Thursday, August 30, 2018

Tin Vn AUGUST 25 - 2018

CUỘC CHIẾN TRUMP – SESSIONS

Trong những vụ án Manafort và Cohen Diễn Đàn này đang bàn, điều lạ lùng nhất là thái độ của bộ trưởng Tư Pháp Jeff Sessions. Ông này ngay từ đầu đã tự ý rút lui ra khỏi việc điều tra can dự của Nga, lấy lý do ông là thượng nghị sĩ đầu tiên ủng hộ ông Trump rất mạnh nên muốn tránh chuyện xung khắc quyền lợi –conflict of interest-, nhưng thực tế là để tránh bị điều tra về việc ông có thể đã có liên lạc với đại sứ Nga. Việc ông tự ý rút lui, không hỏi phép hay tham khảo ý kiến của TT Trump đã đưa đến tình trạng ông thứ trưởng Rod Rosenstein mau mắn biểu diễn quyền hành bằng cách bổ nhiệm ngay ông Mueller làm công tố đặc biệt điều tra về việc Nga can dự vào cuộc bầu tổng thống, với một ‘sự vụ lệnh’ mơ hồ khiến cho tình trạng trở nên rối loạn chẳng ai hiểu sẽ đi về đâu.
 
Câu chuyện biến thái trầm trọng từ điều tra can dự của Nga chạy qua điều tra TT Trump cản trở công lý khi sa thải giám đốc FBI, để rồi bây giờ thành truy cứu việc các phụ tá của tổng thống trốn thuế, việc trả tiền gái điếm, có thể lân la qua các kinh doanh của TT Trump từ ngày ông bắt đầu cơ nghiệp cách đây nửa thế kỷ, bất kể những chuyện chẳng dính dáng xa gần gì đến chuyện Nga can thiệp vào bầu cử tổng thống Mỹ.

Trong tất cả những vụ án này, bộ trưởng Tư Pháp đã im hơi lặng tiếng một cách thật lạ lùng. Khiến cho TT Trump bực mình lên TV đả kích. Ông Sessions đáp lễ ngay là ông “sẽ không để chính trị chi phối công việc của bộ Tư Pháp”. Thật là quái lạ!

Ông bộ trưởng chống mắt nhìn ông tổng thống bị rượt đuổi bởi ông công tố tìm mọi cách bứng ông tổng thống một cách cực kỳ vô lý, chẳng có nguyên do chính đáng nào, ngoài việc moi cho bằng được lý do để lật đổ một tổng thống đã được dân bầu một cách chính danh và hợp Hiến. Một là ông bộ trưởng phải có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ kết quả bầu cử của dân và chấm dứt âm mưu đảo chánh này. Hai là ông bộ trưởng đồng ý với công tố là tổng thống đáng bị đuổi thì phải từ chức ngay.

TT Trump bị kẹt cứng không nhúc nhích được. Ông không thể sa thải ông Sessions được dù có quyền, vì làm vậy là đại họa chính trị mà quốc hội khó đồng ý vài tháng trước ngày bầu quốc hội lại, sẽ phải chống đối, và TT Trump sẽ khó có thể bổ nhiệm bộ trưởng mới, để rồi sẽ phải nhận ông Rosenstein xử lý thường vụ. Nếu phải sa thải luôn ông Rosenstein thì sẽ lập lại sai lầm đưa đến việc TT Nixon bị ép từ chức. TT Trump đã mạt sát ông Sessions với hy vọng ông tự ý từ chức, nhưng ông này ù lỳ nhất định không từ chức.

Tin mới nhất cho biết công tố Mueller đã đề nghị miễn tố mọi tội cho ông Allen Weisselberg, tổng giám đốc Tài Chánh tổ hợp Trump Organization, đổi lấy việc ông này hợp tác khai với ông Mueller về các giao dịch tài chánh của tổ hợp.

Tin này đáng chú ý vì rõ ràng là cuộc điều tra của công tố Mueller đã đi vào tổ chức kinh doanh của TT Trump, và không còn một chút quan hệ nào đến việc can dự của Nga hay sa thải giám đốc FBI nữa.

Điều kẻ này không hiểu nổi là theo luật Mỹ thì như vậy ông Mueller có quyền đi bao xa? Tới đâu là giới hạn của cuộc điều tra? Tới khi tìm ra được một tội nào đó của TT Trump để có thể truy tố và lật đổ ông, cho dù đó là tội thiếu thuế cách đây nửa thế kỷ? Nếu đây không phải là cố gắng để ‘đảo chánh’ thì là gì? Hơn 60 triệu cử tri đã bầu cho ông Trump sẽ nghĩ gì, làm gì? Đây có phải là giọt nước làm tràn ly, là lý do chính đáng để TT Trump sa thải ông Mueller bất chấp hậu quả không?

Những người thù ghét TT Trump dĩ nhiên sẽ vui mừng, nhưng những người lo xa cho thể chế dân chủ và ý nghĩa của cuộc bầu cử tổng thống sẽ đắn đo hơn.

Chính trị Mỹ thật là điên đầu.

CUỘC CHIẾN MẬU DỊCH MỸ-TC TIẾP TỤC

Cuộc chiến tăng thuế quan hàng nhấp cảng Mỹ và Trung Cộng tiếp tục mạnh trong khi đại diện hai nước đang thảo luận tại Hoa Thịnh Đốn.

Kể từ ngày Thứ Năm vừa qua, Mỹ tăng thuế quan lên đến mức 25% trên hàng nhập cảng từ TC tổng cộng trị giá 16 tỷ đô, liên quan đến 279 sản phẩm. Ngay sau đó, TC trả đũa, tăng thuế quan lên mức tương đương trên số hàng nhập cảng từ Mỹ cũng trị giá tương đương, phần lớn là sản phẩm dầu hỏa và hóa chất.

Tổng cộng cả hai bên đã tăng thuế quan trên hàng hóa nhập cảng trị giá 50 tỷ đô. TT Trump đã đe dọa sẽ tăng thuế quan trên hàng TC tới tổng số 200 tỷ đô.

Cuộc chiến này nếu kéo dài sẽ tai hại vô cùng cho TC trong khi ảnh hưởng trên kinh tế Mỹ cũng khá tai hại, nhưng thua xa những thiệt hại của TC. Đó là lý do TC một mặt trả đũa nhanh chóng và tương đương, nhưng mặt khác đã phải gửi một phái đoàn đặc biệt qua Mỹ điều đình.

Ai cũng biết cán cân thương mại Mỹ-TC đã là gánh nặng quá lớn cho kinh tế Mỹ, thất cân bằng tới cả 600 tỷ đô một năm, và tình trạng này không thể tiếp tục lâu dài. Trong cuộc chiến hiện nay, nhiều công ty Mỹ đã thiệt hại nặng, nhưng về lâu về dài, vẫn còn hơn là cả nền kinh tế phải chịu thiệt hại cả ngàn tỷ.

Nhìn vào thị trường chứng khoán hai nước thì biết bên nào thua thiệt. Trong khi Dow Jones vẫn vững mạnh ở mức 25.000-26.000 từ cả nửa năm nay, thì thị trường chứng khoán Thượng Hải, Hồng Kông, Thẩm Quyến,... đã bốc hơi cả ngàn tỷ đô.

TGĐ TARGET CA TỤNG KINH TẾ

Tổng Giám Đốc cửa hàng Target, ông Brian Cornell đã tuyên bố chi tiêu của dân trên hàng tiêu thụ -consumer spending- chưa bao giờ mạnh như bây giờ, có thể nói là mạnh nhất mà ông được thấy trong suốt cuộc đời kinh doanh của ông.

Số bán của Target trong tam cá nguyệt 2 đã gia tăng đồng loạt so với con số cùng kỳ năm ngoái, cho dù đang phải cạnh tranh sống chết với Amazon là công ty bán hàng qua trang mạng.

Không phải chỉ có Target không, mà các cửa hàng lớn như Kohl, Nordstrom, Macy cũng đều cho thấy số bán tăng mạnh đồng loạt.

Thành quả kinh tế này của chính quyền Trump là một nhức đầu vĩ đại cho đảng DC không biết phải giải thích làm sao cho cử tri việc kinh tế đang phát mạnh. Chỉ còn cách lái qua những việc dấm dớ như cuộc điều tra cùa ông Mueller, việc các ông Manafort và Cohen bị ra tòa, việc Trump kỳ thị nói chung,...


GIÁO SƯ ĐẠI HỌC CHỐNG TRUMP

Hơn bốn chục giáo sư những đại học cấp tiến nhất nước như Harvard, Princeton, Berkeley,... đã là ‘đồng tác giả’ một bài xã luận đăng trên báo cấp tiến New York Times, lên án chính sách ngoại giao của TT Trump. Giáo sư đại học cấp tiến chống TT Trump chẳng có gì lạ.

Họ muốn gì? Muốn trở lại tình trạng nước Mỹ ‘lãnh đạo từ phiá sau lưng’? Xin lỗi cả thế giới và tổng thống Mỹ gặp quốc trưởng các nước khác là phải khúm núm cúi gập người trịnh trọng vái lạy? Mỹ tiếp tục chi bạc ngàn tỷ làm cảnh sát bảo vệ cả thế giới trong khi cả thế giới phè phỡn chửi Mỹ dưới cái dù an ninh Mỹ? Bắc Hàn tiếp tục thử bom và hỏa tiễn trong khi Mỹ yên lặng ngồi cầu Chúa khấn Phật? Có phải đó mới là chính sách ngoại giao mà họ hoan nghênh không?

Trước khi các cụ tỵ nạn hồ hởi tung hô đám giáo sư này, xin các cụ nhớ lại dùm trong thời chiến tranh chống CSBV của chúng ta, các trường đại học này đã từng là những ‘mật khu’ của VC tại Mỹ và đám giáo sư này cùng với đám sinh viên của họ chính là những du kích quân VC nằm vùng tại Mỹ, suốt ngày mang cờ máu xuống đường la hét “Ho, Ho, Hochiminh”!

Các cụ thấy có nên tung hô chúng không? Hay là ta phải cám ơn chúng vì nhờ chúng giúp nên ta mới được cái ‘may mắn’ di tản qua Mỹ thành công dân Mỹ?

CHUYỆN DIỄU CỦA DÂN BIỂU DC

Dân biểu da đen Alcee Hastings của đảng DC tại Florida mới đây trong một cuộc nói chuyện với cử tri, đã đưa một câu chuyện diễu ra để mở màn.

Ông đố cử tri biết sự khác biệt giữa một khủng hoảng –crisis- và một đại họa -catastrophe-. Câu trả lời của ông: “Khủng hoảng là khi nào Trump bị rớt xuống sông Potomac [sông ở Washington DC] mà không biết lội. Và đại họa là có người cứu ông ta lên”.

 
Câu chuyện diễu vô ý thức này nói lên sự ấm ức tột cùng của phe cấp tiến. Thua đau, thua đậm, mỗi ngày mỗi thua thêm, chẳng làm gì được, chỉ còn cầu mong thiên thần hay ma qủy giúp giết Trump thôi.

Kẻ này dám bảo đảm ông dân biểu này không phải là người duy nhất mơ mộng chuyện hắc ám này. Không ít dân cấp tiến cũng vậy thôi.

Xin chia buồn cùng những vị đó: hy vọng TT Trump chết đuối dưới sông Potomac coi như có xác xuất đúng.. 0,0000%, bất kể quý vị vái ông thần bà thánh nào. Chỉ có một cách duy nhất để quý vị bớt ấm ức, sống thọ thêm vài năm thôi: quên chính trị đi, về nhà chơi với các cháu nội ngoại cho khỏe.

Đây cũng là lời khuyên gửi đến các cụ tỵ nạn Việt luôn.

DÂN NAM HÀN GẶP LẠI THÂN NHÂN

Khoảng 330 người dân Nam Hàn trong 89 gia đình, phần lớn rất già yếu, ngồi xe lăn, đã được chở đến một thành phố Bắc Hàn để gặp lại khoảng 185 bà con thân nhân còn ở lại Bắc Hàn, sau hơn 65 năm chia cách.

Trẻ nhất cũng khoảng thất thập, trong khi người già nhất đã 99 tuổi. Đây là cuộc hội ngộ đầu tiên từ hơn ba năm nay, sau khi TT Nam Hàn và Chủ Tịch Bắc Hàn đã đồng ý cho dân hai vùng được gặp lại nhau.

Đây cũng là một bước tiến nữa trong việc tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc chiến Nam-Bắc Triều Tiên mà cho đến nay vẫn chưa chính thức chấm dứt. Cũng là một nhượng bộ nữa của Cậu Ấm Ủn.

Cho đến nay Cậu Ấm đã ngưng thử nghiệm bom hay hỏa tiễn nguyên tử được 9 tháng rồi, đồng thời Cậu cũng đã trả tự do cho ba công dân Mỹ gốc Nam Hàn bị tù khổ sai tại BH, và tiếp tục cuộc đàm phán kín trong hậu trường với Mỹ. Trong khi Mỹ chưa hề tháo gỡ bất cứ biện pháp trừng phạt kinh tế nào đối với BH.

Phe chống Trump cố tình khỏa lấp những tiến bộ này và tiếp tục tố cáo TT Trump bị Cậu Ấm lừa và đã thất bại hoàn toàn.

Những người không muốn nhìn thấy gì thì chỉ cần nhắm mắt là không nhìn thấy gì hết, quá dễ thôi.


TTDC GIAN TRÁ

Câu chuyện cô Mollie Tibbetts bị thảm sát, vứt xác tại một cánh đồng tại tiểu bang Iowa, nhiều người đã biết. Sau mấy ngày điều tra, cảnh sát Iowa đã bắt được một người tình nghi là thủ phạm. Anh này đã nhận tội tuy chưa ra tòa vì còn nhiều khúc mắc mà cảnh sát đang điều tra thêm.

Anh ta tên là Cristhian Bahena Rivera, 24 tuổi, di dân lậu gốc Mễ, đã bị bắt.
Tất cả báo cáo của cảnh sát đều ghi rõ anh này là di dân bất hợp pháp, ở lậu đã ít nhất 4 năm, không có giấy tờ di trú hợp lệ.

Thế nhưng báo New York Times loan tin với cái tít rất... ‘ý nghĩa’: “Di dân bị bắt vì tình nghi là thủ phạm giết Mollie Tibbetts”.

Quý vị có để ý thấy chuyện gì không? Đó là việc NYT cố tình không đăng kèm theo cái chữ ‘illegal’ hay ngay cả ‘undocumented’. Vẫn là cái ý đồ mờ ám muốn lập lờ đánh lận con đen cố hữu của TTDC thôi.

Không phải chỉ là NYT không đâu. Cả CNN cũng vậy, loan tin mà ‘quên’ kèm theo cái chữ ‘illegal’.

Được hỏi về vụ này, TNS Elizabeth Warrens, chuẩn ứng cử viên tổng thống năm 2020 của đảng DC, phớt lờ, lái qua chuyện TT Trump phạm tội chia cách gia đình di dân lậu. Chỉ khiến bà thượng nghị sĩ Iowa Joni Ernst nhắc khéo tên di dân lậu này đã chia cách cô Tibbetts khỏi gia đình của cô một cách vĩnh viễn.

CỤ TỴ NẠN VÀ OBAMA

Có một cụ tỵ nạn gọi TT Obama là tổng thống “hiền hòa, yêu chuộng hòa bình”. Đây không phải loại ‘Tin Vắn’ đáng đăng, nhưng vì tính ‘lạ lùng’ của nhận xét này, nên Diễn Đàn bàn qua cho vui, gọi là ‘thay đổi không khí’, tìm hiểu về quan điểm của các cụ tỵ nạn.

Cái câu “yêu chuộng hòa bình” dường như là một thứ huân chương của CS ngày xưa gắn lên ngực những tay ‘phản chiến’ thân cộng chống lại việc Mỹ giúp miền Nam chống đỡ xâm lăng của CSBV, bây giờ được mang ra xài để đeo lên cổ Obama, thật là thích hợp, xứng đáng.

TT Obama được giải Nobel Hòa Bình mà, đúng không? Hình như Lê Đức Thọ và Kissinger cũng được Nobel Hòa Bình, phải không? Ba đồng chí ngủ chung giường?

Hiền hòa? Có thật là TT Obama “hiền hòa” không?

Hiền hòa đi giết Khaddafi biến Libya thành một Somalia thứ hai, giết nhau loạn đả cả vạn người chết từ cả chục năm nay, đến cả đại sứ Mỹ cũng bị giết, đẩy cả vạn người khác vượt biển qua Âu Châu, chết chẳng biết bao nhiêu?

Hiền hòa nhìn ISIS từ một “đội bóng rổ trung học” biến thành một lực lượng khủng bố chiếm một nửa Iraq và một nửa Syria, cắt cổ hàng vạn người, đẩy cả triệu người dân Trung Đông chạy qua Âu Châu tỵ nạn?

Hiền hòa tặng các giáo chủ Iran cả tỷ đô đổi lấy một lời hứa của Iran không chạy đua võ trang nguyên tử mà chẳng ai kiểm soát được gì hết.

Hiền hòa nhìn Bắc Hàn tha hồ thử bom và hỏa tiễn trong suốt 8 năm trời.

Hiền hòa chống mắt nhìn cái lưỡi bò Trung Cộng liếm cả Đông Nam Á
.
Hiền hòa hay ngu muội?
Tuyệt vời sắc màu của ruộng muối ở San Francisco

Nếu có dịp bay qua vịnh San Francisco, bạn đừng quên nhìn qua cửa kính để ngắm một trong những cảnh tuyệt đẹp nhất thế giới. 

Vịnh San Francisco là một bờ vịnh bao bọc các thành phố: San Francisco, Oakland và San Jose. Nơi đây có rất nhiều hồ muối nhân tạo, cung cấp cho nền công nghiệp sản xuất muối ở Mỹ.
Ngoài tác dụng cung cấp muối, những ruộng muối nhân tạo của San Francisco còn trở thành điểm hút du lịch nổi tiếng. Với đủ màu sắc từ tím hồng, xanh, đỏ, cam, vàng… những ruộng muối này trông tựa như thảm hoa rực rỡ vào mùa xuân.
Những mảng màu tươi sáng được hình thành bởi những hồ muối nhân tạo. Sở dĩ các hồ muối có màu sắc như một bảng pha màu của họa sĩ là nhờ một loạt các ảnh hưởng của phức hợp của hệ sinh thái. Muối trong hồ có rất nhiều màu, từ màu xanh nhạt tới màu hồng đậm như san hô, tùy theo độ mặn và sắc màu của vi sinh trong hồ. Ở mức độ ngập mặn thấp, các hồ muối ngả màu xanh nhạt.
Khi lượng muối tăng lên, các vi sinh trong hồ phản ứng và chuyển màu thành những màu xanh nhạt hơn. Tùy theo mức độ mặn, màu sắc cũng sẽ chuyển độ sang đỏ, tím… đẹp lung linh như một bức tranh kính. Những loài vi sinh này cũng thay đổi màu sắc tùy theo môi trường. Màu da cam là đặc trưng của những vô số chú tôm nhỏ đổi sắc, nhất là vào mùa xuân..
Bạn sẽ không thể tin những thảm hoa đầy màu sắc này là sắc màu của muối?
Vị trí cánh đồng Muối ..7380 Morton Ave.Neward <Ca 94560.
Không ảnh cánh đồng Muối......
Bảng đối chiếu từ ngữ Việt Nam & Việt Cộng


Lời người giới thiệu:

- Có những từ ngữ của miền Nam và miền Bắc trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 viết và cách dùng giống nhau; nhưng đồng thời cũng có rất nhiều chữ viết giống y như nhau nhưng ý nghĩa (hoàn toàn khác biệt) dễ dàng gây “hoang mang” (confused) nếu người đọc (hoặc người nghe) không biết trước.
- Ở Việt Nam sau 1975, vì nhiều lý do, một số từ ngữ của miền Nam (VNCH) đã bị thay thế hẳn. Tuy nhiên văn hóa và truyền thông của cộng đồng người Việt ty nạn CS ở hải ngoại vẫn tiếp tục duy trì các từ ngữ VNCH.

- Đã có một số tác gia hiện đang sống ở hải ngọai viết về vấn đề gọi là “cái chết của ngôn ngữ Sài gòn cũ.” Cá nhân tôi không đồng ý với quan điểm là tiếng Sài Gòn cũ (VNCH) đã hoặc sẽ chết. Thực tế cho thấy dân số ty nạn CS tại hải ngọai gần 3 triệu người hàng ngày vẫn dùng và bảo tồn chữ Sài gòn cũ trong gia đình, trong các buổi thánh lễ ở nhà thờ, trong kinh sách vào những buổi lễ thuyết pháp Phật giáo, trong các sinh họat thiếu nhi thánh thể cũng như gia đình phật tử… Hiển nhiên chữ Sài Gòn cũ luôn luôn có sẵn và không hề thiếu thì hà cớ gì chúng ta phải dùng đến chữ của Vi-Ci (VC) (riêng sự việc người dân Việt đang sống trong trong nước phải dùng từ ngữ CS trong mọi liên lạc, văn hóa là chuyện cũng dể hiểu thôi...)

- Người Do thái sau khi tan hàng ở Palestine vì có thể bị diệt chủng (bởi áp lực của Hồi giáo và dân Ả rập) cả chục thế kỷ rồi. Họ cũng sống lưu vong khắp nơi trên thế giới giống như dân Việt ty nạn CS; Vậy mà khi vừa mới tái lập quốc gia Do thái ở khoảng năm 1950 là họ đã khai sinh ngay trở lại một tử ngữ (dead language) của họ, tiếng Hebrew, thành một sinh ngữ (living language). Với cái đà xuống dốc tệ hại của chủ nghĩa CS hiện nay ở Việt Nam thì cơ hội phục hưng của người quốc gia và sự trở lại tiếng Sài Gòn cũ không phải chỉ có trong ước mơ. Bây giờ chúng ta cứ vô tình dùng chữ ngây ngô của VC thi chẳng khác gì như vô hình chung chúng ta chấp nhận CS (tương tự như trang điện báo của đảng CSVN hoan hỉ phổ biến sự thao dượt hải quân của Trung cộng trên quần đảo trường sa và Hoàng sa của Việt Nam).

- Tôi cố gắng thu góp lại, từ nhiều bài viết của nhiều tác giả và từ kinh nghiệm cá nhân, một số từ ngữ (của VC và VNCH) thuộc lọai “dễ dàng gây hoang mang” này và tạm xếp vào một bảng đối chiếu dưới đây để quí vị rộng đường tham khảo; tùy ý sử dụng; và để may ra giúp quí vị tránh các trường hợp đáng tiếc (bị đồng bào chung quanh hiểu lầm “địa chỉ” của mình).

Bản Đối Chiếu



TỪ NGỮ Việt Cộng & TỪ NGỮ Việt Nam Cộng Hòa


Ấn tượng = Đáng ghi nhớ, đáng nhớ


Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ = Bắc phần / Trung phần / Nam phần

Bác sỹ / Ca sỹ = Bác sĩ / Ca sĩ

Bài nói = Diễn văn

Bang = Tiểu bang (State) (Vịt + nói chuyên trơ trẽn)

Báo cáo = Thưa trình, nói, kể

Bảo hiểm (mũ) = An toàn (mũ)

Bảo quản = Che chở, giữ gìn, bảo vệ

Bắt mắt = Đẹp mắt, Ưa nhìn, Hấp dẫn

Bất ngờ = Ngạc nhiên (surprised)

Bèo = Rẻ (tiền)

Bị (đẹp) = Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)

Bình ổn = Quân bình, ổn định

Bổ sung = Thêm, bổ túc

Bồi dưỡng (hối lộ?) = Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ

Bóng đá = Đá Banh, Túc cầu

Bức xúc = Dồn nén, bực tức


Cách ly = Cô lập

Cái A-lô = Cái điện thọai (telephone receiver)

Cái đài = Radio, máy phát thanh

Căn hộ = Căn nhà

Căng (lắm) = Căng thẳng (intense)

Cảnh báo = Báo động, phải chú ý

Cầu lông = Vũ cầu

Chảnh = Kiêu ngạo, làm tàng

Chất lượng = Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)

Chất xám = Trí tuệ, sự thông minh

Chế độ = Quy chế

Chỉ đạo = Chỉ thị, ra lệnh

Chỉ tiêu = Định suất

Chiêu đãi = Thiết đãi

Chủ đạo = Chính

Chủ nhiệm = Trưởng ban, Khoa trưởng

Chủ trì = Chủ tọa

Chữa cháy = Cứu hỏa 

Chui = Lén lút

Chứng minh nhân dân = Thẻ Căn cuớc

Chuyên chở = Nói lên, nêu ra

Chuyển ngữ = Dịch

Cơ bản = Căn bản

Co cụm = Thu hẹp

Cơ khí (tĩnh từ!) = Cầu kỳ, phức tạp

Cơ sở = Căn bản, nguồn gốc

Công đoàn = Nghiệp đoàn

Công nghiệp = Kỹ nghệ

Công trình = Công tác

Cửa khẩu = Phi cảng, Hải cảng

Cụm từ = Nhóm chữ

Cứu hộ = Cứu cấp



Đại học mở = ???

Đại táo / Tiểu táo = Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình

Đại trà = Quy mô

Đại trà = Quy mô, cỡ lớn

Đảm bảo = Bảo đảm

Đẳng cấp = Giai cấp 

Đăng ký = Ghi danh, ghi tên

Đào tị = Tị nạn

Đáp án = Câu trả lời, Đáp số 

Đáp án = Kết quả, trả lời

Đầu ra / Đầu vào = Xuất lượng / Nhập lượng

Đề xuất = Đề nghị

Đi làm suốt = Đi làm suốt ngày, suốt buổi ...

Diện = Thành phần

Điện cho ai (sai) = Gọi điện cho ai, điện thoại cho ai

Đội ngũ = Hàng ngũ

Đồng bào dân tộc = Đồng bào sắc tộc

Động não = Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ

Động thái = Động lực

Động thái = Động tĩnh (thái độ và hành động) 

Động viên = Khuyến khích

Đột xuất = Bất ngờ

Dự kiến = Phỏng định

Dũng cảm = Mạnh mẽ

Đường băng = Phi đạo

Đường cao tốc = Xa lộ


Gia công = Làm ăn công

Giá hữu nghị = Giá tượng trưng

Giá mềm = Giá rẻ

Giải phóng mặt bằng = Ủi cho đất bằng

Giải phóng = Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)

Giảm tốc = Giảm tốc độ

Giản đơn = Đơn giản

Giao dịch (cs dùng từa tựa như trả giá) = Thương thảo (négocier)

Giao lưu = Giao thiệp, trao đổi


Hạch toán = Kế toán

Hải quan = Quan Thuế

Hâm, Tửng = Khùng, mát giây

Hàng không dân dụng = Hàng không dân sự

Hát đôi = Song ca

Hạt nhân (vũ khí) = Nguyên tử

Hát tốp = Hợp ca

Hậu cần = Tiếp liệu

Hệ quả = Hậu quả

Hiện đại = Tối tân

Hiển thị = Xem, Thấy

Hộ chiếu = Sổ Thông hành

Hồ hởi = Phấn khởi

Hộ khẩu = Tờ khai gia đình

Hộ lý = Dâm nô

Hộ Nhà = Gia đình

Hoành tráng = Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ

Học vị = Bằng cấp

Hội chữ thập đỏ = Hội Hồng Thập Tự

Hưng phấn = Kích động, vui sướng

Hữu hảo = Tốt đẹp

Hữu nghị = Thân hữu

Huyện = Quận


Kênh = Băng tần (Channel)

Khả năng (có) = Có thể xẩy ra (possible)

Khẩn trương = Gấp rút, Khẩn cấp, nhanh lên

Khẩu trang = Băng vệ sinh

Khâu = Bộ phận, nhóm, ngành, ban, khoa

Kiệt suất = Giỏi, xuất sắc

Kiều hối = Ngoại tệ

Kinh qua = Trải qua



Làm chủ = Nô lệ

Làm gái = Làm điếm

Làm việc = Thẩm vấn, điều tra

Lầu năm góc / Nhà trắng = Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc

Lên lớp (vd: Anh lên lớp tôi) = Dạy đời, Sửa lưng 

Liên hệ = Liên lạc (contact)

Liên hoan = Đại hội, ăn mừng

Lính gái = Nữ quân nhân

Lính thủy đánh bộ = Thủy quân lục chiến

Linh tinh = Vớ vẩn

Lợi nhuận = Lợi tức

Lược tóm = Tóm lược

Lý giải = Giải thích (explain)


Máy bay lên thẳng = Trực thăng

Mĩ – Mỹ = (Hoa kỳ =USA)

Múa đôi = Khiêu vũ



Nắm bắt = Nắm vững

Nâng cấp = Nâng, hoặc đưa giá trị lên

Năng nổ = Siêng năng, tháo vát

Nghệ danh = Tên (nghệ sĩ = stage name) dùng ngoài tên thật

Nghệ nhân = Thợ, nghệ sĩ

Nghĩa vụ quân sự = Đi quân dịch

Nghiêm túc = Nghiêm chỉnh

Nghiệp dư = Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)

Người nước ngoài = Ngoại kiều

Nhà khách = Khách sạn

Nhân thân = Thân nhân

Nhất quán = Luôn luôn, trước sau như một

Nhất trí = Đồng lòng, đồng ý

Nỗi niềm (tĩnh từ!) = Vẻ suy tư


Phản ánh = Phản ảnh

Phản biện = Phản đối

Phần cứng = Cương liệu

Phản hồi = Trả lời, hồi âm

Phần mềm = Nhu liệu

Phát sóng = Phát thanh

Phi khẩu = Phi trường, phi cảng

Phi vụ = Một vụ trao đổi thương mại (a business deal = thương vụ)

Phó Tiến Sĩ = Cao Học

Phục hồi nhân phẩm = Hoàn lương

Phương án = Kế hoạch


Quá tải = Quá sức, quá mức

Quân hàm = Cấp bực

Quản lý = Quản trị, sở hữu

Quan tâm = Lo lắng

Quán triệt = Hiểu rõ

Quảng bá = Quảng cáo hay Truyền bá

Quảng trường = Công trường

Quy hoạch = Kế hoạch

Quy trình = Tiến trình


Sân bay = Phi trường

Sơ tán = Tản cư

Sốc (“shocked)” = Kinh hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên

Sự cố = Trở ngại

Sư = Sư đoàn

Sức khỏe công dân = Y tế công cộng


Tài chủ nước lạ = Tàu cộng xâm lăng

Tập đòan / Doanh nghiệp = Công ty

Tàu vũ trụ = Phi thuyền

Tên lửa = Hỏa tiễn

Tham gia lưu thông (xe cộ) = Lưu hành

Tham quan = Thăm viếng

Thân thương = Thân mến

Thanh lý = Thanh toán, chứng minh

Thi công = Làm

Thị phần = Thị trường

Thư giãn = Tỉnh táo, giải trí

Thu nhập = Lợi tức

Thuyết phục (tính) = Có lý (makes sense), hợp lý, tin được

Tiến công = Tấn công

Tiến độ = Tiến trình

Tiến sĩ hữu nghị = Tiến sĩ giấy - tiến sĩ zdỏm

Tiên tiến = Xuất sắc

Tiếp cận = Gần gũi, Giao tiếp

Tiếp thu = Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh hội

Tiêu dùng = Tiêu thụ

Tố chất = Tư chất (cuả một người)

Tổ lái = Phi hành đòan

Tờ rơi = Truyền đơn

Tranh thủ = Cố gắng

Trí tuệ = Kiến thức

Triển khai = Khai triển

Tư duy = Suy nghĩ

Tư liệu = Tài liệu

Tư vấn = Cố vấn (conseiller)

Từ = Tiếng, chữ


Ùn tắc = Tắt nghẽn


Vận động viên = Lực sĩ

Vấn nạn = Vấn đề

Viện Ung Bướu = Viện Ung Thư

Vô tư = Tự nhiên


Xác tín = Chính xác

Xe con = Xe du lịch

Xe khách = Xe đò

Xử lý = Giải quyết, thi hành


(… còn tiếp)

* Quý vị nào thấy có thêm những chữ loại này ở đâu đó (?) hoặc thấy sự đối chiếu chưa đúng (!) thì xin vui lòng mách dùm để nhà cháu bổ túc (không phải bổ sung) và sửa đổi cho đúng (không phải là hoàn chỉnh) mà sửa chữa (chứ không phải sửa đổi), và cũng để mọi người cùng phấn khởi (không phải là hồ hởi) mà tham khảo.

Trần Văn Giang

Wednesday, August 29, 2018

29 điều du khách không thể bỏ qua khi đến Pháp.

Image                                                          result for map                                                          of france
Mỗi năm, có hàng triệu du khách ( 85 triệu ) đến nước Pháp tươi đẹp để thưởng ngoạn những kỳ quan kiến trúc ở Paris, nghỉ ngơi trên những bãi biển tuyệt đẹp vùng Riviera của Pháp và nhấp một ngụm rượu ở Bordeaux .

Dưới đây là 29 điều mà tất cả các du khách nên làm khi ở Pháp:

Đi bộ trong các tòa lâu đài của Hoàng gia Pháp tại thung lũng Loire, như lâu đài Chateau de Sully-sur-Loire.
(Ảnh: Shutterstock)

Cưỡi ngựa trắng cùng với cao bồi Pháp (còn gọi là gardian) ở vùng Camargue, vùng đồng bằng châu thổ lớn nhất châu Âu.
(Ảnh: Flickr/ypou34)

Ăn một bát súp cá bouillabaisse tại Marseille.
(Ảnh: Shutterstock)

Chuẩn bị bánh mì baguette, một ít pho mát cùng một chai rượu vang, rồi đi dã ngoại dưới tháp Eiffel tại khu vườn Cham de Mars.
(Ảnh: Flickr/willyverhulst)

Chiêm ngưỡng vách đá phấn Étretat ở vùng Normandy.
(Ảnh: Shutterstock)

Ngắm những bông hoa súng đã từng truyền cảm hứng cho họa sĩ Claude Monet tại nhà riêng của ông ở Giverny.
(Ảnh: Shutterstock)

Quay ngược thời gian và tưởng tượng người tiền sử đã từng vẽ những bức tranh tường cổ xưa bên trong các hang động Lascaux. Các bức tranh này được ước tính là hơn 17.000 năm tuổi.
(Ảnh qua The Beauty of Travel)

Đi bộ qua hẻm núi lớn Verdon Gorge của Pháp.
(Ảnh: Shutterstock)

Đi dạo dọc theo những bãi bùn lầy của vịnh Mont Saint-Michel khi triều thấp và chiêm ngưỡng tu viện Beneditine tuyệt đẹp.
(Ảnh: Shutterstock)

Hòa mình vào những cánh đồng hoa lavender thơm ngát ở Provence.
(Ảnh: Flickr/mikeslone)

Đi thuyền dọc theo kênh đào Canal du Midi, một nơi được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới kéo dài từ thành phố Toulouse đến Địa Trung Hải.
(Ảnh: Shutterstock)

Khám phá ngôi làng trượt tuyết Chamonix-Mont-Blanc.
(Ảnh: Nataliya Nazarova / Shutterstock)

Lạc bước trong khu vườn cung điện Versailles.
(Ảnh: Shutterstock)

Nằm nghỉ ngơi trên bãi biển hẻo lánh ở đảo Corsica.
(Ảnh: Shutterstock)

Nếm hương vị rượu sâm banh ở vùng sản xuất rượu Champagne.
(Ảnh: Flickr/mustangjoe)

Ăn tại nhà hàng Alain Ducasse au Plaza Athénée lộng lẫy.
(Ảnh: Facebook/Alain Ducasse)

Trượt tuyết trên dốc Val d’Isère hay Courchevel.
(Ảnh: Shutterstock/xdrew)

Tản bộ dọc theo bức tường cao của thành phố thời Trung cổ Carcassonne.
(Ảnh: Shutterstock)

Ngửi mùi nước hoa làm thủ công tại một nhà máy nước hoa ở Grasse.
(Ảnh: Flickr/jeanlouis_ zimmermann)

Tắm nắng trên bãi biển Cannes.
(Ảnh: mffoto/Shutterstock)

Ngắm những tàn tích của đấu trường La Mã cổ đại ở thành phố Nimes.
Mỹ đang trả giá đắt vì bỏ rơi VNCH và bắt tay TC cách đây hơn 43 năm về trước?

Damir Sagolj 

Bỏ con săn sắt, bắt con cá rô, bị nó đâm tay, máu ra vung vãi. 

Bài viết của tác giả tác giả Damir Sagolj, một người ngoại quốc sẽ cho chúng ta cái nhìn trung thực về việc nước Mỹ đang phải hối hận vì đường lối bắt tay Trung Cộng và bỏ rơi VNCH cách đây hơn 43 năm về trước.

Nga hoàng Putin và hoàng đế Trung Quốc Tập Cận Bình, là hai mối de dọa mà Tây phương buộc phải chung sống. Trong khi đó, Le Point dự báo tổng thống Pháp sắp tung ra kế hoạch 2, thì L’Obs quảng cáo xe bay và thị trường bất động sản « hấp dẫn » của Paris.

Trước hết là Trung Quốc của Tập Cận Bình. Quan điểm lo sợ Trung Quốc rõ nét nhất trong tuần không phải là của báo chí Âu - Mỹ mà xuất phát từ châu Á: Tây phương nuôi ong tay áo, quan điểm của báo Apple Daily của Hồng Kông hay là « một chính quyền chuyên chế, đàn áp bên trong, thống trị bên ngoài », nhận định của Manila Times mà Courrier International chuyển đến độc giả Pháp.

Dưới bức hí họa chủ tịch Trung Quốc cưỡi phi thuyền, báo Apple Daily nhận định: Tây phương hãy tự trách mình đã không biết nhìn xa, đã lầm tưởng rằng giúp Trung Quốc trở thành một nền kinh tế tự do sẽ đưa đến một chế độ dân chủ. Nào ngờ Bắc Kinh luôn luôn tìm cách thay đổi nguyên trạng trên bàn cờ thế giới để làm lại dựa trên những cơ sở mới.

Từ khi Tập Cận Bình tuyên bố ý định sửa đổi Hiến Pháp để có thể trở thành hoàng đế, người dân Trung Hoa tức giận nhưng không dám phản đối công khai. Trong khi đó, báo chí Tây phương không tiếc lời chỉ trích. Một cách khéo léo, Apple Daily mượn lời tuần báo The Economist: « Trong 10 năm gần đây, Tây phương nỗ lực giúp Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, hội nhập vào thế giới. Nhưng trên thực tế, chế độ Trung Quốc không ngừng gia tăng chính sách kềm kẹp dân chúng, đả phá một số giá trị văn minhTây phương như là tự do kinh tế, tôn trọng nhân quyền ».

Apple Times của Hồng Kông viết tiếp: Xã luận của tuần báo Anh không nói thẳng « Tây phương nuôi chó sói trong nhà » nhưng rõ ràng là gần như thế. Ngay từ khởi đầu, Đặng Tiểu Bình sang tận Hoa Kỳ để nhờ Mỹ giúp Trung Quốc hội nhập hệ thống kinh tế thế giới. Mục đích là để được chuyển giao công nghệ, nguồn vốn đầu tư - hai thứ mà Trung Quốc hoàn toàn thiếu thốn.

Tây phương thì muốn lợi dụng Trung Quốc để đối trọng với Liên Xô. Khi Liên Xô tan rã, Tây phương, đứng đầu là Hoa Kỳ, kỳ vọng vào sự xuất hiện của một tầng lớn trung lưu mới sẽ giúp xã hội cởi mở hơn và Trung Quốc từ từ dân chủ hóa. Do vậy, Trung Quốc được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, tiếp cận với thị trường quốc tế và nhờ động lực này, kinh tế Trung Quốc mới hưng thịnh như ngày nay.

Thế nhưng sau thời gian « dò đá qua sông », giả vờ làm « học trò ngoan » để không bị cản đường vào WTO, bây giờ Trung Quốc đủ mạnh nên đưa ra yêu sách muốn một vị trí trong trật tự chính trị, kinh tế toà cầu: muốn thêm quyền quyết định trong Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF và bổ nhiệm nhân sự điều hành. Đến khi Tập Cận Bình lên cầm quyền năm 2012, thì Bắc Kinh không còn bằng lòng với luật chơi hiện hành, mà đòi thay đổi nguyên trạng, xóa bài lập ván mới, trên cơ sở mới.

Nhật báo độc lập của Hồng Kông cảnh báo: WTO chỉ là món khai vị. Con đường tơ lụa « một vành đai, một con đường » phủ khắp địa cầu mới là món ăn chính.
Trung Quốc dẹp qua một bên lời hứa mở cửa thị trường, tăng thêm gọng kềm kiểm soát, doanh nghiệp nước ngoài phải tuân theo ý của thiên triều nếu không muốn bị trừng phạt nặng nề. Bàn tay của đảng Cộng Sản ngày càng thô bạo.

Về chính trị, không còn hiện tượng dung thứ một số trào lưu tư tưởng thế giới du nhập vào Trung Quốc, không còn khả năng thảo luận tự do trong các câu lạc bộ văn học, đại học. Trong 5 năm của Tập Cận Bình, giới dân chủ bị đàn áp thê thảm. Trong nội bộ đảng, xu hướng cải cách bị « bóp miệng ». Giá trị phổ quát của nhân quyền, tự do dân chủ trở thành « cấm kỵ ».

Trong nhiều thập niên qua, Tây phương nuôi một con hổ hung dữ, và giờ đây con hổ này đang nhe nanh vươn móng sắt. Vì sao nên nỗi ? Tây phương hãy tự than thân đã nuôi một con thú dữ. Nếu vẫn còn tiếp tục hy vọng Trung Quốc tự do hóa kinh tế và chính trị thì đúng là ảo tưởng.

Tờ Manila Times của Philippines tỏ ra dè dặt trước quyết định « sốc » của đảng Cộng Sản Trung Quốc mở đường cho Tập Cận Bình cai trị mãn đời, có thời gian để thực hiện ba « đại công trình »: chống tham nhũng, con đường tơ lụa mới và tăng cường quân sự, thực hiện chính sách thống trị Biển Đông, thay đổi nguyên trạng, bằng sức mạnh.

Manila Times cảnh báo chính quyền Philippines là phải biết cách bảo vệ quyền lợi, đừng để cho Bắc Kinh dồn vào chân tường, phủ nhận chủ quyền của Philippines trong vùng biển của đất nước mình.

Hoa Kỳ thức tỉnh ?
Một trong những chiến lược của Bắc kinh áp đảo kinh tế thế giới là chiếm đoạt sở hữu trí tuệ, phát minh của các doanh nghiệp quốc tế bằng biện pháp bắt chẹt các xí nghiệp nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc phải chuyển giao công nghệ. Mưu đồ thành lập một « Silicon Valley » tại Hoa lục, bị tổng thống Mỹ Donald Trump thọc gậy bánh xe..

Courier International trích đọan một bài báo của Los Angeles Times: ngày 12/03/2018, Donald Trump ký sắc lệnh, nhân danh« nhu cầu an ninh quốc gia », không cho công ty điện tử Singapore Broadcom mua lại, với giá 117 tỷ đôla, hãng chế tạo « chip » điện tử Qualcomm của Mỹ. Trước đây 5 năm, một hợp đồng khổng lồ như thế có lẽ đã được chấp thuận dễ dàng.

Chính quyền Mỹ lo ngại một khi Qualcomm lọt vào tay Singapore, ngành bán dẫn và công nghệ G5 sẽ bị Trung Quốc chiếm đoạt. Trong tương lai, Ủy ban xem xét đầu tư của Mỹ, dưới tên gọi CFIUS, nếu được Quốc Hội cho thêm thẩm quyền như dự trù, sẽ có thể « cấm » các công ty Mỹ hoạt động tại Trung Quốc chuyển giao công nghệ cho đối tác Trung Quốc. Chính vì những chuyển nhượng này mà Bắc Kinh kiểm soát được đời tư của công dân, xâm nhập tài khoản trên mạng xã hội của các nhà họat động nhân quyền, dân chủ.

Quyết định của Nhà Trắng có thể gây xáo trộn trong quan hệ giữa giới doanh nghiệp Mỹ với Bắc Kinh và có thể bị Trung Quốc trả đũa. Tuy nhiên, theo Los Angeles Times, biện pháp bảo v
 công nghệ điện tử, tiếp theo quyết định tăng thuế nhập khẩu nhôm, thép, có thể suy đoán Washington sẽ ấn định lại quan hệ với Trung Quốc trong lãnh vực công nghệ cao cấp.

Với cơ sở hiện nay tại Hoa lục, năm 2015, Qualcomm từng bị Bắc Kinh trừng phạt một khoản tiền lớn gần 1 tỷ đô la với cáo buộc cạnh tranh bất chính. Hai năm nay, Qualcomm giúp cho đối tác Trung Quốc chế tạo máy bay tự hành, siêu vi tính, đầu tư vào một công ty chế tạo camera nhận diện đang được cảnh sát khai thác để theo dõi.

Trong giới chuyên gia Mỹ có hai nhận định khác nhau. Người thì cho rằng mục đích của Bắc Kinh là tiến đến khả năng độc lập về công nghệ mới.. Chia sẻ phát minh cho Trung Quốc là cách hay nhất để sớm bị đá ra khỏi thị phần. Người khác thì lạc quan hơn: Doanh nghiệp Mỹ đề kháng rất khéo, không phải đầu hàng sau mỗi cái búng tay.

Người ta nghĩ rằng đầu tư tại Trung Quốc sẽ gây thiệt hại cho tương lai xí nghiệp nhưng nghĩ thế không chắc là đúng. Chỉ có tương lai mới biết ai đúng ai sai ?.

Chung quy là do lỗi lầm từ 43 năm trước vì sự phản phúc tráo trở của một cường quốc đối với một đồng minh bé nhỏ để bắt tay với tên khổng lồ Tàu Cộng, với hy vọng về một thị trường tiêu thụ khổng lồ để đến lúc này Mỹ đã sáng mắt ra khi nhận thấy thằng khổng lồ đó vươn dậy trở thành hung hãn, không còn là thị trường tiêu thụ béo bở nữa- như mong đợi- ngược lại Nó đã trở thành chủ nợ của Mình, đã thế Nó còn bằng mọi cách đi ăn trộm những bí mật về khoa học, kỹ thuật kể cả quân sự và tình báo để cố bành trướng và tiến mạnh hơn đe dọa trực tiếp nền kinh tế và an ninh của mình.

Damir Sagolj
San Nguyen (dịch)
Mắt Thuyền

Nguyễn Xuân Tường Vy 

  
Biển lặng những ngày sau. Tôi vẫn không đủ can đảm nhìn xuống lòng đại dương sâu hút. Đôi mắt thuyền vẫn ở đó. Trong thâm tâm tôi biết đôi mắt ấy vẫn dõi theo tôi từ khi rời khỏi mặt nước. Biển trong lòng tôi đã lặng. Cả những lượn sóng sôi. Nhưng đôi mắt vẫn ở đó trong sâu tận đáy lòng. Đôi mắt làm bằng ván của quê tôi, của Tam Kỳ tuổi thơ, của những gốc phi lao rì rào. Những gốc cây trơ gầy vậy mà chúng cũng ghép lại được để chở mang tôi ra xa, vượt những ngọn sóng, vượt những lượn triều, vượt trời nước mênh mông để khi tôi quay nhìn lại thì Tam Kỳ đã biến mất. Quê tôi không biến mất, Tam Kỳ chưa biến mất. Tam Kỳ gửi theo tôi đôi mắt ván thuyền.

Đó là năm 83, khi tôi bước chân xuống chiếc thuyền chòng chành ở mấp mé bờ nước.

Thuyền đi đã bao lâu, tôi không thể nhớ. Tôi thức giấc giữa lòng ghe. Chung quanh im phắc. Ánh sáng lờ mờ từ nắp ghe hắt xuống những thân người nằm ngồi ngả nghiêng. Các chị tôi ngồi dựa lưng vào thành thuyền, lờ đờ. Mùi nôn mửa xú uế trùm kín vùng không gian hẹp. Ngộp thở, tôi lại muốn nôn. Nhưng bao tử thắt chặt co bóp. Không còn gì để nôn ra. Tôi bò về phía có ánh sáng. Không ai la mắng khi tôi bò lên thân họ, dẫm lên mặt họ. Tôi đưa đầu lên khoảng sáng. Mùi gió mặn thốc vào mặt làm tôi tỉnh táo. Biển nhám hiện ra lờ mờ trong vũng sương. Trời và nước cùng xám đục. Hình dáng vài chiếc ghe hiện lên xa tít, lung linh mờ ảo như buổi sáng ban mai đang êm dịu.

Đêm qua, chúng tôi rời bến Bình Triệu. Thuyền xoáy đuôi tôm từ bên này bờ sang bên kia thì mắc cạn. Những giây phút chờ nước lên trở thành vô tận. Lúc đó tôi còn hồi hộp, tim đập thình thịch vì cách nhổ bãi chớp nhoáng. Hầm tàu tối om. Mọi người co rút lặng lẽ. Người theo đạo Công Giáo lẩm nhẩm đọc kinh. Người theo đạo Phật lầm thầm tụng niệm. Lúc chiều tôi để ý nhiều người xách theo tượng Phật và cả nhang đèn. Con người cầu cạnh thượng đế những khi yếu đuối nhất. Sao không yếu đuối khi tất cả diễn ra mong manh vừa thúc đẩy mỗi chúng tôi dấn bước vào định mệnh.

Từ buổi chiều nhập nhoạng, chúng tôi theo người dẫn đường đến tụ tập tại điểm hẹn tại một ngôi nhà thờ trong khu cư xá Tam Đa. Gia đình tôi và các anh chị họ được đưa đến đầy đủ. Thánh lễ chiều vừa xong, giáo dân lục tục ra về. Chúng tôi vào nhà thờ cầu nguyện. Đức Mẹ giang tay an ủi. Chúa Giêsu cúi nhìn từ thánh giá. Trời tối mau. Cơn mưa rả rích từ chiều vẫn chưa dứt. Ở bên ngoài, tôi thấy thêm nhiều tốp người đứng lố nhố. Họ không phải giáo dân ở đây. Như chúng tôi, họ chờ giờ khởi hành. Tôi thấy má bắt đầu bồn chồn. Đứa em nhỏ tám tháng của tôi khóc leo nheo. Đám đông đứng lớ ngớ, tay xách nách mang. Trong chiếc giỏ bàng ở chân cột có hình Quán Thế Âm và bát nhang.

“Không biết họ đi đâu? Hôm nay làm gì có chầu.”

Một con bé đang nhảy dây nơi sân đứng lại hỏi han. Không ai trả lời cho nó. Mắt tôi nhìn sững vào vòng dây quay đều trên sân. Tôi cũng hay cột hai tà áo dài để nhảy dây ở sân nhà thờ sau buổi lễ. Đám bạn tôi, Bích, Yến, Mai, Tươi. Chúng nó có thắc mắc tìm tôi sau buổi lễ chiều nay? Chúng nó có biết tôi đang ở đây, chờ một chuyến đi để phải xa chúng nó mãi mãi?

Bóng tối lan nhanh. Mưa vẫn phớt mặt Chúa qua lớp tôn chắn kêu rào rào. Chúng tôi đứng ép vào hiên nhà thờ. Ông Từ nhà thờ bảo chúng tôi vào xin phép cha xứ. Nhà thờ đã đến giờ đóng cửa. Tôi thấy hai cánh tay Chúa chịu nạn vươn dài khỏi lỗ đinh rướm máu. Hai cánh cửa nhà thờ đóng lại. Không thể chờ ở đây, chúng tôi phải đi đâu đó khỏi khuôn viên nhà thờ. Đám người lục tục xách giỏ lên tay. Ai cũng nhìn nhau lo lắng. Ba và bác Niếp tới kịp ngay lúc ấy. Không cần hiệu lệnh, chúng tôi vội theo sát chân hai ông. Đám người bước hỗn loạn, tất tả trong con hẻm nhỏ ra bến đò. Mỗi người thúc nhau đi mau. Tôi xách đôi dép da chạy theo ba. “Họ đi đâu mà đông dữ vậy?” “Chắc đi ăn đám giỗ.” Cánh đàn ông trong hãng cưa đứng bên kia đường láo xáo hỏi. Không ai trả lời. Chúng tôi cắm đầu chạy. Mưa rơi lất phất lên tóc tôi, lạnh tanh trên trán, rồi lạnh buốt da mặt. Mặc, tôi cứ chạy. 

Thuyền neo tại bến đò. Một mảnh ván xiêu bắc ngang làm cầu. Ba tôi đứng bên kia đầu ván, kéo tay chị em chúng tôi và đẩy từng đứa xuống hầm. Tôi rớt xuống vùng không gian tối mù, đôi dép văng khỏi tay lúc nào không rõ. Chung quanh tôi, tiếng người và dép guốc rơi lộp bộp. Trong bóng tối, chị em chúng tôi tìm nhau. Má và mấy đứa em nhỏ không ở chung khoang thuyền. Tôi chỉ tìm thấy tay của các chị. Không có cảm giác nào an toàn hơn được nắm tay người thân của mình trong bóng tối lo âu, mịt mùng đầy bất trắc. Thuyền nổ máy. Tiếng vang rền, dòn tan. Mùi dầu, khói. Thuyền rú ga phóng ra khỏi bến, nhưng chỉ được ít phút, bỗng khựng lại. Máy thuyền tạch tạch một lúc rồi tắt lịm. Không khí đông cứng. Ngột ngạt. Mọi tiếng thì thầm bặt câm. Chúng tôi nín thở. Tôi nghe tiếng nước vỗ róc rách vào mạn thuyền; tiếng mưa rơi long tong lên mặt ván gỗ trên đầu. Thỉnh thoảng, có tiếng ghe máy sè sè vọng lại. Tim tôi vồng lên hồi hộp. Thời gian trôi chậm nặng nề. Nắp hầm đột nhiên mở rộng. Bác Niếp nói vọng xuống, thuyền mắc cạn, phải chờ nước lên. Mọi người tuyệt đối giữ im lặng. Hầm thuyền vẫn tối om. Mồ hôi tôi đổ đẫm lưng áo. Lưng con gái sớm biết sợ. Tôi khua tay tìm bàn tay chị. Chị đang lần hạt bằng những đốt ngón tay ẩm. Ngón tay chị lạnh ngắt. Một lát, có tiếng ì oạp của mái chèo, tiếng lục cục của gỗ va vào nhau. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Nhất định là công an đến kiểm tra.

“Anh Uyển ơi, về đi. Trên bờ họ biết cả rồi. Họ còn biết thuyền đang mắc cạn nữa.” 

Tôi nhận ra giọng nói của chú Tôn. Chắc chú lọt lại trên bờ khi thuyền vội vã rời bến khi nãy. Tim tôi lại dội lên thình thịch. Trên bờ họ biết cả rồi. Chẳng mấy chốc, công an sẽ đến. Trời ơi! Nhóm tổ chức toàn là những người bạn tù của ba. Cái tội “Ngụy” chưa ráo, tội vượt biên sẽ mang họ về đâu. Tôi tưởng tượng đến lúc ba bị bắt đưa vào trại cải tạo lần nữa. Hiện ra trước mắt tôi đồi núi Nghệ Tĩnh khô cằn. Cả vùng chỉ trồng toàn sắn là sắn. Ba ốm nhom trong bộ quần áo lao động. Lưng áo ba đóng triện đỏ. Ba chữ Tù Cải Tạo đỏ lòm như cổng chào. Tiếng mái chèo ì oạp xa dần. Tôi thầm mong ba nghe lời chú Tôn lên ghe vào bờ. Nhưng hai cha con chú quyết định ở lại. Ba cũng ở lại. Tôi lại tìm tay chị. Chị vẫn lần hạt bằng những đốt ngón tay ẩm. Tôi lầm thầm đọc kinh, nghĩ đến cánh tay Chúa Giêsu chịu nạn. Tay Chúa có lạnh giá? Lưng Chúa có đổ mồ hôi? Dù Chúa ở trong nhà thờ đóng cửa, chị em tôi vẫn cầu nguyện. Tôi lần hạt hết Năm Sự Thương, Năm Sự Mừng, Năm Sự Vui mà nước vẫn chưa lên. Tôi chưa bao giờ lần hạt nhiều đến như vậy.

Tôi giật mình bởi những tiếng súng nổ. Thuyền tăng tốc độ. Máy rú gầm, phóng lao. Chị em tôi nắm chặt tay nhau kinh sợ. Thuyền bốc thêm người ở hai nơi. Địa điểm thứ nhất lên được cả. Địa điểm thứ hai bị công an gác bến đuổi bắn. Chúng tôi phóng chạy, bỏ lại một số người. Sau này tôi được biết vì thuyền mắc cạn hai giờ đồng hồ, công an gác bến đổi phiên. Toán công an sau không được ăn chia nên ra lệnh bắn. Hầm thuyền vẫn tối mù. Khoang tàu như thu nhỏ lại với số người mới lên. Chúng tôi ngồi dèn lên nhau, lưng khòm theo mạn thuyền. Hơi người hầm hập. Thuyền sóc mạnh. Vài người bắt đầu nôn oẹ. Tôi muốn ngộp thở. Mùi nôn mửa bốc lên chóng mặt. Chị đã thôi lần hạt bằng những ngón tay ẩm. Chị cũng gập người nôn thốc tháo. Tôi dựa vào vai chị, người mệt bã. Tôi nhắm mắt. Khoang thuyền tối. Tôi mở mắt. Khoang thuyền vẫn tối bưng. Khi mở mắt tôi không thấy gì ngoài bóng tối. Nhưng nhắm mắt tôi có thể hình dung đến tương lai. Tôi hình dung đến bờ bên kia của biển cả. Vượt biên đối với tôi lúc ấy giống như đi đò từ bên này sông sang bên kia sông. Chỉ một lát thôi, tôi sẽ đến bến. Ý nghĩ ấy làm tôi nhắm nghiền mắt lại. Tôi thiếp dần vào giấc ngủ mê mệt. Trong giấc ngủ, hình ảnh ba còm cõi cuốc đất trồng sắn không ngừng ám ảnh.

Cũng ngay tại đây, ngay tại ga xe lửa Bình Triệu, lần đầu tiên tôi biết đến sân ga. Chúng tôi mua vé tàu suốt đi từ ga Bình Triệu đến ga Vinh. Ba bị “cải tạo” ở đó. Chúng tôi mới được giấy phép thăm nuôi. Ba ra đi biệt tăm từ tháng Năm năm 75. Bây giờ đã là tháng Sáu năm 79. Tôi được mười tuổi, bằng tuổi của má ngày di cư vào Nam.

Gia đình tôi gốc Bắc. Hai bên nội ngoại di cư vào Nam năm 54. Chị em chúng tôi hầu hết sinh ra ở miền Trung, theo bước chân hành quân của ba. Tôi sinh ở Quảng Ngãi. Em M sinh ở Quảng Tín. Em K sinh ở Tam Kỳ. Gia đình tôi ở Tam Kỳ cho đến ngày phải di tản về Sàigòn. Tam Kỳ mưa phùn lạnh lẽo trong trí nhớ tôi non nớt. Tôi đứng bên song cửa thèm thuồng nhìn những đứa trẻ hàng xóm long nhong tắm mưa. Má cấm chị em tôi dầm mưa. Mùa đông Tam Kỳ chúng tôi mặc áo măng tô bên trong, áo mưa bên ngoài chờ chú Mới đưa đi học bằng xe Jeep. Thỉnh thoảng chú chở chúng tôi vào căn cứ Chu Lai thăm ba bận việc không về nhà. Căn cứ Chu Lai có lá Quốc Kỳ Vàng bay phất ở cổng vào. Cuối tuần chú chở chúng tôi ra Đại Chủng Viện Đà Nẵng thăm bác dạy học tại đó. Chúng tôi chạy nhảy tha hồ dưới những cây dừa rụng bông trắng xóa. Ba hay vắng nhà, chúng tôi ở nhà với má và bà vú. Chị em tôi hay cười khi bà bảo, “en cem meo meo rồi đi ngủ hỉ”. Mỗi chiều, tôi chờ tiếng xe Vespa của ba reo vui ở đầu ngõ. Chị em tôi chạy ùa ra đường, đứa trèo đứng đằng trước, đứa leo đằng sau để ba lái xe vào sân nhà. Đêm trăng sáng, trẻ con hàng xóm tụ tập ở sân nhà tôi múa hát. Chiến tranh đang xảy ra ở căn cứ Chu Lai hoặc nơi nào đó trên quê hương. Nhưng chiến tranh trong tuổi thơ tôi đầy êm đềm vì đã có những người lính như ba chết để bảo vệ chúng tôi. Cảnh nhà tôi vẫn ấm cúng. Những người lính đem đến ấm cúng, đem đến hòa bình giữa chiến tranh. Chúng tôi yên ấm giữa bom đạn mù lòa.

Năm 74 tôi chỉ mới vài tuổi. Tôi không biết đấy là lúc “quân cách mạng” ồ ạt vượt dãy Trường Sơn để vào “giải phóng” chúng tôi. “Anh Lê Văn Tám hy sinh làm bó đuốc sống phá tan kho đạn Thị Nghè. Anh giao liên Kim Đồng thông minh lanh lợi lập nhiều chiến công. Em bé quê dùng dầu gió bắt sống lính Mỹ. Chị Út Tịch mang bầu bảy tháng giả kế mỹ nhân quyến rũ sĩ quan Ngụy chiếm bót Tám Thế”. Sau này tôi được trường học dạy như thế. Tôi học những bài học lịch sử đứt đoạn, từ thời Ngô Quyền nhảy vọt đến “cuộc kháng chiến chống Mỹ”.

Tháng Ba năm 75. Chiến tranh lan như vết rắn bò trườn. Ba đi hành quân liên miên. Má lo âu võ vàng. Bom đạn phủ xuống đời sống. Đạn pháo cách mạng rình rập. Lưỡi lê giải phóng canh chừng. Chúng tôi lo lắng. Chú Mới đón chị em tôi ở trường học. Con đường yên tĩnh từ trường về nhà giờ mang đầy thương tích. Dãy phố cháy, khói bốc cao thành cột. Bụi tre ở đầu ngõ bị bom đánh gẫy. Cờ phủ vàng những chiếc quan tài trong xóm. Chiến tranh phơi bày bộ mặt tàn khốc. Tam Kỳ chìm vào lửa. Chúng tôi phải chạy về Sài gòn bằng máy bay quân sự, không có ghế phải ngồi trên sàn. Ba ở lại với các đồng đội. Khi miền Trung mất, chúng tôi mất liên lạc với ba nhiều ngày. Ở Sài gòn ông nội lo lắng từng giây. Hai người con trai của ông còn kẹt lại ở miền Trung không có tin tức. Cả ngày ông ôm khư khư cái radio theo dõi từng biến chuyển của cuộc tháo chạy, sừng sộ với bất cứ một tiếng động nào. Không khí trong nhà nghẹt thở. Cuối cùng, ba và chú cũng trở về được vài ngày sau đó. Ông bà nội rơi nước mắt khi thấy hai con trai của mình tơi tả bước vào cổng.

Chúng tôi về bên ngoại tá túc. Bà ngoại ở gần bến Bạch Đằng. Mỗi chiều, ba dắt một hai đứa chúng tôi ra bến xem người ta di tản. Họ rủ ba đi, nhưng ba lắc đầu. Ba dẫn chúng tôi xuống tàu chơi, rồi lên bờ khi tàu nhổ neo. Sau này, trong những năm ba ở tù, tôi thường tự hỏi tại sao ba không theo tàu di tản vào thời gian đó? Ba có bao giờ ân hận vì cái lắc đầu ngày ấy? Ba nghĩ gì? Ba tin vào điều gì?

Tháng Năm năm 75, ba ra trình diện chính quyền mới. Tôi nhớ ngày đi ba mặc chiếc áo in hình bánh qui. Bánh rơi đầy vai ba như có ai vừa mở tung nắp hộp thiếc. Những chiếc bánh qui hình vuông, viền răng cưa thơm thơm ngọt tan trong miệng. Chúng tôi không cho ba đi. Chúng tôi đeo theo, đứa đu tay, đứa ôm chân. Ba đeo túi lên vai, hẹn mười ngày sẽ về. Em trai út vừa sinh chưa tròn tháng, ba bảo chờ ba về hãy rửa tội cho em. Ba thanh thản đến nơi tập trung. Ba nghĩ đến tình anh em Nam Bắc một nhà. Ba tin vào lòng “khoan hồng của kẻ chiến thắng”. Ba tin vào lời hứa “mười ngày”. Nhưng ba đã thất vọng. Gia đình tôi đã tuyệt vọng. Niềm tin không cứu được ba. Hòa bình bắt đầu bằng sự khát khao thanh trừng của kẻ chiến thắng. Ba đột nhiên biến mất khỏi cuộc đời chúng tôi lúc đó. Tôi không thể hiểu. Đất nước thanh bình mà gia đình tôi tan nát.

Chị em chúng tôi lớn lên với má và bà ngoại trong một căn nhà ở ngoại ô Sàigòn. Hai người đàn bà chật vật nuôi năm đứa trẻ. Chị cả mới lên tám và em út chưa đầy tháng. Ngoài giờ dạy học, má đạp xe chạy lùng khắp nơi, đến từng nhà giam trong thành phố tìm tin tức của ba. Bà ngoại ở nhà nuôi đứa bé sơ sinh bằng nước cháo pha muối. Đứa bé ba đặt tên Hòa Bình. Vừa ra đời đã thiếu cha. Ba còn sống hay đã chết? Đối với mọi người chung quanh, ba đã không còn hiện hữu. Tấm hình ba oai phong trong bộ quân phục bị nhét sâu dưới đáy rương, nằm lẫn lộn giữa quần áo cũ và những viên băng phiến hắc. Ba có khác gì một người đã khuất. Chỉ còn thiếu tấm hình của ba trên bàn thờ là bà ngoại sẽ xin lễ giỗ cho ba hàng năm.

Ba ra đi, mang theo những chiếc bánh thơm lừng tuổi thơ của chúng tôi. Nắp hộp thiếc đóng chặt từ ngày ấy. Sau này, lâu lắm, khi sang Mỹ tôi mới được nếm lại mùi bánh qui. Tôi nhai bánh như nhai giấy. Mùi vị không còn ngọt ngào béo ngậy như trong trí nhớ. Tôi không còn là con bé sáu tuổi đeo lên lưng ba vờ ăn bánh. Tôi không còn thèm bánh qui nữa. Tôi thèm ly nước chanh mát lạnh trên đường vượt biển.

Từ lúc lên được boong, tôi không muốn xuống hầm nữa. Boong thuyền không còn chỗ trống. Người nằm ngồi la liệt. Tôi chỉ đủ chỗ dựa lưng vào thùng phi chứa nước. Nước trong thùng chỉ còn lấp xấp. Chúng tôi chưa đi được bao xa. Nước uống phải để dành, phải dè sẻn. Tôi khát khô cổ. Tôi tìm bóng dáng một chiếc tàu ngoại quốc. Tàu nào cũng được. Tàu nào có thể cho tôi một ly nước đá chanh ngọt lịm. Buổi sáng nắng trong. Mặt biển óng ánh như kính nhuyễn. Thuyền phóng băng băng mà cứ như đứng một chỗ, giống xả hết tốc độ mà vẫn như neo lại trên vũng nước. Tôi nhìn đại dương bao la không thấy bến bờ, không thấy tàu bè. Mênh mông bạt ngàn những trận gió. Con thuyền như chiếc tàu giấy con con tôi xếp thả vào ao nước mưa. Những cơn mưa ngập lụt đất Tam Kỳ. Tôi vẽ đôi mắt thuyền nguệch ngoạc. Đôi mắt ấy giờ theo tôi ra đại dương. Cũng như thuyền, tôi chưa bao giờ ra biển. Tôi hoàn toàn không hình dung hết được hiểm nguy chực chờ. Nếu chúng tôi bị giông bão? Nếu chúng tôi gặp hải tặc? Nếu chúng tôi chết trên biển? Dù sao chúng tôi cũng có nhau. Ba nói: chết thì chết cả nhà.

Trời nóng. Gió biển rì rì nhưng vẫn nóng. Mặt trời phả hơi xuống những thân người nằm phơi như cá. Tôi say nắng. Người nóng rực như sốt. Biển trải rộng. Biển vô cùng. Màu xanh bất tận chạy dài ngút ngàn. Tôi thấy bà ngoại mấp máy, miệng móm mém. Bà pha cho tôi ly nước chanh thật to. Chiếc ly sành vẽ hai con cò trắng lung linh. Uống đi con! Vậy là chúng mày bỏ bà mà đi. Tôi muốn cầm ly nước bà đưa, nhưng tay mỏi rã rời. Bà ngoại không đi. Bà ở nhà giữ hộ khẩu, nhỡ bị bắt còn có bà thăm nuôi, còn có nhà để về. Bà nuôi chị em chúng tôi từ ngày giải phóng. Em út tôi là con trai của bà mới đúng. Bà chăm sóc nó từ ngày lọt lòng. Không có bà, tôi biết má không sao đứng vững được. Chạy về từ Tam Kỳ, chúng tôi không còn gì ngoài hai bàn tay trắng. Chúng tôi mất tất cả. Ngôi nhà nhỏ xinh có mảnh vườn trồng rau. Mỗi buổi sáng tôi theo ba ra vườn bắt ốc sên. Đất Tam Kỳ đỏ quạch bám nhão gót giầy. Sau nhà có con sông nước lênh láng mỗi chiều. Hoa lục bình trôi tím mặt sông. Tôi dõi mắt cố tìm một cánh lục bình trên biển, chỉ thấy sóng bạc nhấp nhô. Sóng bạc của Thái Bình Dương ngợp nắng. Người tôi vẫn nóng hực. Tôi nhắm mắt lại cho đỡ lóa. Lẽ ra chúng tôi đã ra biển trước đây mấy tuần. Lần ấy chủ thuyền định đổ bến gần Bà Rịa. Gia đình tôi từ Sàigòn ra Hải Sơn chờ ngày đi. Ông bà nội ở đó. Ngày đi, bà nội dậy lúc gà gáy, lục đục thổi xôi luộc gà. Chúng tôi mặc quần áo ấm, khăn gói ngồi chờ đến khi trời sáng rõ. Ông nội nói bể rồi không đi được nữa đâu. Giọng ông buồn mà mắt ông lại tựa như đang vui mừng. Ông cười lấp lánh răng vàng. Ông bảo bà rỡ xôi gà ra cho chúng nó ăn. Con cháu ông đã rủ nhau ra biển.Chúng tôi đi, ông chẳng còn ai. Ngày di cư vào Nam, chắc ông chẳng bao giờ ngờ lịch sử lập lại. Con cháu phải bồng bế nhau xa rời quê hương lần nữa.

Chiều đến. Mặt trời biến nhanh lắm. Một thoáng thôi, đã mất hút. Nền trời xám xịt. Gió bắt đầu thổi mạnh. Mây sà xuống boong, trĩu nước. Sóng không còn đập hiền hòa vào mạn thuyền. Từng con sóng giận dữ quật xuống. Sóng nhồi suốt cho đến đêm. Trời tối đen. Tôi không thấy gì ngoài bóng tối đặc sệt. Tôi hình dung đến đôi mắt thuyền phăng phăng rẽ sóng. Thuyền đưa tôi đi qua biển dữ. Gió vẫn mạnh. Sóng đập vào mạn thuyền tung nước lên boong. Thỉnh thoảng mưa đổ ào rồi ngưng. Người tôi ướt đằm. Cái lạnh thấm vào da thịt, buốt giá. Thái Bình Dương đen. Đêm bao la chỉ một ánh đèn le lói trên cabin. Gương mặt chú Thiện căng thẳng. Chú Thiện Sĩ quan Hải Quân bạn ba. Chú vẫn nghiêm trang ít nói mỗi lần đến nhà. Lần nào chú cũng trốn ngay lên lầu làm việc gì đó với chiếc la bàn. Ba dặn: có người lạ tới phải báo ngay cho ba. Tôi hồi hộp với vai trò gác cửa, mắt đau đáu nhìn ra ngõ. Đột nhiên có tiếng la to: Tàu lớn kìa! Tôi mở choàng mắt. Xa thật xa, trong tối đen mịt mù, một ánh đèn bập bềnh ẩn hiện. Mắt tôi mở dán vào vùng không gian phía trước. Ánh đèn chấp chới tựa bóng ma lúc ẩn lúc hiện. Tôi dụi mắt ngỡ mình nằm mơ. Không phải tôi mơ. Ánh sáng có thật. Ánh sáng bừng lên chói lọi như mặt trời vừa mọc. Nhưng lạ quá, ánh sáng cứ bừng lên rồi tắt lịm. Thuyền chao qua. Ánh sáng tắt ngúm. Sóng bắn tung vào người tôi. Thuyền nhảy lên. Ánh sáng bừng lấp lánh. Chúng tôi cứ tiến tới. Tôi tưởng tượng đến con tàu đằng xa. Con tàu đèn điện sáng trưng. Những người đàn ông đàn bà tóc vàng mũi lõ tử tế. Tôi cầm trong tay ly nước đá chanh. Màu xanh lá mạ dịu dàng sóng sánh. Những viên đá nhỏ reo lanh canh. Chúng tôi đi về phía mặt trời ẩn hiện. Sau này tôi biết chẳng phải mặt trời chơi trò ú tim. Chúng tôi đang vật lộn với sóng lớn. Khi sóng đưa thuyền lên cao, tôi nhìn thấy ánh sáng. Khi con thuyền rớt xuống chân sóng, ánh sáng biến mất vào biển đêm. Tôi vẫn rùng mình mỗi khi nghĩ lại.

Chúng tôi vẫn đi về phía mặt trời. Khối đen trước mặt hiện dần hình con tàu. Mặt trời chiếu ra từ cột quan sát. Chúng tôi bật đèn cấp cứu. SOS. Đèn đỏ nhấp nháy. SOS. Chúng tôi đến gần hơn. Boong tàu thấp thoáng bóng người. Tôi không nằm mơ. Thật sự là một con tàu. Một con tàu to kềnh càng. Tôi cầm lấy ly nước đá chanh. Mặt trời vẫn sáng rực trên cao.

“Tàu Liên Xô! Chạy ra, chạy ra.”

Tiếng người hét thất thanh. Tôi sực nhìn lên. Mặt trời sáng rực lóa mắt.

“Cờ búa liềm! Cờ búa liềm. Trời ơi!”

Tài công dùng dằng, tiếc rẻ. Tôi cũng tiếc. Một con tàu to kềnh hẳn an toàn hơn chiếc thuyền mỏng manh. Tôi thèm được cuộn mình trong chăn ấm. Tôi đang lạnh run. Và khát. Ly nước đá chanh vẫn ám ảnh. Con thuyền quay đầu, phóng chạy. Sau giây phút xôn xao, rồi sợ hãi, mọi người im lặng. Chỉ còn tiếng gió gầm gừ. Chỉ còn tiếng sóng đập tung vùng biển động. Chúng tôi chạy trốn mặt trời.

Cơn bão thứ hai dội xuống đại dương một ngày sau đó. Lúc ấy chúng tôi đã an toàn trú ẩn trong khoang tàu Nhật Shonan Maru. Những con tàu mang ly nước đá chanh không thèm ngừng lại. SOS. Tín hiệu báo lâm nguy chưa đủ thảm thương. Shonan Maru ngừng lại và chúng tôi lập tức leo lên. Ba ghi tên điểm danh 105 người. Số thuyền nhân nhiều gấp hai số thủy thủ trên tàu. Chiếc Shonan Maru chở sinh viên thực tập trên biển. Cả tàu không có một nữ sinh viên. Vị thuyền trưởng cho kéo theo chiếc thuyền rách nát vượt đại dương của chúng tôi. Mắt thuyền lập cập. Thuyền như con nhái bám vào vách giếng. Thủy thủ đoàn đưa chúng tôi xuống hầm tàu. Họ không có đủ chăn đắp nhưng sàn tàu sạch sẽ láng bóng. Quanh chỗ tôi nằm là nơi dự trữ gạo. Gạo Nhật hạt to tròn trĩnh. Nấu lên ăn dẻo như cơm nếp. Ngày đầu nhà bếp mang ra một khay cá sống. Từng lát cá tươi rói trong veo bắt mắt nhưng không ai dám ăn. Lúc đó tôi chưa biết mê sushi. Tôi chỉ dám ăn món cháo cá nấu nhão với rong biển suốt những ngày trên tàu.

Sau đêm bão lớn, tôi lò dò lên boong. Biển êm. Gió đã nhẹ lắm tuy sàn tàu vẫn còn đẫm nước. Bên cabin, vài người con trai đứng lố nhố chõ mắt vào hai ô cửa kính. Tôi cũng tò mò chen vào xem. Bên trong, đám sinh viên Nhật đang xem tivi. Màn ảnh màu rực rỡ hiện ra đôi trai gái. Họ ăn mặc rách nát hơn chúng tôi hôm lên tàu Nhật. Đứa con gái tóc dài đến lưng, quấn hai mảnh vải tả tơi ôm chầm lấy đứa con trai đóng khố. Những đôi mắt thuyền nhân mở to chiêm ngưỡng. Đó là phim The Blue Lagoon sau này tôi xem khi đến Mỹ. Biển trong phim êm ả không dữ dằn những đợt sóng sôi. Từ chỗ tôi đứng, biển bao la xanh ngắt. Tàu Nhật thênh thang, tôi hay đi thơ thẩn dưới hầm và trên boong. Tôi ngỡ mình đang ngắm biển Cà Ná hùng vĩ từ trên xe lửa. Chuyến xe lửa đưa tôi đi gặp ba tại trại cải tạo Tân Kỳ. Từ ga Vinh, chúng tôi đi một chuyến xe đò gập ghềnh, thêm một quãng đi bộ mới đến trại. Buổi trưa u buồn vắng vẻ. Cả vùng núi lặng lẽ dưới nắng. Đâu đó vọng lại tiếng gà gáy kêu lơ thơ ở một hốc bụi nào. Xa về phía núi là nơi giam giữ ba. Chúng tôi chờ ba cả buổi chiều. Tôi thấy ba từ ngoài cổng. Ba ốm nhom. Da đen sạm. Tôi chạy thật nhanh ra cổng. Ba đón lấy, nhấc bổng tôi lên lòng. Tôi khóc. Khóc chan hòa vì tưởng sẽ không bao giờ còn được gặp ba. Khóc cho hết nỗi cô đơn không cha, cho vơi những nhọc nhằn từ ngày giải phóng. Tôi khóc trên vai ba như tôi đeo lên vai ba trong ngày ba ra đi. Vai áo ba không còn những chiếc bánh thơm. Tôi ngửi mùi nắng cháy khét trong tóc ba. Ba lấy trong túi ra một nhánh hoa tím.

“Đây là hoa mua, ba hái cho con. Giống như hoa sim ngoài Bắc mình.”

Lúc ấy tôi chưa biết buồn vì màu tím, cũng chưa thuộc thơ Hữu Loan tím cả chiều hoang biền biệt. Tôi chỉ thấy cảnh tù đày phi lý. Ba có tội gì? Chúng tôi có tội gì? Má xoay sở đầu chợ cuối chợ mới mua được vé xe. Chúng tôi đứng nhìn con tàu Thống Nhất sang trọng sáng choang chạy qua trước mắt. Tôi nhặt bao nhiêu lon sắt, giấy vụn; tôi dang bao nhiêu cơn nắng, nhưng tôi phải đi xe lửa chợ cũ rích ghế gỗ cứng ngắc đau mông. Con tàu Thống Nhất không dành cho tôi một chỗ ngồi như đất nước đã từ chối ba làm một công dân. Chúng tôi lặn lội ba ngày ngủ đứng ngủ ngồi trên xe lửa. Chúng tôi bị mất cắp bị chen lấn bị chèn ép trong các toa xe. Qua ngần ấy gian nan để chỉ được gặp ba một giờ đồng hồ. Chú cán bộ ngồi đầu bàn theo dõi từng cử động. Tôi có bao điều muốn kể với ba. Nhưng tôi chỉ dám ngồi yên trong lòng ba. Một giờ đồng hồ qua nhanh như chớp mắt. Tôi và má đứng ngẩn nhìn ba bước về trại giam. Lưng áo ba in chữ đỏ. Tù Cải Tạo.

Tôi theo ba lên cabin gặp vị thuyền trưởng. Phòng ông có tivi màu và tủ đựng nước ngọt. Ông bấm vào nút, một lon nước ướp lạnh chạy ra. Tôi tròn mắt nhìn ông làm ảo thuật. Ông đưa cho tôi lon nước mở sẵn. Tôi ủ lon nước lạnh ngắt vào đôi tay. Ly nước đá chanh tôi ao ước. Ngụm nước đọng trên đầu lưỡi, lạnh buốt suốt tuổi niên thiếu. Vị thuyền trưởng nói chuyện với ba bằng cuốn tự điển. Ba nói tiếng Anh. Ông tra tự điển rồi trả lời. Tôi ngồi xem tivi, không hiểu gì cả. Mãi mãi ghi sâu trong trí nhớ tôi vùng không gian nhỏ bé bình yên, màn hình tivi với ngôn ngữ lạ, nước cam lạnh, chiếc tủ nước ngọt, và ông Nhật biết làm ảo thuật. Mỗi lúc tình cờ bấm tivi sang một đài nước ngoài hoặc lạc vào đám đông với ngôn ngữ lạ, tôi thấy mình nhỏ lại như năm mười bốn, ngồi bên cạnh ba và vị thuyền trưởng. Ba múa tay giải thích với vốn liếng Anh ngữ từ thời đi dạy. Tôi nhìn ba ung dung, tự tin, nhớ lại những lần đứng thập thò nghe ba nói chuyện e dè với công an khu phố.

Ba trở về sau sáu năm sáu tháng hai mươi hai ngày “cải tạo”, thể xác héo mòn, tinh thần kiệt quệ. Tôi không biết thực sự ba đã được “cải tạo” những gì trong những năm tháng đó, ngoài những cơn đói triền miên và những ngày lao động cực khổ. Ba ra tù, về chịu sự quản thúc của chính quyền địa phương. Công an dân phố ghé qua sáng chiều. Ở trường học, mỗi tuần chúng tôi xếp hàng đi bộ đến nghĩa trang liệt sĩ làm cỏ. Trời đổ lửa. Chúng tôi mặc áo trắng quần đen đi theo hàng. Nghĩa trang liệt sĩ nằm kề bên con đường lớn. Ở giữa, một khung đài tưởng niệm nhang khói lâm thâm. Lần nào về tôi cũng ấm đầu.

Ra đi là con đường duy nhất để chúng tôi được sống đúng với ý nghĩa một con người. Đối với ba má, đó là một sự chọn lựa đau đớn và liều lĩnh. Ra đi là đánh cuộc với mạng sống của tám thành viên trong gia đình. Tôi không ngạc nhiên vì quyết định của ba má. Như thể đó là định mệnh. Chúng tôi không còn con đường nào khác.

Biển lặng những ngày sau đó. Tôi vẫn không đủ can đảm nhìn xuống biển từ lan can tàu. Màu xanh hun hút làm tôi chóng mặt. Nếu không được tàu Nhật vớt, chúng tôi có thể chống nổi với cơn bão chiều ấy? Biển đẹp man rợ. Biển mênh mang không thấy bến bờ. Biển lan như trên mặt đất chỉ toàn nước. Biển xanh lục như trên mặt đất toàn rêu. Biển nhấp nhô như tinh thần chúng tôi hãy còn chông chênh chưa tin đang hít thở khí quyển tự do.

Chúng tôi dần lại sức. Cháo cá rong biển đậm đà không còn vô vị. Chúng tôi sẽ đáp bến Manila nay mai. Vị thuyền trưởng ra lệnh chặt dây thừng bỏ con thuyền rách nát đã theo chúng tôi dọc Thái Bình Dương. Tôi nhìn đôi mắt thuyền ướt nước ngỡ như đang nhìn chính mình. Chiếc thuyền tang thương bẩn thỉu mang hình ảnh của chúng tôi ngày hôm qua. Đêm nay thuyền sẽ về đâu? Con mắt thuyền ướt đẫm. Mắt thuyền lặng câm. Thuyền xa bến như tôi xa quê hương. Biết thuyền có tìm được đường về. Thuyền lênh đênh tôi cũng lênh đênh. Thuyền trôi dạt, tôi cũng trôi dạt. Mười bốn năm, tôi mất tuổi thơ hai lần. Tôi mất Tam Kỳ tháng Tư năm 75. Năm 83, tôi mất Sàigòn. Chiến tranh phá hủy tuổi thơ. Hòa bình đẩy tôi dạt ra biển cả. Những giọt nước mắt con gái khóc chia tay; không phải tôi khóc mà mắt thuyền đang khóc.

Nhiều năm sau tôi vẫn nhớ đôi mắt thuyền ai oán. Mỗi khi soi gương tôi vẫn thấy mắt thuyền long lanh trong mắt mình. Tôi mang đôi mắt ấy, đôi mắt Tam Kỳ và những mảnh vụn ký ức không thể ráp nối. Tôi chưa vào đến đất liền. Chưa vào đến Bataan hay hải đảo Palawan huyền hoặc. Tôi trôi mãi trên biển Đông ở vùng hải phận quốc tế.

Ngày mai mất biển Đông, tôi sẽ trôi về đâu ? 

Nguyễn Xuân Tường Vy

Blog Archive