Wednesday, October 21, 2009

Bạch Diện Thư Sinh

Ôi! Phận nước sao điêu linh, khốn khổ đến nỗi vận mạng toàn dân, toàn quân miền Nam lại bị rơi vào tay những cấp lãnh đạo như thế đấy!

* Chuyện 1: Làm thế nào PTT Nguyễn Cao Kỳ đã cứu sinh viên VC Huỳnh Tấn MẪM

Vài hàng lịch sử để hiểu rõ động cơ

Cơ may đưa hai Tướng Thiệu, Kỳ lên nắm chính quyền
Chính phủ Phan Huy Quát chấp chính ngày 18 tháng 02 năm 1965.

Cuối tháng 5, đầu tháng 6, có sự bất đồng lớn giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quạt Cuối cùng ông Phan Huy Quát tuyên bố từ chức, giải tán chính phủ và giao quyền lãnh đạo đất nước vào tay giới quân nhân một lần nựa

Ngày 12 tháng 6 năm 1965, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch (coi như Quốc trưởng) và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch (coi như Thủ tướng) được thành lập

Ngày 19 tháng 6 năm 1965, Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra mắt nội các chiến trạnh

Cuối tháng 2 năm 1966 nổ ra Biến động Miền Trụng Nguyên do là sự bất hòa giữa Tướng Nguyễn Chánh Thi và các tướng lãnh khác trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, phối hợp với sự chống đối của Phật giáo miền Trung do TT Thích Trí Quang cầm đầu đã bị CS xâm nhập lèo lại. Họ phát động đấu tranh bạo loạn tại Huế và Đà Nẵng kéo theo cả một số quân nhân vô kỉ luật, quyết lật đổ chính quyền của hai ông Thiệu - Kỳ bằng mọi giạ

Chính phủ trung ương phải đưa quân ra miền Trung để đối phó tình hình đã trở nên quá tồi tệ Nhờ cuộc hành quân này, đến cuối tháng 5 năm 1966, trật tự an ninh được vãn hồi tại thành phố Đà Nặng Hết tháng 6 năm 1966, tình hình tại Huế mới yện

VNCH đang dần dần đi vào ổn định

Cuối tháng 2 năm 1967, Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo xong và biểu quyết chấp thuận bản dự thảo Hiến Pháp mới còn gọi là Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Họa

Ngày 10 tháng 3 năm 1967, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia duyệt bản dự thảo Hiến pháp lần chót và chấp thuận Hiến pháp mới tôn trọng hơn nguyên tắc phân quyện

Từ đây phải tuân thủ Hiến pháp cho nên sẽ tiến hành bấu cử Quốc hội Lập pháp và Tổng thộng

+ Liên danh Thiệu-Kỳ

Cuộc vận động bầu cử Tổng thống sẽ bắt đầu vào tháng 7 năm 1967. Bên ngoài đã biết cả hai ông Thiệu và ông Kỳ đều nhất quyết sẽ ra tranh cử chức vị Tổng thộng

Xét về khả năng đắc cử thì ông Kỳ là Thủ tướng đương nhiệm cho nên nắm được guồng máy chính quyền từ trung ương xuống tới xã ấp toàn quốc, đồng thời được nhóm tướng tá trẻ đang nắm giữ những vị trí quyền lực then chốt ủng hộ. Đang khi đó, ông Thiệu với cá tính chín chắn, thâm trầm nên được nhiều người cho là đáng tín cẩn hơn, vả lại dân miền Nam dễ thiên về ông Thiệu là người Phan Rang ở giáp ranh với Lục tỉnh ‘Nam Ky’ hơn là ông Kỳ là dân gốc ‘Bắc Ky’(1).

Dư luận lúc đó cho là phía dân sự sẽ có nhiều liên danh ứng cử tổng thống, chẳng hạn như liên danh Trần Văn Hương, liên danh Trương Đình Dụ, nếu bên phía quân nhân, hai ông Thiệu và Kỳ mỗi người đều ra ứng cử tổng thống thì có thể bị phía dân sự đánh bại Để có thể thắng, các tướng lãnh phải tìm cách để chỉ có một liên danh quân nhận Giữa lúc dư luận đồn đoán về ưu thế của Tướng Kỳ trong cuộc tranh chấp này thì đột nhiên sau cuộc họp tướng lãnh vào ngày 30 tháng 6 năm 1967, chỉ một ngày trước khi hết hạn nộp đơn ứng cử, liên danh Thiệu - Kỳ ra đợi. Chẳng những ông Thiệu không rút lui mà ông Kỳ còn phải đứng Phó trong liên danh của ông Thiệu.

Theo tác giả Võ Long Triều trong hồi kí Cái Mốc Lịch Sử kể lại thì chính ông Nguyễn Cao Kỳ đã xác nhận với ông trong một bữa cơm tại nhà ông Kỳ ở Hacienda, Los Angeles, về biến cố này như sau:

‘Moa cho triệu tập tất cả tướng lãnh về Tổng Tham Mưu họp để bàn về việc của moa và ông Thiệu cùng tranh cử chức vị Tổng Thộng Mọi việc được sắp xếp trước hết rội Chiều hôm trước anh em thỏa thuận để cho ông Thiệu ra ứng cử với tư cách tư nhân và dân sự Có nghĩa là phải giải ngũ để ra ứng cử Tổng Thộng Điều này chắc chắn đã lọt vào tai ông ta rội Ngày hôm sau các Tướng Lãnh họp tại Tổng Tham Mưu, moa ngồi ngoài không tham dự để cho anh em thảo luận không phải ngại ngùng vì sự có mặt của mọa Mục đích phiên họp là giao quyền Lãnh Đạo Quốc Gia lại cho Cao Văn Viên Xử Lý Thường Vụ Có biên bản đường hoạng Vì biết trước kết quả rồi nên Nguyễn Văn Thiệu chần chừ không đến, đợi phải có người mời đến ghi nhận kết quả thì “lủy” mới chịu đện (tiếng Pháp: Lui có nghĩa là nó, ổng). Trước mặt moa ông ta nói mà rơm rớm nước mắt, anh em quyết định sao thì ông ta chịu vậy Ông ta xin anh em cho phép ở lại với quân đội’

Cao Văn Viên sắp đọc biên bản, Kỳ ngang nhiên khoát tay bảo: ‘Không cần, tôi nhường cho anh Thiệu ứng cử lần này, kỳ sau sẽ đến lượt tội Nhưng tôi yêu cầu anh Thiệu phải duy trì Hội đồng Quân nhận Mọi quyết định quan trọng yêu cầu anh phải tham khảo ý kiến của các Tướng Lạnh’

Thiển nghĩ ông Thiệu có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng ông Kỳ nhường vị trí ứng cử tổng thống cho ông dễ dàng đến thế, vì vậy bây giờ ông Kỳ có đưa ra bất cứ điều kiện gì thì ông Thiệu cũng chấp nhận ngạy

Thật ra ông Kỳ còn đưa ra một điều kiện nữa là Thủ tướng sẽ do ông chọn lựa (Dó là Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc sau này).

Khi kể lại chuyện này, ông Kỳ không dấu diếm: ‘Diều moa hối hận nhứt trong đời là nhường quyền ứng cử và chịu đứng phó cho Nguyễn Văn Thiệu’ (2).

Ông Kỳ nói ông ‘hối hận nhất trong đời’ là phải, bởi vì ông đã đem tình cảm vào để giải quyết chuyện chính trị hệ trọng tầm cỡ quốc gia đại sự Khi ông ‘quân tử tầu’ chịu đứng phó cho ông Thiệu, ông đâu có ngờ những điều kiện ông đưa ra để ‘thủ thế’ sẽ không có cái nào thực hiện được hầu bảo vệ ộng Bởi vì từ khi đắc cử tổng thống, ông Thiệu đã dựa vào Hiến Pháp mà làm việc Trong ‘mọi quyết định quan trọng’ ông không cần hỏi ý ‘Hội đồng Quân nhân’ nào cả, và rồi ra sẽ thấy ông Kỳ không đương nhiên được ‘dến lượt’ra ứng cử lần sạu Nếu ông Kỳ muốn ứng cử thì cứ chiếu theo luật pháp mà ứng cự Còn vị thủ tướng do ông Kỳ tuyển chọn là Ls Nguyễn Văn Lộc thì không thành tích, không đủ tài cán cho nên chỉ tồn tại được một thời gian ngặn

Ngày 3 tháng 9 năm 1967, là ngày bầu cự Có 6 triệu cử tri thì 5 triệu thực sự đi bỏ phiếu, đạt tỉ lệ 80% . Hai ngày sau, tổng kết số phiếu: liên danh Thiệu - Kỳ đắc cử với 35% tổng số phiếu, về nhì là liên danh Trương Đình Du được 17% số phiệu

+ Rạn nứt lớn

Quyền hạn của một tổng thống do Hiến pháp quy định đã cho phép ông Thiệu dần dần củng cố được quyền lực, loại bỏ tay chân của ông Kỳ và khi ở thế mạnh ông ta không ngần ngại chèn ép ông Kỵ Cả miền Nam lúc đó biết rõ ràng có sự rạn nứt trầm trọng
trong hàng ngũ lãnh đạo cao nhật Sự rạn nứt ấy làm suy yếu nội lực quốc giạ

Theo Ks. Võ Long Triều, nhân vật từng có mối giao hảo đặc biệt với ông Kỳ, thì đã có tới 2 lần Tướng Kỳ muốn làm đảo chánh lật đổ ông Thiệu: Một lần sau Tết Mậu Thân 1968, lần thứ hai sau khi Tướng Kỳ tham dự Hòa đàm Paris trở về (3).

Dĩ nhiên, ông Kỳ đã không làm được điều ông muộn Những toan tính loại này chỉ biểu lộ cá tính hay ‘bốc’ của ộng Muốn lật ông Thiệu phải coi xem ông có bản lãnh hơn ông Thiệu không và phe ông có còn mạnh hơn phe ông Thiệu như trước nữa không; vả lại
còn một yếu tố hết sức quan trọng, đó là người Mĩ muốn cái gì và chọn ai để có thể thực hiện kế hoạch của họ

Tóm lược bối cảnh lịch sử trên đây sẽ giúp người đọc hiểu rõ nguyên do câu chuyện đau lòng có liên quan tới Phong trào Sinh viên đấu tranh xấy ra vào năm 1971. Đó là chuyện ông Kỳ, vì thù ghét ông Thiệu cho nên muốn lợi dụng bọn sinh viên VC để ‘chơi’ ông Thiệu, đã ra tay giải thoát cán bộ thành đoàn Huỳnh Tấn Mẫm và cho bọn Mẫm dùng Dinh Quốc khách của Phó Tổng thống để làm trụ sở hoạt động chống phá bầu cự

+ Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã cứu sinh viên VC Huỳnh tấn Mẫm như thế nào

Ngày 20 tháng 6 năm 1971, liên danh Lý Bửu Lâm (khuynh hướng quốc gia) đắc cử trong cuộc bầu cử Ban chấp hành Tổng Hội Sinh Viên Saigon, đánh bại liên danh của nhóm sinh viên VC, chấm dứt một thời gian dài tổ chức sinh viên này bị Thành Đoàn khống
chế (4).

Bị thất bại trong cuộc bầu cử Tổng hội SVSG, ngày 28 tháng 7 năm 1971 tại Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lý, Thành đoàn chỉ đạo lập ra cái gọi là Ban Chấp hành lâm thời Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam VN xưa nay chưa từng có tổ
chức này), gồm có Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch, Tổng thư kí là Nguyễn Thị Yến, Phó Chủ tịch ngoại vụ là Lê Văn Thuyên (Chủ tịch Tổng hội SV Huế), Phó Chủ tịch Nội vụ là Phạm Văn Xinh (Chủ tịch Tổng Hội SV Cần Thơ). Lễ ra mắt tổ chức tại Huế kết thúc bằng một cuộc biểu tình tuần hành phá phách, chống quân sự học đường, chống bầu cử độc diễn, đòi Mĩ rút về nước, đòi hòa bình cho VN.

Trong phần trình bầy sơ lược bối cảnh lịch sử trên đây, chúng ta đã thấy sự rạn nứt trầm trọng giữa hai ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, đến nỗi ông Kỳ nuôi ý đồ lật đổ ông Thiệu

Lẽ tất nhiên Thành đoàn biết rất rõ sự rạn nứt giữa ông Kỳ và ông Thiệu Nhất là với sự hiện diện của Dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận trong buổi họp bàn chuyện đảo chánh của ông Kỳ tại trại Phi Long (Hồi kí Cái Mốc Lịch Sử của Võ Long Triệu
Tập I, kỳ 6) thì chắc chắn qua ông dân biểu thân Cộng này, Thành đoàn càng biết rõ ông Kỳ thâm thù ông Thiệu đến đâu, hơn nữa họ còn biết cả những gì ông Kỳ đang âm mựu Vì thế Thành đoàn chỉ đạo cho Huỳnh Tấn Mẫm ‘tranh thủ’ ông Kỵ Họ không gặp khó khăn gì vì cũng chính dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận đã giúp cho họ được ông Kỳ tiếp kiến tại tư dinh trong trại Phi Lọng Cuộc tiếp kiến diễn ra vào khoảng đầu tháng 9 năm 1971. Phái đoàn sinh viên học sinh VC do Huỳnh Tấn Mẫm cầm đầu còn có Nguyễn Thị Yến (Văn khoa), Hạ Đình Nguyên (Văn khoa), Võ Như Lanh (Vạn Hạnh), Lê Văn Nuôi (học sinh Cao Thắng) (5), Phạm Văn Xinh và Trần Hoại

Chắc chắn ông Kỳ đã từng được báo cáo về các hoạt động phá rối của bọn Huỳnh Tấn Mẫm, cho nên mở đầu ông hỏi ngay: ‘Các anh chị có phải là VC khổng’ Mẫm thấy khó trả lời cho nên y đặt ngược một câu hỏi thăm dò: ‘Thưa Phó Tổng thống, theo Phó
tổng thống thì chúng tôi có phải là VC khổng’ Ông Kỳ hỏi chỉ là để hỏi, ông không cần câu trả lợi Lúc này đối với ông, bọn Huỳnh Tấn Mẫm là ai không quan trọng cho bằng bọn chúng có khả năng quậy phá đối thủ của ông là TT. Nguyễn Văn Thiệu

Thấy ông Kỳ vui vẻ và không theo đuổi câu hỏi, Huỳnh Thấn Mẫm chớp thời cơ nêu kiến nghị bãi bỏ Chương trình Quân sự Học đường, viện cớ nay chiến sự đã lùi ra khỏi Thủ đô và sinh viên cần thời giờ học thị Chương trình Quân sự Học đường do ông Kỳ thành lập cho nên ông không chấp nhận bãi bỏ, nhưng để lấy lòng bọn Huỳnh Thấn Mẫm, ông hứa sẽ cho hoãn quân sự học đường vào mùa Hè là mùa thi cự

Mặc dù liên danh Lý Bửu Lâm đã đắc cử Ban Đại Diện Tổng hội SVSG mãi từ ngày 20.6.1971 nhưng ông Kỳ vẫn rút ra tờ truyền đơn tranh cử của liên danh Lý Bửu Lâm, Lê Khắc Sinh Nhật và nói ông không ủng hộ liên danh này vì là liên danh thân chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và không có thực lực bằng bọn Huỳnh Tấn Mẫm cho nên ông vẫn tiếp tục ủng hộ nhóm Huỳnh Tấn Mậm

Biết được thâm ý muốn lợi dụng của ông Kỳ, Mẫm đưa yêu sách xin ông Kỳ cấp cho bọn họ một trụ sở, bởi vì trụ sở Tổng hội SVSG số 207 đường Hồng Bàng, Chợ Lớn đã bị Cảnh Sát Quận 5 phong tọa

Ông Kỳ bảo ông không có nhà để cấp cho bọn Mẫm, nhưng ông có thể cho họ mượn một phần trong Dinh Quốc khách số 4 đường Tú Xương thuộc quyền xử dụng của Phó Tổng thống ngằy nay là Nhà Văn hóa Thiếu nhi thành phố) để họ dùng làm trụ sợ

Thành đoàn đánh giá họ đã đạt được thắng lợi trong cuộc gặp gỡ với ông Kỵ Để chứng tỏ họ có sức mạnh, 2 ngày sau cuộc hội kiến, Thành đoàn chỉ thị cho bọn Mẫm tổ chức một cuộc xuống đường xô xát mạnh với Cảnh sát Dã chiến trên đường Cường Đệ Nghe tin có biểu tình, ông Kỳ lái trực thăng tới ‘lược trận’ Ngay ngày hôm sau, ông Kỳ giao Dinh Quốc Khách cho bọn Mẫm, lại còn cung cấp máy đánh chữ, giấy in truyền đơn; nguy hiểm hơn nữa, theo yêu cầu của họ, ‘nhóm tham mưu của Kỳ’ còn cấp cho họ cả lựu đạn MK3 để phá các thùng phiếu (lựu đạn MK3 thường được dùng để huấn luyện, tiếng nổ
lớn, không gây sát thương) (6).

Ngày 19 tháng 9 năm 1971, bọn Mẫm phối hợp với Tổng hội SV Vạn Hạnh và Tổng đoàn Học sinh Saigon tổ chức cuộc biểu tình từ trong khuôn viên Đại học Vạn Hạnh đường Trương Minh Giạng Toán xung kích ném lựu đạn MK3 vào địa điểm bầu phiếu, dùng bút lông sửa các bích chương liên danh ứng cử tổng thống Thiệu - Hương: liên danh ‘1’ thành liên danh ‘lì’, ‘dân chủ’ thành ‘dân chửi’ và ‘Thiệu’ thành ‘Thẹo’ Họ còn đốt vỏ xe, dựng lên những bàn chông, hình đầu lâu và lựu đạn với hàng chữ cảnh cáo ‘nguy hiểm chết người không vượt qua’ làm cho giao thông tắc nghẹn

Để vãn hồi trật tự, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành Trang Sĩ Tấn ra lệnh tấn công vào trường Vạn Hạnh dẹp tan cuộc biểu tịnh

Tuy biết những trò chơi nguy hiểm của ông Kỳ nhưng vì gần tới ngày bầu cử, phía chính quyền không muốn gây thêm chuyện với ộng Cảnh Sát chỉ muốn bắt giữ tên đầu xỏ Huỳnh Tấn Mậm

Cuối tháng 9.1971, Huỳnh Tấn Mẫm tới khách sạn Caravelle đường Tự Do để trả lời phóng vấn đài BBC. Sau đó Mẫm trở về Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lí năy là Nam Kì Khởi Nghĩa). Vì biết đang bị theo dõi, cho nên vừa về tới Trụ sở Tổng vụ, Mẫm chạy vội lên tầng cao nhất, nhưng Cảnh Sát đã kịp thời bao vây chung quanh trụ sợ Mẫm đang lúng túng tìm cách thoát thân thì Ngô Thế Lý, Đoàn trưởng Đoàn sinh viên Phật tử Đà Lạt, tới đưa Mẫm vào một căn phòng và khóa kín y ở trong đọ

Thấy nguy cho Mẫm, Nguyễn Thị Yến vội gọi điện thoại cầu cứu dân biểu Hồ Ngọc Nhuận và dân biểu Kiều Mộng Thụ Ông Nhuận gọi ngay cho Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ xin giúp giải vây cho Mậm Ông Kỳ liền phái 2 sĩ quan cấp tá lái 2 xe ‘jeep’ tức tốc
tới Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tự Hồ Ngọc Nhuận cũng đi xe LaDalat tợi Cảnh Sát không dám ngăn cản xe quân đội của 2 viên sĩ quan cấp tá và xe của một vị dân biểu cho nên cả 3 vào được bên trong Trụ sở Tổng vụ

Hai sĩ quan lên lầu tìm Mậm Ngô Thế Lý mở khóa phòng nơi Mẫm đang trộn Một sĩ quan khoác vội cho Mẫm một cái áo nhà binh rồi đưa y và một số sinh viên lên 2 chiếc xe ‘jẹep’ Xe của dân biểu Hồ Ngọc Nhuận che kín làm ‘kế nghi binh’ để nhử Cảnh sát
đuổi theo, kì thực trên xe không có sinh viên nạo Cả 3 chiếc xe vội vã ra đị Xe ông Nhuận ra trước, kế là chiếc ‘jeep’chở Mẫm, cuối cùng là chiếc ‘jeep’thứ hại Họ chạy về hướng phi trường Tân Sơn Nhật Xe Cảnh Sát hụ còi bám sạt Tới ngã tư Trương Tấn Bửu năy là Trần Huy Liệu, rồi Đỗ Tấn Phong), chỉ mình xe dân biểu Nhuận tiếp tục chạy về hướng Lăng Cha Cả, còn 2 xe ‘jeep’ghẹo trái về hướng Trương Minh Giảng năy là Lê Văn Sỹ), rồi chạy thẳng về trung tâm thành phộ Đoàn xe Cảnh Sát cũng chia hai đuổi thẹo

Trời sắp tối, chiếc ‘jeep’di sau cố ý lạng qua lạng lại cản không cho xe Cảnh Sát vượt lện Chiếc ‘jeep’di trước, trên có chở Mẫm, vọt lẹ bỏ xa xe Cảnh Sạt Tới khu chợ Bến Thành đông người, viên sĩ quan thả Mẫm xuộng Mẫm mau chóng len lỏi giữa chợ và tìm tới nấp vào trong quầy bán trái cây của ‘má’ Tám Ảnh ở cửa Bắc chợ Bến Thằnh7). ‘Má’ Tám liền phái người đi báo cho ‘má’ Văn Hoa là chủ tiệm may Văn Hoa số 100 đường Lê Thánh Tôn để chuẩn bị cho Mẫm được tá túc qua đêm ở đấy (8).

* Chuyện 2: ĐẠi tướng Dương Văn Minh đã cưu mang Huỳnh Tấn Mẫm 6 tháng trời

Diễn tiến

Tại tiệm may Văn Hoa, Mẫm gọi điện thoại kêu Nguyễn Thị Yến nhờ dân biểu Hồ Ngọc Nhuận tìm chỗ trú ẩn cho ỵ Dân biểu Nhuận vội gọi văn phòng Tướng Dương Văn Mịnh Đến trưa hôm sau, Tướng Minh phái Thiếu tá Trịnh Bá Lộc mặc thường phục lái xe tới đón Mẫm tại điểm hẹn ngã tư Nguyễn Trung Trực - Lê Thánh Tôn, cách nhà may Văn Hoa độ 100 mét và đưa thẳng về Dinh Hoa Lan của Tướng Minh số 3, Trần Quý Cạp Tướng Minh cho Mẫm ở trong một căn phòng tương đối đầy đủ tiện nghi, có cả điện thoại và nhà vệ sịnh. Để bảo mật, Mẫm không tiếp xúc với bất cứ ai trong dinh, ngoại trừ Thiếu tá Trịnh Bá Lộc là người ‘cung cấp thực phẩm’ cho ỵ.

Trong bài Huỳnh Tấn Mẫm và Cái Gọi Là ‘Saigon et Moi’, Thiếu tá Trịnh Bá Lộc xác nhận: ‘Về Sinh Viên Huỳnh Tấn Mẩm: Tôi được biết anh Mẫm vào thời gian ở VN đang
chuẩn bị vận động bầu cử Tổng Thống VNCH nhiệm kỳ II, năm 1971. Lúc đó anh là Chủ Tịch Tổng hội Sinh Viên Saigọn Anh hoạt dộng chống chánh quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Anh bi truy nạ Một nhân vật trong Bộ Tham mưu chánh trị của Đai Tướng
Dương Văn Minh giới thiệu anh và xin cho anh được lánh nạn trong căn nhà dùng làm văn phòng trong thời gian hoạt động tranh cử của Đại Tướng Dương Văn Mịnh Đề nghị được chấp thuận với điều kiện anh không được đi ra ngoài và không được liên lạc
với bên ngoài khu vực số 3 Trần Quý Cáp Saigọn Vì nhà tôi cũng ở trong khu vực này nên tôi được yêu cầu của cấp trên cung cấp thực phẩm cho ạnh Do đó, chúng tôi có dịp tiếp xúc hàng ngày trong các bữa cơm gia đình’ (9).

Nhờ có điện thoại riêng, Mẫm dùng ngụy danh là Hoàng để tiếp xúc với đồng bọn bên ngoại Tướng Minh chứa chấp Huỳnh Tấn Mẫm gần 6 thạng Mẫm chỉ bí mật rời Dinh Hoa Lan vào đầu tháng 01.1972 để ra ngoài chuẩn bị cho cuộc bầu cử Ban Đại diện Sinh viên Y khoa niên khóa 1971 - 1972.

Ngày 05.01.1972, sau phiên họp tại Y khoa, Nguyễn Văn Lang (Phó Chủ tịch Ban Đại diện Y khoa) chở Mẫm về Đại học xá Minh Mạng Vừa tới ngang cổng Bệnh viện Hồng Bàng năy là Bv. Phạm Ngọc Thạch) Mẫm bị nhân viên công lực chận bắt được

Thời gian tung hoành chống phá của Mẫm (1969-1972) coi như chấm dứt từ đậy

Mẫm bị giam giữ cho tới khi có Hiệp định Paris 1973 thì được đưa lên Lộc Ninh để trao trả cùng với Huỳnh văn Trọng, Nguyễn Long,Cao Thị Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ, Nguyễn Thành Cộng Nhưng do VC còn muốn lợi dụng Mẫm hoạt động với tư thế
hợp pháp công khai cho nên họ không nhận Mẫm, lấy lí do Mẫm không thuộc ‘thành phần quân sự’ nghĩa là tù binh, còn chính Mẫm phải miễn cưỡng chấp hành mệnh lệnh cho nên đã nại ra lí do chỉ là sinh viên thuần túy và kiên quyết đòi thả y về với gia định Mẫm chỉ thật sự được tự do vào sáng ngày 29.4.1975 khi chính tướng Cảnh Sát Bùi Văn Nhu đích thân lái xe đưa Mẫm tới tư dinh tướng Dương Văn Mịnh

* Động lực nào khiến ông Dương Văn Minh chứa chấp Huỳnh Tấn Mẫm

Nếu lí do tướng Kỳ cứu Huỳnh Tấn Mẫm là vì thù ghét và muốn ‘phá đám’ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì lí do khiến Tướng Minh cưu mang Huỳnh Tấn Mẫm chẳng những vì muốn chống TT. Nguyễn Văn Thiệu, mà còn vì ông Minh tin vào giải pháp hòa giải dân tộc, ngả sang tả và sẵn sàng bắt tay với phía CS.

01.11.1963, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Trung tướng Dương Văn Minh lãnh đạo đảo chánh giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm

30.01.1964, khi Tướng Nguyễn Khánh từ vùng I I về làm cuộc ‘chỉnh lí’ thành công thì ‘Tam đầu chế’ xuất hiện ở cấp lãnh đạo Miền Nam, gồm có Tướng Dương Văn Minh, Tướng Trần Thiện Khiêm và Tướng Nguyễn Khạnh. Vì tham vọng nắm trọn quyền lực cho nên, ngày 01.10.1964, Tướng Khánh tìm cách ép buộc Tướng Khiêm phải đi làm đại sứ tại Hoa Kị

Ngày 12.11.1964 đến lượt Tướng Minh phải rời Saigon để ‘công cán ngoại quốc’, thực ra là đi lưu vong tại Thái Lạn

Trong cuốn Hồi Ký Không Tên, tác giả cựu dân biểu đối lập Lý Quí Chung kể lại, nhân chuyến đi Bangkok Thắi Lan) để dự Hội nghi APU (Hiệp hội Dân biểu Nghị sĩ Á châu), ông đã gapTướng Dương Văn Minh để chuyển lời của Cụ Trần Văn Hương yêu cầu Tướng Minh lên tiếng ủng hộ liên danh ứng cử tổng thống Trần Văn Hương - Mai Thọ Truyền (Lý Quí Chung là đại diện báo chí cho liên danh Trần Văn Hương trong kì bầu cử này).

Có lẽ vì ơn nghĩa đó cho nên năm 1969, Phó Tổng thống Trần Văn Hương mới can thiệp để Tướng Dương Văn Minh được hồi hượng Tướng Minh cư ngụ tại tư dinh có biệt hiệu là Dinh Hoa Lan trên đường Hồng Thập Tự (nguyễn Thị Minh Khai). Về đây, ông Minh tiếp tục mê 3 thứ: chơi hoa lan, cá kiểng và đánh quần vợt

Từ 1970, nơi đây trở thành trung tâm quy tụ những nhân vật mang lập trường phản chiến, chủ hòa không tưởng, mĩ danh là ‘hòa hợp hòa giải dân tộc’ Nhóm này đề nghị Tướng Minh ra tranh cử tổng thống vào năm 1971 và ông đã chấp nhận

Nhóm ông Minh công khai đối lập với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chống sự can thiệp của Mĩ ở VN, chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc, đòi thi hành Hiệp định Parịs

Nhóm này gồm có những nhân vật chính yếu như sau: Ls. Trần Ngọc Liễng, Gs. Vũ Văn Mẫu, Tướng Mai Hữu Xuân, Gs. Lý Chánh Trung (10), Bs. Hồ Văn Minh, Lm. Nguyễn Ngọc Lan (11), Dân biểu Lý Quí Chung, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, Dân biểu Dương Văn Ba, cán bộ công đoàn Nguyễn Văn Cước, cựu chủ tịch Tổng hội SV Saigon 1963-64 Nguyễn Hữu Thái (12)...

Về chủ trương và gốc gác thành phần của nhóm được Lý Quí Chung thuật lại như sau: ‘ Xét về ‘gốc tích’ thành phần của nhóm ông Minh lộ ra sau 1975, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự chuyển dịch lập trường của nhóm ông Minh từ ‘ở giữa’ chuyển sang tả, rồi hướng đến sự sẵn sàng thỏa hiệp, liên kết với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) và Hà Nội Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTDTGPM như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh mục Lan, luật sư Liệng khi
Hiệp định Paris được ký kết, nhóm ông Minh ủng hộ triệt để sự thi hành Hiệp định Bản thân tôi cũng tham gia Lực lượng Hòa giải Dân tộc (HGDT) do luật sư Vũ Văn Mẫu đứng đầu; lực lượng này được Phật giáo Ấn Quang hậu thuẫn và có chủ trương đòi tổng thống Thiệu tôn trọng và thi hành Hiệp định. Lực lượng HGDT tổ chức nhiều cuộc hội thảo và thuyết trình về Hiệp định Paris tại chùa Ấn Quang và tại nhiều địa điểm khác tại miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Quảng NgậiLuat sư Liễng thì thành lập Tổ chức đòi thi hành Hiệp định Paris với sự tham gia của linh mục Nguyễn Ngọc Lan, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, nhà văn Thế Nguyên bắo Trình Bày), nhà hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước v.v...’ (13).

Với lập trường chính trị chủ hòa thiên tả, việc ông Minh cưu mang sinh viên VC Huỳnh Tấn Mẫm đương nhiên phải xẩy ra bởi vì ông đang đóng vai hợp pháp công khai để bao che, bảo vệ một ‘người anh em’, một ‘dồng chị’ Thực ra lúc đó ông Minh không
chỉ chứa chấp sinh viên VC Huỳnh Tấn Mẫm, ông còn cho 2 cựu dân biểu thân Cộng Dương Văn Ba và Phan Xuân Huy, kí giả Kỳ Sơn (Nguyễn Đình Nam) đang bị truy nã và cán bộ CS hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước ẩn náu tại tư dinh của ộng

* Nhận xét

Cả hai ông Kỳ và Minh đều là những nhân vật chức cao quyền trọng một thời, thuộc hàng lãnh đạo quốc giạ Việc làm và tư tưởng của họ có ảnh hưởng tới nhiều người, có thể là nhiều thế hệ Vấn đề là cả hai ông này dường như không có lập trường (?). Bởi vì lập trường thì khó thay đội Xem ra hai ông chỉ có những quan niệm và thái độ chính trị Quan niệm và thái độ có tính cách giai đoạn, giai đoạn sau trái ngược
hẳn giai đoạn trước, nói cách khác là tiền hậu bất nhất, gió chiều nào che chiều ấy cho nên nhận xét về họ không đơn giạn Chúng ta đã được đọc nhiều tác giả viết về hai nhân vật nạy

Hai câu chuyện vừa kể trên tuy là chuyện nhỏ nhưng phần nào phản ánh tính khí, bản chất và tinh thần trách nhiệm ra sao của hai ông đối với quân dân miền Nam tự dọ

Ks. Võ Long Triều từng sát cánh với ông Kỳ nhận xét: ‘Những gì tôi biết, hình như có hai Nguyễn Cao Kỳ, một Nguyễn Cao Kỳ phản bội đồng đội, phản bội chính mịnh Và một Nguyễn Cao Kỳ Từ 1966 đến 1975, có lòng với đất nước, muốn đội đá vá trời nhưng không thành, vì thiếu hiểu biết việc quốc gia đại sự, biến chuyển quốc tế, thế chiến lược toàn cầu, vai trò của VN trong hoàn cảnh đó và nhứt là vì những đàn em dựa hơi
phá bĩnh hay nhóm “Lương Sơn Bạc” cùng ăn thề uống máu với ông ỷ thế làm hư việc’ (14).

Về ông Minh, Kissinger đã từng phê ông ‘là con người yếu mềm nhất trong các bộ mặt chính trị’; còn TT. Thích Trí Quang lại bảo ‘Ông Minh không phải là một người làm chính trị sắc bẹn’ Vậy mà hoàn cảnh nghiệt ngã của đất nước đã mấy phen đưa ông trở thành kẻ phất cờ, kẻ cầm lái mặc dù ông không biết phất cờ, cũng không biết bến bờ con thuyền quốc gia phải tới! Thậm chí ngay cả khi ông không còn quyền lực, ông vẫn hưởng ‘dặc miễn’ là kẻ bất khả xâm phạm, bất chấp luật pháp quốc giạ Đúng như Lý Quí Chung, kẻ thân tín của ông, đã viết: ‘Dù biết rất rõ Dinh Hoa Lan đã trở thành trung tâm hoạt động nhằm lật đổ mình, nhưng ông Thiệu và tay chân vẫn không làm gì để vô
hiệu hóa trung tâm nạy Ông Thiệu có thể tố cáo Dinh Hoa Lan chứa chấp nhiều phần tử đang bị chính quyền truy nã và có thể xin lệnh tòa án lục soát Dinh Hoa Lan để làm ‘bể mặt’ ông Mịnh Nhưng ông chẳng làm gì hệt Tại sảo sự im lặng của ông Thiệu có thể được giải thích: Ông Minh là tướng lãnh đàn anh của ông Thiệu dù gì ông vẫn phải nhân nhượng; mặt khác ‘tấn công’ vào Dinh Hoa Lan là một xì căng đan chính trị hoàn toàn bất lợi cho ộng Ông Thiệu biết rằng ‘dụng" vào Dinh Hoa Lan sẽ không
được tòa đại sứ Mỹ tán đồng và làm bùng nổ sự chống đối ông mạnh mẽ hơn’ (15).

Miền Nam tự do mất đã hơn 30 năm, mỗi khi có dịp nhắc lại những chuyện như thế này, bản thân ‘thất phu’ chỉ còn biết thốt lên lời tuyệt vọng bi phẫn:

Hãy khóc lên hỡi quê hương yêu dấu!

Ôi! Phận nước sao điêu linh, khốn khổ đến nỗi vận mạng toàn dân, toàn quân miền Nam lại bị rơi vào tay những cấp lãnh đạo như thế đấy!

Chú thích:

1. Về cá tính mỗi nhân vật đã được chính khách nổi bật thời đó là cựu Đại sứ Bùi Diễm nhận xét như sau: ‘Ông Kỳ còn trẻ, hăng say, do đó mà nhiều khi thiếu thận trọng Nhưng ông là người bộc trực, ngay thẳng, hiểu việc nhanh và sẵn lòng chấp nhận những ý kiến mợi Những người chỉ trích ông thì cho rằng ông thích đóng vai ‘người hùng’ và ‘diếc không sợ súng’, song vì đã có dịp làm việc bên cạnh ông, tôi nghĩ rằng mặc dầu có vài khuyết điểm, ông không thiếu thiện chí và cũng không có ác ý với ại Ông có thể chấp nhận thử thách mà không suy nghĩ nhiều đến hậu quả sau này đối với bản thận Và ông cũng tin rằng phải xây dựng một chính phủ hợp hiến và cải cách xã hội, những điều mà ông đã mạnh dạn trình bầy ở hội nghị Honolụlu.

Trái lại, ông Thiệu đa nghi tính toán hợn Nhẫn nại, biết nhường nhịn nếu cần và chịu đựng nhất thời, ông được thiên hạ gán cho một đặc tính gọi mỉa mai là đặc tính ‘lị’
Ông chịu khó nghiên cứu tỉ mỉ mọi vấn đề lớn nhỏ và thói ‘lì’ của ông có thể là một lợi khí chính trị, nhưng về khả năng lãnh đạo thì dường như ông không muốn nhìn xa trông rộng để vượt lên trên những mưu tính nhỏ nhặt và thủ đoạn tầm thượng Tóm lại, ông không phải là nhân vật mà đất nước đang cận’ (Bùi Diệm Hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sự Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000. Trang 325).
2. Võ Long Triệu Hồi kí Cái Mốc Lịch Sự Tập I I, kì 3.
3. Võ Long Triệu Hồi kí Cái Mốc Lịch Sự Tập I, kì 5 và 6.
Thực ra đến ‘giờ thứ 25’ của Miền Nam, ông Kỳ còn tính đảo chánh ông Thiệu một lần nữa (Lý Quí Chụng Hồi Ký Không Tện Nhà xuất bản Trẹ Trang 341).
4. Tiền thân bí mật của Thành Đoàn vào khoảng 1960-1964 là các Ban Cán sự Sinh viên, Ban Cán sự Học sinh Khu Saigon - Gia Định; mặt nổi là Hội Liên Hiệp Thanh niên Sinh viên Học sinh Giải phọng
Thời gian 1965 - 1967: công tác SVHS do Khu Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng Khu Saigon - Gia Định lãnh đạo, gồm có các Đoàn ủy sinh viên, Đoàn Ủy học sinhThẹo Trần Bạch Đằng thì năm 1966,chính Nguyễn Văn Linh (Phó Bí thư Trung Ương Cục kiêm Bí thư Khu Saigon - Gia Định) đã khai sinh ra Thành Đoàn với nhiệm vụ đặc trách công tác vận động thanh niên, sinh viên, học sinh nội thành Săigon - Gia Định). Tên gọi chính thức là Thành Đoàn Thanh Niên Lao Động HCM năy là Thành Đoàn Thanh Niên CS HCM).
5. Năm 1970 tròn 18 tuổi, Nuôi được Thành Đoàn đưa ra chiến khu ở Mĩ Tho để kết nạp vào đảng CS. Sau 30.4.1975, Nuôi được bầu làm đại biểu Quốc hội CSVN khóa VI, đồng khóa với Huỳnh Tấn Mẫm, rồi Bí thư Thành Đoạn
6. Lê Văn Nuội Dùng Vũ Khí Nguyễn Cao Kỳ phá bầu cử tổng thống (Theo Nhịp Khúc Lên Đạng Nhà xuất bản Trẹ Trang 433).
7. ‘Má’, ‘các má’ là danh xưng sinh viên học sinh tranh đấu dùng để gọi các phụ nữ cũng ở trong tổ chức của VC hoặc là cảm tình viên đã cung cấp thực phẩm cho họ trong các cuộc tranh đấu kéo dài, hoặc là đang bị giam giữ; có khi những phụ nữ này làm
công tác giao liên, tàng trữ vũ khí, tài liệu, truyền tin hoặc cùng tham gia biểu tình, tuyệt thực, v.v...(‘các má’ tiêu biểu như: ‘Má ni sư’ Huỳnh Liên, ‘má’ Tư Điền (mẹ của 2 sinh viên VC Trần Thị Lan và Trần Thị Huệ), ‘má’ Ngọc Điền, ‘má’ Tám Anh,
‘má’ Mười (tức ‘má Mười 36 chợ’), ‘má’ Năm Đình, ‘má’ Thái Hòa, ‘má’ Phùng Đinh, ‘má’ Văn Hoa, ‘má’ Ngọc Hoa, ‘má’ Tư Nguyễn Trãi, ‘má’ Văn Vân (chủ tiệm ảnh Văn Vân đường Bùi Thị Xuân), ‘má’ Nguyễn Thị Chúc, ‘má’ Chín Bình, ‘má’ Nguyễn Long (vợ Ls. Nguyễn Long), ‘má’ Liên (vợ nhà văn VC Vũ Hạnh), ‘má’ Hai Bàn Cợ Ngoài ra còn có ‘các ba’, ‘các ngoại’ nựa
8. * Xin xem Diệu Ận Huỳnh Tấn Mẫm Một Đời Sôi Nội Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, 2008. Trang 116.
* Đọc thêm Lê Văn Nuội Bài đ
* Tác giả Nguyễn Văn Lục trong bài Mặt Trận Văn Hóa Và Những Thủ Tiêu Ám Sát Trí Thức Miền Nam (motgoctroicọm) đã trích bản thảo hồi kí Đời của cựu dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận, trang 142, cũng kể vắn tắt về câu chuyện ‘Nguyễn Cao Kỳ ‘xớt’
Huỳnh Tấn Mẫm’ này, chỉ khác vài chi tiết nhỏ: ‘Huỳnh Tấn Mẫm một lần nữa bị bao vây, truy bặt Trung tâm sinh viên Phật tử một lần nữa dậy sọng Một chiếc jeep nhà binh, ngay sau khi tôi “diệu” hết cảnh sát về Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đã ập vào trung tâm Quảng Đức, bốc Huỳnh Tấn Mẫm chạy thẳng về dinh Quốc khách ở góc đường Công Lý và Hiền Vương, nay là Trung tâm văn hóa thiếu nhi, góc đường Nam Kỳ khởi nghĩa-Võ Thị Sạu Chiếc jeep ập vào bốc Mẫm là của Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và dinh quốc khách lúc bấy giờ cũng thuộc quyền Phó tổng thong.Tiếp tay cho CS, như vậy, không chỉ có mình tội Và lần này vai chánh không là tôi, mà là tướng Nguyễn Cao Kỵ’
9. * Thiếu ta Trịnh Bá Lộc là tùy viên của ông Minh từ 58 - 64 và từ 68 tới chiều 29 tháng 4 năm 1975. Chiều 29.4.1975, ông Lộc di tản sang Mĩ; nay đã liên lạc lại với Huỳnh Tấn Mẫm (từ 2005). Trong bài viết, ông Lộc làm như không biết Mẫm là một VC thuộc Thành Đoàn, có nhiệm vụ hoạt động nội thành trong môi trường đại học (Xin đọc Trịnh Bá Lộc SV Huỳnh Tấn Mẫm và Cái Gọi Là ‘Saigon et Moi’ trên Calitodaycọm) .
* Xin đọc Diệu Ận Sd Trang 128.
10. Trong loạt bài 20 Năm Giới Trẻ MNVN, tác giả Nguyễn Văn Lục cho biết năm 2005, chính Lý Chánh Trung tiết lộ hồi 1968 ông Trung đã được bí mật đưa vào Khu gặp Huỳnh Tấn Phát và từ đó hoạt dộng mặt nổi cho MTGPMNV N.
11. Nguyễn Ngọc Lan (cựu linh mục) vào khu năm 1968 gặp Trần Bạch Đằng cùng đợt với gs. Châu Tâm Luân, Cao Hoài Hà, nhà văn Thiếu Sơn, gs. Nguyễn Văn Chì, Lê văn Chi,Trần Bạch Đặng Cuộc Đời Và Ký Ực Nhà xuất bản Trẹ Trang 186). Khi ông Lan
chết, Trần Bạch Đằng viết điếu văn tuyên dương công trạng như sau: ‘Từ năm 1968 cho đến 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Ngọc Lan trước sau vẫn có mặt trong đội ngũ xung kích của những người yêu nước tại thành phố ’.
12. Trong bài ‘30.4.1975, Ông Dương Văn Minh Và Tôi’, tác giả Nguyễn Hữu Thái xác nhận mình là người Mặt Tận Giải Phóng đưa ra tranh cử dân biểu Quảng Nam, nhưng thất cự
13. Lý Quí Chụng Hồi Kí Không Tện Trang 270.
14. Võ Long Triệu Hồi Kí Cái Mốc Lịch Sự Tập I, Kì 16.
15. Lý Quí Chụng Hồi Kí Không Tện Trang 306.
Bún Bò Huế

Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng.. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch).

Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào.

Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là "mình cảm thấy..." mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa...

Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas . Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh Bà Bún.

Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên...” là đẹp nhất.
Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày 19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.

Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu năm của mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù.

Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm.. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo.

Sau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn.

Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù.. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà.

Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh... nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.

Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:

Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền... nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại... Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.

Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc..

Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.

Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất.

Từ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc. Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn.

Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ.

Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang... có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc..

Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô.

Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.

Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.

Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc.... Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò... và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.

Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị... đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas .

Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ăn năn:

- Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua!

Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp.. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích:

- Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được!

Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời. Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh... tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân. Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và phổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.

Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, "bún bò Mụ Rớt".
“Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”.

Chừ ri hỉ....!
Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.
Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ... Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang "mả ông trạng" sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối "hữu xạ tự nhiên hương", không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.

Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:
- Mấy o, mấy cậu thời bún chi?

Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:
- Dạ, cho mấy tô bún nước

Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.

Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.

Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng "gia vị bún bò bắc đẩu", nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!

Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen... là những biểu hiện thường tình trước tô bún.

Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm... đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.

Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình.. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.

Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ... Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.
Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.

Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy.
Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”.

Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.

Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.

Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.

Ngoài ra, rau hành, gia vị... thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn.... mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.

Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”: “Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX - 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Fried Chicken của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu... đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh
Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu "càng cua", cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.

Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm.. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:

- O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng...

Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.

Một lát sau o mới hỏi:
- Ai ăn rứa?

Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:
- Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.

Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:
- Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!

Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”... bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:
- May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!

Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.

Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt.. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ... làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.

Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:
- Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!

Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:
- Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.

Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó.

Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời:
- Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt..

Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi... suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh... Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng.

Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần

Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ.. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.

Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là "Đường Cơm Hến" và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là "Đại Lộ Bún Bò" vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ... Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.

Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng.. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây "sên", trong "ổ líp". Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp... đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.

Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe.. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:
- Ngó dữ chưa tề, dị chết!

Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:
- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!

Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:
- Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.

Cái "ớn phát sợ" của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một "múi đũa" ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!

Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng "thương con đường đi học".. Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn.. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới "xui" về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d'Arc để chuẩn bị đi Tây.

Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: "Partir, c'est mourir un peu!... Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!". Tôi là học trò ban B (Toán - Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai.. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.
Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:

Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương
Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não
Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão
Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ...

Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.

Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh "thương bắt chết" vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món "bún bò Huế chính gốc". Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:
- Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!

Tôi cười cười nhắc lại:
-Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?

Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư "nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm" và ánh lên màu kỷ niệm:
- Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!

Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:
- Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!

Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:
- Thơ của ai rứa Hoàng?

Hoàng trả lời “mần đày”:
-Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!

Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm.

Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình.

Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật.... Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp.

Xuân Hoàng

Friday, October 16, 2009

ĐI NGANG…VỀ TẮT

* Hiệp Khách *
09/2009

Nhiều người ví hoàn cảnh chính trị hải ngoại giống như một “chốn giang hồ”. Nơi đây, các “danh môn chính phái” cùng với “tà ma ngoại đạo” và “36 đảo 72 động” đều diễu võ dương oai, tạo cho giang hồ những chuyên: “gió tanh mưa máu “, “kinh thiên động địa”, “đổi trắng thay đen”, “lừa thầy phản bạn”. Nguy hiểm nhất là các “Ngụy quân tử” kiểu Nhạc Bất Quần, miệng hô hào chống Công, nhưng hai tay lại âm thầm móc nối Nghị quyết 36 của CS.

Câu chuyện Đài VN hải ngoại là một câu chuyện vừa… làm giật mình vừa đau lòng. Hóa ra bao nhiêu năm nay, tiền bạc của dân tỵ nạn ủng hộ, quyên góp để xây dựng tiếng nói của người Việt hải ngoại, đã được dùng để đâm sau lưng người Việt hải ngoại, dùng để mở tiệc lớn tiệc nhỏ chiêu đãi các cán bộ lớn nhỏ của chính quyền CS, dùng để mua chuộc, móc nối các thành phần quốc gia mong nhuộm đài VNHN thành “màu máu”, thực hành đúng theo kế hoạch “Vết dầu loang” của Nghị quyết 36.

Đọc lá thư của ông Giám Đốc chương trình Lê Hồng Phúc, mọi người mới… bật ngửa. Hóa ra không biết từ bao giờ, ban điều hành của đài, từ ông Ngô Ngọc Hùng, Tổng Giám Đốc , tới ông Dương Văn Hiệp, Giám Đốc giao tế, bà Lưu Lệ Ngọc, Giám đốc tài chánh đều gọi là “tiếp cận để chiêu hồi” cán bộ giới chức CS VN. Họ đang tìm cách móc nối nốt ông Lê Hồng Phúc, Giám đốc chương trình bằng cách mời ông Lê Hồng Phúc tới tham dự tiệc linh đình, ngồi đối diện với Đệ Tam Tham tán VC Nguyễn Sỹ Tuế, để tiện xã giao trò chuyện, và trao đổi danh thiếp. Không may cho họ , ông Lê Hồng Phúc giữ vững lập trường chống Cộng, và để tránh ngộ nhận, ông xin từ chức ngày 6/15. Tới lúc đó câu chuyện vẫn còn được giữ kín trong vòng nội bộ, có lẽ vì lý do gọi là “nhậy cảm”. Tới ngày 17 tháng 9 do nội bộ không dàn xếp ổn thỏa, ông Lê Hồng Phúc gửi bức thư trần tình lên các diễn đàn.

Nực cười nhất, là để trả lời lá thư của ông Lê Hồng Phúc, ông Ngô Ngọc Hùng cũng gửi một lá thư giải thích trên đài, trong thư, ông giới thiệu thêm một nhân vật nữa vào “bảng phong thần”. Nhân vật này, ai có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng hành tung “xuất qủy nhập thần” của ông. Lớn lên ở Việt nam Cộng hoà, thành bác sĩ thì “đi đạo theo” để tiến thân, lấy vợ là con nhà lớn trong đảng Dân chủ của ông Nguyễn Văn Thiệu. Tóm lại thì thành người là nhờ Viêt nam cộng hoà, nhưng hồn phách lại xuất về XHCN để nhận chỉ thị của nhà nước. Mọi người biết tới ông qua các bài y tế đăng trên các báo, đầu tiên là các bài về tình dục tuổi già. Ông ít xuất hiện trước đám đông, không tuyên bố ồn ào, chỉ âm thầm lỉm dỉm đi đêm với ma. Đó là ông bác sĩ Nguyễn Ý Đức. Ông Ngô Ngọc Hùng nói rõ ràng trong bức thư là đã sang Ba Lan với B/S Đức, được B/S Đức giới thiệu với các cán bộ CS và còn nói thêm là B/S Đức quen biết với nhiều cán bộ CS cỡ lớn lắm.

Trong bài phỏng vấn với cô Lan Chi, tuần báo Sóng Thần, ông Đức xác nhận đã cùng ông Ngô ngọc Hùng cùng một thân hữu mướn xe lái từ Đức qua Ba Lan rồi qua Tiệp Khắc. Hai ông đã gặp đủ thành phần VC. Có người đã bỏ đảng, có người sắp bỏ đảng, có người chưa dám công khai chống đảng vì còn có thân nhân ở VN. Ngoài ra, do đi chơi với ông chủ nhiệm báo “Đàn Chim Việt” ông đã tiếp xúc với nhiều người, chỉ biết tên mà không biết họ là ai, làm gì, vì họ không nói. Ông cũng giải thích mục đích của ông là “tiếp cận để chiêu hồi” cán bộ CS...

Xưa nay, các nước Ba Lan và Tiệp Khắc đông đảo người Việt trong vòng kiểm soát của chế độ Hà nội đã là nơi nhà cầm quyền VN điều động các cán bộ của họ trong công tác len lỏi ra các cộng đồng hải ngoại, mà trước hết là Âu châu. Ông Đức không nhận là người hoạt động chính trị mà đi sang các nơi lạ nước lạ cái này để chiêu hồi những người mà ông không biết rõ do người “thân hữu” dẫn đường, thì phải kể là loại xuất chúng lì lợm.

Về lời phát biểu của ông Ngô Ngọc Hùng rằng: “ B/S Nguyễn Ý Đức rất thân mật với các đảng viên CS”, ông Đức đặt câu hỏi rất “ngây thơ” rằng “tôi không biết rõ lý do hay ẩn ý gì mà đưa những chuyện ấy lên, lại vào thời điểm này. Tôi hỏi thì ông ấy chỉ cười cười… và lảng tránh.” Nếu ông B/S Nguyễn Ý Đức không hiểu hàm ý của… cười cười và lảng tránh thì xin giải thích dùm ông: Ý ông Ngô Ngọc Hùng nói rằng: chính ông (B/S Nguyễn Ý Đức) là đầu dây mối nhợ của những rắc rối ngày hôm nay. “Ông rù rì, ông móc nối, ông mai mối, ông dẫn đường”. Ngày hôm nay, ông Ngô ngọc Hùng đang ruột rối như tơ vò, vì đài radio VNHN xây dựng từ lâu và đài truyền hình VNHN đang hứa hẹn một tương lai tiển bac rực rỡ bỗng đen thui vì kế hoạch gọi là chiêu hồi VC vỡ lở . Khai ông ra để mong ông ghé vai chống đỡ được chút nào hay chút đó, thì ông “vô tư” nói như người ngoại cuộc từ xa cộng tác với đài VNHN. Luật giang hồ ăn chung thì phải chịu chung chứ, ông Đức bỏ đi đâu?

Đạp bỏ một thằng em thì không khó. Nhưng khoả lấp cho những hành động của mình thì không dễ dàng trước các câu hỏi đơn giản nhưng lịch sự chĩa thẳng vào ông của cô Hoàng Lan Chi. Ông B/S Đức nhận có về VN nhiều lần, có dậy ở trường Đai Học Y khoa VN, mục đích là để giúp đỡ cho hậu thế vì trình độ Y khoa của VC hơi yếu kém (!), trong khi ông chưa từng dậy học bao giờ ở Mỹ cũng như ở VNCH. Ông cũng nhiều lần về VN làm các công tác nhân đạo, mà ông nói là để có cơ hội vạch rõ cho người dân thấy thế nào là tự do dân chủ (?) vân vân và vân vân. Làm sao ông có thể làm những chuyện này, khi mà ông trước kia là công giáo đảng viên Dân chủ thứ lớn?.

Trong cuộc phỏng vấn, nhiều khi ông né tránh câu trả lời bằng những lý do “ không có mặt, không biết, không dám võ đoán.” Chỉ tiếc rằng cô Lan Chi không đưa ra câu hỏi về chuyện ông lén lút đón tiếp Nguyễn Đình Bin, thứ trưởng Ngoại Giao của VC công du sang Mỹ để mà những người bạn của ông biết rõ chuyện này trả lời dùm. Nếu tính theo thời gian thì có thể đoán rằng nhóm trách nhiệm của Đài VNHN mới bị chao đảo từ vài năm nay, nhưng B/S Nguyễn Ý Đức thì đã “bán linh hồn cho quỷ sứ” ít ra là 15 năm, vì người ta còn nhớ rằng ông từng viết bài miệt thị những người HO đầu tiên sang Mỹ là không ở lai giúp nước. Vì thế nhiều người nghĩ rằng, ông NYĐ chính là người dẫn mối cho VNHN vào đường “tiếp cận để chiêu hồi”. Cháy nhà ra mặt chuột là như thế đấy.

Source :http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com/

Thursday, October 15, 2009

PHẠM THIÊN THƯ và NGÀY XƯA HOÀNG THỊ

Với nhiều người thì "Ngày xưa Hoàng thị" (kể cả thơ lẫn nhạc) từng là một tuyệt tác. Nhưng với chính nhà thơ Phạm Thiên Thư thì “đó chỉ là những kỷ niệm dĩ vãng, mối tình thoảng nhẹ vu vơ của thời trai trẻ”.

Quê ông ở Kiến Xương- Thái Bình nhưng ông sinh ra ở Lạc Viên- Hải Phòng. Năm 1954, khi mới 14 tuổi, ông theo cha mẹ di cư vào miền Nam, ngụ tại căn nhà gần khu Tân Định- Sài Gòn.

“Tôi vẫn nhớ tới căn nhà những ngày ấy, đó là một căn nhà nhỏ nằm đằng sau chợ Tân Định. Cha tôi xin cho tôi học tại trường Trung học Văn Lang cách nhà chừng non một cây số. Tôi đã học hết tú tài ở đó”.

Ông nhớ lại: Cũng trong những năm học tú tài này, ông đã để ý một cô bạn học cùng lớp tên là Hoàng Thị Ngọ, cô gái đó quê gốc Hải Dương, ở gần nhà ông. Nhưng chỉ là để ý thôi chứ không dám ngỏ lời.

Ngày xưa Hoàng thị

Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng

Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài

Anh đi theo hoài
Gót giày thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng

Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn

Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng

Lòng sao rưng rưng
Như trời mây ngợp
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần

Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuốn vở

Thương ơi! Vạn thuở
Biết nói chi nguôi
Em mỉm môi cười
Anh mang nỗi nhớ

Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau
Ơi mối tình đầu
Như đi trên cát

Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng hòa mau...
Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ

Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng dáng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu

Chân theo tìm nhau
Còn là vang vọng
Đời như biển động
Xóa dấu ngày qua

Tay ngắt chùm hoa
Mà thương mà nhớ

Phố ơi! Muôn thuở
Giữ vết chân tình
Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng ai nho nhỏ
Trong cõi xa vời.
Tình ơi!... Tình ơi!...

Hàng ngày, khi xếp hàng vào lớp, cô gái đứng ở đầu hàng bên nữ, nổi bật, mái tóc dài xoã trên bờ vai mảnh dẻ. Ông chỉ im lặng ngắm nhìn. Rồi khi tan trường, cô gái một mình trên đường về nhà, ông lại là kẻ lẽo đẽo theo sau.

"Cô ấy ôm cặp đi trước, tôi đi theo nhưng không dám lên tiếng. Trong bóng chiều tà, ánh nắng hắt qua hàng cây, cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Cứ thế,20tôi chỉ biết lặng lẽ đi theo sau cô ấy hàng ngày, giấu kín những cảm xúc của mình không cho bất cứ ai biết”.

Sau khi học xong tú tài, khác với nhiều người, Phạm Thiên Thư chọn cửa Phật làm chốn dừng chân. Ông theo học trường Phật học Vạn Hạnh, gửi hồn trong lời Kinh tiếng Kệ.

Thế nhưng mỗi khi đi ngang con đường một thủa, hình ảnh cô gái với mái tóc xoã ngang vai lại hiện về trong ông. Và trong một lần đắm chìm trong cảm xúc ấy, ông đã cầm bút viết lên bài thơ Ngày xưa Hoàng thị: “Em tan trường về- Đường mưa nho nhỏ - Chim non giấu mỏ - Dưới cội hoa vàng…”.

Ông tâm sự: “Đây không phải là bài thơ đầu tay của tôi. Cha tôi tuy làm nghề thuốc nhưng ông có làm thơ, tôi còn nhớ ông đã từng đạt giải Nhì về thơ20do một tờ báo ở Hà Nội trao tặng.

Khi còn nhỏ tuổi tôi cũng đã làm vài bài thơ và được cha tôi khen. Nhưng tôi làm thơ chủ yếu để trải lòng mình chứ không làm thơ chuyên nghiệp.

Vì vậy mãi đến năm 1968, tôi mới tự xuất bản tập thơ đầu tiên. In ít thôi, chủ yếu để mình đọc và tặng một số bạn bè thân. Tôi chẳng muốn nhiều người biết về mình”.

“Thế khi nào mọi người mới biết tới những bài thơ của bác?”- Tôi hỏi.

Phạm Thiên Thư trả lời: “Ấy là khi chúng tôi nhờ nhạc sỹ Phạm Duy phổ nhạc 10 bài Đạo ca do tôi viết lời, Phạm Duy gặp và tình cờ đọc được tập thơ của tôi.

Tôi cũng không nghĩ nhạc sỹ lại thích bài thơ Ngày xưa Hoàng thị đến thế, ông đề nghị ph5 nhạc bài thơ đó. Dĩ nhiên được một nhạc sỹ nổi tiếng như Phạm Duy để ý đến bài thơ của mình thì có gì hạnh phúc bằng.

Và tôi cũng bất ngờ nghe lại bài thơ của mình khi đã phổ nhạc. Nhạc sỹ đã tôn bài thơ lên rất nhiều qua những giai điệu nhạc bay bổng”.

Vào những năm 70, bài Ngày xưa Hoàng thị đã trở thành một hiện tượng tại miền Nam Việt Nam. Ca sỹ Thanh Thúy là người đầu tiên thể hiện bài hát này và sau đó nhiều ca sỹ khác cũng chọn bài Ngày xưa Hoàng thị để hát, tạo thành trào lưu.

Thậm chí báo chí Sài Gòn cũng vào cuộc, nêu câu hỏi “Nhân vật chính trong Ngày xưa Hoàng thị là ai?”. Một số người tự nhận mình là nhân vật của bài thơ, số khác thì phân tích bài thơ rồi cho rằng nhân vAt chính trong bài thơ là cô A, cô B nào đó...

“Ngày đó báo chí cũng gặp tôi hỏi chuyện tôi nói rằng đó là cô Hoàng Thị Ngọ nhưng không biết tại sao nhiều người vẫn không tin”. Ông bảo.

Nhạc sỹ Phạm Duy còn phổ nhạc thêm một số bài thơ tình khác của ông như Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đoá tình sầu, Em lễ chùa này…

Căn nhà của ông giờ là một quán cà phê nhỏ mang tên “Hoa vàng”, có lẽ ông lấy từ bài “Đưa em tìm động hoa vàng” để đặt tên.

Quán nhỏ nhưng bài trí khá đẹp nên khá đông khách. Có lẽ ít ai vào quán lại để ý tới một ông già có dáng như một lão nông hay ngồi lặng lẽ trong góc nhà lại chính là nhà thơ Phạm Thiên Thư.

Ông cười: “Thì tôi đâu dám nhận m=C 3nh là nhà thơ”. Biết chúng tôi đang tìm hiểu về bài Ngày xưa Hoàng thị, cô con gái của ông tinh ý mở lại bản nhạc. Giọng ca của Thanh Thúy cất lên: “Em tan trường về- Đường mưa nho nhỏ…”

Ông buông bút, nhắm mắt. Có lẽ ông đang hồi tưởng về những ngày xa xưa, những ngày trên con đường trải nắng vàng, một chàng trai trẻ lẽo đẽo theo chân cô gái tên Ngọ có mái tóc dài xoã ngang vai… để rồi làm nên những vần thơ lung linh và xót xa đến thế.

Trọng Thịnh (Theo Tiền Phong)

Wednesday, October 14, 2009

Truyền thông có nhiệm vụ “chiêu hồi” Tham tán Tòa Đại Sứ không ?

Hoàng Lan Chi

Thế hệ một rưỡi, chúng ta làm gì với họ?

Khi tôi viết “Những người trẻ muốn vào hang cọp” thì chỉ một tựa đề cũng qúa rõ. Tôi phê bình việc dấn thân vào hang cọp để bắt cọp con của những người “trẻ 50 tuổi” qua Hoa Kỳ năm họ chưa đủ 18. Tôi chỉ nói đến khía cạnh đó mà thôi. Tôi không nói đến thế hệ 1,5 hay 2 ở xứ người.

“Những người trẻ 50 tuổi” có lập trường vững vàng, không bao giờ có ý định giao du với VC cao cấp của Tòa Đại Sứ để “chiêu hồi” chúng cả. Điển hình là Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh. Cô xác định rõ ràng tư thế, vị trí của một người tị nạn cộng sản trên đất nước Hoa Kỳ. Trong ph m vi nghề nghiệp, cô cố gắng và đã đem hãnh diện cho cộng đồng người Việt. Trong phạm vi gia đình, cô gìn giữ những truyền thống đạo đức tốt đẹp và hướng dẫn cho các con hiểu đúng đắn về lịch sử, cội nguồn. Cô không ôm cái ảo tưởng “chiêu hồi” cán bộ cấp cao của Tòa Đại Sứ. Khi đi nói chuyện, cô khéo léo kể về quá khứ, về những gì cô chứng kiến, kinh nghiệm cá nhân cô đối với cộng sản và đó là cô đã thực hiện một phần trách nhiệm một người Việt Nam chân chính. Là công dân Hoa Kỳ, cô đóng góp cho xứ sở này tài năng của cô và cũng chính tài năng đó là niềm tự hào của chúng ta với người Hoa Kỳ. Vậy thì người trẻ 50 tuổi khi sang Hoa Kỳ tuổi lên mười thì sống và làm việc như cô Dương Nguyệt Ánh là rất đúng.

Suy nghĩ về thế hệ 1,5 là một điều làm nhức nhối tâm can chúng ta. Sự khác biệt của hai nền giáo dục là trở ngại lớn. Đối phó với trở ngại này trong phạm vi gia đình đã làm các bậc phụ huynh quá đau đầu trong khi phải lo sinh nhai. Làm sao cho con trẻ nói tiếng Việt trong nhà là đã khó, nói gì đến những việc lớn lao hơn là giúp họ học sử Việt đúng đắn, giúp họ nhận thức chính xác về cuộc chiến vừa qua. Bên cạnh đó làm sao ngăn cản được họ không bị nhiễu thông tin từ những tài liệu của thư viện Mỹ. Tôi không bao giờ quên được buổi gặp gỡ đầu tiên của tôi với cô Dương Nguyêt Ánh năm 2005 “ Em rất đau lòng khi con cái chúng ta bị học sai lạc từ học được của Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh quốc cộng”.

Thuyết phục thế hệ này tham gia các sinh họat cộng đồng và sau đó thay thế cha anh đảm trách nhiệm vụ như ÔB Đinh Hùng Cường (Virginia) đã làm cho các con ông cũng đã coi như một kỳ công rồi. Ví dụ cụ thể, từ 2008, tổ chức ngày July 4th ở DC , Ông Đinh Hùng Cuờng đã trao lại cho thứ nữ và cô làm rất thành công với tinh thần trách nhiệm cao.

Làm gì để thế hệ một rưỡi chịu nghe chúng ta và cùng họat động chung với cha anh trong công cuộc đấu tranh cho quê hương, chúng tôi sẽ lần lượt phỏng vấn nhiều người và sẽ gửi các thông tin lên đây.

Nhiệm vụ chính yếu của một Đài Phát Thanh

Về Đài VNHN, vụ vừa qua, tôi chưa có một kết luận chính thức vì hòan tòan chưa có đối chất công khai giữa hai bên. Tôi chỉ bày tỏ sự phản đối hành vi (mà) tôi cho là “bịt miệng” ông Huỳnh Quốc Bình. Tuy vậy, Ô Ngô Ngọc Hùng đã hỏi tôi hai câu như sau:

1) “Lỡ gặp bà con du lịch Hoa Kỳ ở Eden thì làm sao gặp gỡ họ mà không bị chụp mũ”!

2) Trong email gửi ra về chuyến đi Ba Lan trước đây Hùng có viết như sau :

Trong những cuộc tiếp xúc chúng tôi có nhận định như sau:
- Có những đảng viên CS là người yêu nước, họ lo lắng cho đất nước và dân tộc
- Có người đã bỏ đảng và hoạt đông công khai như anh Lê Diễn Đức
- Có những người đang hoạt động ngầm vì còn có gia đình tại VN
- Có những người chưa hoạt động nhưng đang có những dự định khi thời gian tốt hơn

Thưa chị Lan Chi, nhóm người thứ 1 và nhóm thứ 4 là 2 nhóm cần được vận động mạnh mẻ để chiều hồi về chính nghỉa quốc gia. Với 2 nhóm trên, Hùng chỉ vận động cho họ về phe chúng ta khi gợi ý về những ngày Balan trước và sau cộng sàn qua những câu hỏi của Hùng cho họ. BS Nguyễn Ý Đức lại bỏ qúa nhiều thì giờ để để lôi kéo họ qua những câu chuyện gia đình, con cái, quê hương Bắc Kỳ, các món Bắc... Quá thân thân thân....Tốn nhiều thì giờ...Theo tôi phải dành nhiều thì giờ để đi đạp đầu tượng Lenin ... vẩn còn tại các công viên.... Trả thù dân tộc ( một cách đạo đức )

Nếu chị phải rơi vào hoàn cảnh nầy chị sẻ làm sao?

Tôi hứa trả lời sau vì câu này chả có gì phải suy nghĩ nhưng là tôi muốn viết thành bài để chia sẻ với thân hữu khắp nơi.

Về việc cảnh giác với VC, cá nhân tôi suy nghĩ rằng người bình thường cũng phải có sự cảnh giác đối với các thủ đọan của VC, đừng nói gì đến người đứng đầu một tờ báo, một Đài Phát Thanh chống cộng nhất nhì ở hải ngọai.

Ở cương vị ông Ngô Ngọc Hùng, đương nhiên không nên về Việt Nam dù VC có cho về! Với bọn lưu manh đó, chúng không ngại gì dàn cảnh một tai nạn xe cộ. Lý do, Ngô Ngọc Hùng chưa là cá đủ mập để VC sợ dư luận quốc tế! Ngay cả khi công tác nước ngòai như Thái Lan, Âu châu, Ngô Ngọc Hùng cũng phải cẩn thận vì làm “săng ta”, cài sinh tử phù là chuyện quá dễ dàng với VC!

Việc gặp gỡ thân nhân: Với bà con bình thường, Ngô Ngọc Hùng có thể tiếp tại nhà. Với những người đang giữ địa vị cao và nhất là trong ngành ngọai giao như Đệ tam tham tán của Tòa Đại Sứ VC, dứt khóat không tiếp tại nhà và cả nơi công cộng. Vô tình gặp cũng làm ngơ. Tôi nghĩ rằng, đã làm công tác đấu tranh thì phải hy sinh một phần cá nhân. Cha đau mẹ chết cũng không thể về! Và tôi nghĩ rằng các bậc cha mẹ cũng không hề ép con cái phải về khi biết con mình đang giữ trên mình trọng trách cho đại cuộc.

Năm 2005, khi tham dự buổi bầu cử của Tổ Chức cộng đồng Việt Nam Hoa Kỳ, tôi rất đồng ý khi một quy định được biểu quyết “Nếu đắc cử vào bất cứ ban nào, cá nhân người đó không được về Việt Nam trong nhiệm kỳ của mình”. Điều đó rất đúng vì chỉ nhằm mục đích bảo vệ người mình không bị VC cấy sinh tử phù!

Về nhiệm vụ của một cơ quan truyền thông đấu tranh, tôi nghĩ rằng, bên cạnh việc không ngừng nâng cao phẩm chất nội dung chương trình, bên cạnh những nỗ lực tìm quảng cáo duy trì hoạt động cho đài, thì chủ yếu là yểm trợ các công tác đấu tranh. Đó là kêu gọi đồng bào tham gia biểu tình, dành giờ cho các Tổ Chức Cộng Đồng, đoàn thể đấu tranh. Bằng ấy việc nếu l àm cho tròn thì cũng mất rất nhiều thời gian và công sức. Việc tíếp xúc tìm hiểu với chiêu bài “chiêu hồi”, thiển ý cá nhân tôi không nằm trong phạm vi hoạt động của một cơ quan truyền thông nhỏ bé. Nếu ông Ngô Ngọc Hùng muốn tìm hiểu giới trẻ thì nên tham gia các diễn đàn có cả các thành viên trẻ trong và ngoài nước. viết bài, tranh luận ở các diễn đàn này có cơ hội gửi thông diệp đến cả ngàn người!

Đặc biệt có cả các thành phần thanh niên trong nước trung lưu, tầng lớp mà chúng ta cần cấy những mầm dân chủ tự do. Họ không phải đảng viên, không chức cao quyền trọng, họ sẽ thấm nhuần và có thể giúp chúng ta phổ biến những điều đó đến dân chúng theo cấp số nhân!

Việc tiếp xúc với Đệ tam tham tán của Tòa Đại Sứ Vc được giải thích là tìm hiểu để chiêu hồi, ai cũng thấy thật yếu ớt và có phần coi thuờng thính giả. Tầng lớp này cũng như thành phần du học tự túc hay học bổng của nhà cầm quyền cộng sản là những thành phần khó bỏ đảng.

Huống chi như tôi đã viết, ông Ngô Ngọc Hùng qua Hoa Kỳ từ khoảng mười tuổi, tốt nghiệp kỹ sư trước khi dấn mình vào công cuộc đấu tranh cho quê hương xuyên qua vũ khí truyền thông thì ông không hề được đào tạo qua bất cứ một trường lớp chính trị, một khoa lý luận nào. Đó chính là điều tôi nói: vũ khí sơ sài mà đòi vào hang cọp bắt cọp con!

Như vài vị cao niên nhận xét, sự việc vừa xảy ra là một bài học cho các vị trong Ban Giám Đốc VNHN khi các vị chơi dao! Các vị còn non nớt quá mà dám đương đầu với lũ gian manh VC bằng hành động vào hang cọp giao du với cọp con!

Một bài học nữa cho những ai hoang tưởng vào hang cọp để bắt cọp con!

Blog Archive