH thấy cần thêm, mình đã gởi mấy phái đoàn đi cầu viện ở mấy quốc gia khác, nhưng không có quốc gia nào thậm chí đến mấy quốc gia Đông Nam Á chỉ nói bằng miệng thôi, không bao giờ cho viện trợ quân sự, viện trợ kinh tế không có bao nhiêu, trong khi Liên Xô Trung Cộng giúp đỡ Bắc Việt tích cực. Đó là một thực trạng mà chính quyền VNCH phải đối phó. Ngay cả đối với Hoa Kỳ lúc đó mình biết là không còn sự viện trợ như mấy năm trước. Chúng ta cũng đã đề nghị xin vay, nhưng lúc đó người Hoa Kỳ nhất là chính quyền Nixon bị bối rối và Quốc Hội dưới quyền kiểm soát của Đảng Dân Chủ muốn tránh, muốn chấm dứt các đợt viện trợ.
Nam Nguyên: Hiệp định Paris 27/1/1973 được cho là một tiền đề dẫn tới việc sụp đổ của Nam Việt Nam. Theo ông và trong vai trò của mình là người thân cận của Tổng thống, Bí thư Tổng thống và cựu Tổng trưởng nữa thì ông nghĩ là VNCH sẽ phải đối phó như thế nào, chúng ta đã rút được bài học vừa qua. Tổng thống cũng có nói vào năm 1990 là vì bị lệ thuộc viện trợ mà cuối cùng phải ngồi vào bàn hội đàm. Giả dụ bây giờ lịch sử lập lại, ông nghĩ là VNCH có thể làm gì khác?
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Nixon năm 1973
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Nixon năm 1973

Ông Hoàng Đức Nhã: Câu hỏi này rất quan trọng đấy, tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Giả sử mình trong hoàn cảnh lúc đó từ 69 đến 73 và phải ký Hiệp định, thì sẽ phải làm như thế nào? lúc đó mình đâu có thể nào nói với đồng minh là ông tìm cách thương thuyết trên đầu của chúng tôi. Mình đâu thể nói vậy, cũng như anh ra trận đá banh rồi anh nói thôi tôi không chơi nữa vì không thích cái luật lệ, rồi mình lấy trái banh và đi về. Mình phải tiếp tục ngồi vào và tranh đấu để đừng có những điều kiện quá xấu cho tương lai đất nước.  Thành thử lúc đó hành động của chính phủ VNCH, với sự hỗ trợ của tất cả cơ quan lập pháp hiến định, đã tìm mọi cách để đừng có chấp nhận một hiệp định coi như là đầu hàng.
Nói rằng mình sẽ phải làm như thế nào khác. Lúc đó mình biết rằng phải tự lực cánh sinh, phải củng cố. Lúc đó biết rằng tới giai đoạn phải đấu tranh chính trị với cộng sản để thực thi hiệp định, nó có những điều khoản là hai bên phải gặp nhau để nói về tương lai chính trị. Lúc đó VNCH cũng đã cho tất cả các đảng phái quốc gia biết thực trạng đó để chuẩn bị. Đó là điểm thứ hai riêng về chính trị. Điểm thứ ba về xây dựng kinh tế và xây dựng đất nước, mình có rất nhiều chương trình phát triển nông thôn có nhiều thành quả dân trí ấm no phồn thịnh. Nhưng mà những điều đó không ai nói đến, người ta cứ nhìn vấn đề Việt Nam và cho là mình không có làm gì cả, theo tôi đó là sự sai lầm lớn.
"Có thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tin."
Ông Hoàng Đức Nhã
Nam Nguyên: Nhưng thưa ông thực trạng lúc đó là không có tiền nữa, không có tiềm lực kinh tế, quân sự súng đạn không có nữa. Ngay Tổng thống lúc đó cũng nhìn nhận là viện trợ giảm đi rất nhanh và rồi thì những mật ước của Tổng thống Nixon… nó chỉ là mật ước trên phương diện pháp lý không có giá trị, có thể nói cũng chỉ là để đánh lừa thôi?
Ông Hoàng Đức Nhã: Cái thực trạng lúc đó là một người đồng minh sau khi hứa mà bội hứa, mình không thể thay đổi thực trạng đó được. Như tôi đã nói mình đã gởi các phái đoàn đi cầu viện các quốc gia khác, thậm chí đến các nước Trung Đông như là vương quốc Saudi Arabia chẳng hạn. Tuy nhiên cái việc có thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tin. Nhưng mà sau này các tài liệu giải mật cho thấy là vì Hiệp định Paris không được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn nên Quốc hội không bị ràng buộc theo điều khoản của Hiệp định. Đó là thực trạng mà mình không thay đổi được và VNCH tiếp tục chiến đấu đến khi không còn súng đạn.
Nam Nguyên: 40 năm sau khi chấm dứt chiến tranh, ông nghĩ gì về nước Việt Nam hiện tại và khả năng về con đường dân chủ sắp tới?
Ông Hoàng Đức Nhã: Tôi không có hy vọng chế độ cộng sản ở Việt Nam thực thi nền dân chủ đúng như ý nghĩa của chữ dân chủ. Thứ nhất khi mà độc đảng thì làm sao mà có dân chủ được. Điểm thứ nhì, tự do căn bản của con người không được tôn trọng và điểm thứ ba, hố sâu giữa người giàu giữa con ông cháu cha của chế độ và người nghèo nó quá sâu.  Từ 1975 tới giờ tôi chưa về Việt Nam nên không có những dữ kiện chính xác. Tuy nhiên bao nhiêu thống kê của ngân hàng quốc tế, những cơ quan quốc tế cho thấy rõ sự xung đột giữa mức sống và sự phát triển cần thiết của nhân dân mà theo tôi là chưa có được. Dĩ nhiên khi chưa có dân chủ thì không thể san bằng hố sâu giàu nghèo. Cá nhân tôi không thấy dân chủ trong tương lai, ít nhất trong cuộc đời của tôi.
Nam Nguyên: Thưa ông nhiều người đã viết hồi ký, thí dụ ông Nguyễn Tiến Hưng. Về phần ông cũng là một nhân vật của lịch sử, đóng góp rất nhiều vào Đệ nhị Cộng hòa, xin hỏi là ông có định xuất bản hồi ký của mình hay không?
Ông Hoàng Đức Nhã: nói hồi ký thì có vẻ cá nhân quá, tôi đang viết và sẽ xuất bản để nói về cuộc chiến đấu và công cuộc xây dựng dân chủ của Đệ nhị Cộng hòa, trong đó tôi được hân hạnh đóng góp một phần.
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi VNCH, cựu Bí thư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/exclu-interw-vn-formr-minis-04092015061915.html

+++

Blog Archive