Wednesday, September 30, 2015


Tùy Bút Võ Phiến –  Rụp Rụp
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết báo một tin buồn:
“Nhà văn Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/215048-voPhien-400.jpg
Nhà văn Võ Phiến

Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). 

Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.

Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... 

Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.”

Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này  được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng  xuất bản lần vào năm 1973.
Tưởng Năng Tiến

***
Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.

Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Đông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1) 

Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!

Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.

Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, không vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.

Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công việc. Động tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao động. 

Đứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.

Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:

- Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.

- Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.

- Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại...

Bà vợ nhắc:

- Hăm bảy.

- Hăm bảy. Nè!

Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...

- Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!

Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.

Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ - ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. - đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.

Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.

Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.

Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm... A! Đây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.

Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.

“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.

- Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Đâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?

- Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác...

- Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng. 

Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.

Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.

Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch... luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.

Không chừng đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng “vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô: “Dô!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”, “uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu, uống.

Trong “chạy luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu vô”, nghĩa ở nhậu v.v. Còn tiếng “luôn”? Nó thêm vào một thái độ phát biểu, không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu. Trong “chạy luôn” chẳng hạn, “luôn” là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó phát lên để tỏ thái độ thúc giục, nó không nói gì về cái nội dung của sự thúc giục ấy. Nó có công dụng về ngữ khí, chứ không phải về ngữ ý.

Như vậy trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết, đôi khi bị lướt qua; cái phụ, có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.

Lại cái thừa thãi.

Trong cử chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết; trong lời nói, cũng một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói đều được phóng đại lên...

- Vẫn không có gì rõ rệt.

- Không rõ, về mặt nào?

- Một dấu hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy không mấy cụ thể.

- Thực ra ở đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm nữa? Đã có sự khác nhau thật rõ ràng, thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch làm cho đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi dài thêm.(2) Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết ngay. 

Vậy ở đây không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt. Chẳng qua là chộp bắt một nét cá tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và hình như sự phản ảnh không dừng lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như trên sân khấu cải lương, một bộ môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng nhận thấy cá tính ấy xuất lộ ở phong cách diễn xuất...

- Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.

- Quả nhiên.

Võ Phiến

________________
(1) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.

Cách Chùi Rữa Nồi Chảo Bị Cháy Dễ Dàng

Với bàn tay khéo léo của bạn, lâu lâu cái chảo ông xã mua tặng hồi sinh nhật nó ra như vầy.... 


Theo như cô Jill Urban, thay vì bạn bỏ nhiều công để chà nó, bạn có thể lấy một tấm "giấy thơm" dùng xấy quần áo để giúp tẩy vết cháy 


đổ nước và một ít xà bông rữa chén vào chảo 


đặt miếng giấy thơm xấy quần áo vào chảo, để ngâm ít nhất là một tiếng, hoặc qua đêm 


Sau đó đổ nước ra và dùng xà bông chùi lại 




Aha!.... Cái chảo đã được cứu! 


Theo như trong video, hình như cô Jill Urban đã dùng loại giấy thơm này của hãng bounce, ACE có thể thí nghiệm với giấy thơm xấy quần áo mà mình đang có. 

Tuesday, September 29, 2015

Cây cầu "biến mất kỳ diệu" ở Đan Mạch và Thụy Điển

Cây cầu độc đáo này đi xuyên qua một đường hầm dưới biển nối liền thủ đô Copenhagen của Đan Mạch và thành phố Malmo của Thụy Điển.


Được khai trương vào 1/7/2000, cây cầu Oresund đã đi vào huyền thoại và là một trong những trải nghiệm mà bất cứ ai cũng muốn được thử qua.


Cầu Oresund trải dài khoảng 8 km trên mặt biển rồi hạ dần độ cao và bỗng 'lặn' mất tăm dưới mặt nước.




Thực chất, nó chạy tiếp vào một đường hầm dài tới 4 km được xây trên một hòn đảo nhân tạo dưới eo biển Flint.


Chiều cao của cầu ở những đoạn nổi trên mặt nước được tính toán sao cho tàu biển cỡ nhỏ và vừa đều có thể chui qua được.




Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư người Đan Mạch George K.S. Rotne.




Hà Đan (theo Oresundbron)
Sống Lại Mùa Tết Trung Thu

Phùng Annie Kim


Nhìn vầng trăng đêm nay trên bầu trời xứ Mỹ mà nhớ...” chuyện bể dâu, viế cho đêm trung thu. Tác giả là một nhà giáo, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Viết Về Nước Mỹ 2014, với 14 bài, trong đó có bài “Chú Lính Mỹ,” Phùng Annie Kim đã nhận giải danh dự. Sang năm 2015, cô nhận thêm giải “Vinh Danh Tác Phẩm”.

* * *
Xứ ta có lắm mùa để vui chơi gọi chung bằng chữ “Tết”. “Tết” do chữ “tiết” là tiếng Hán Việt đọc trại ra có nghĩa là thời gian được ấn định trong một năm. Đầu năm mới ta có Tết Dương Lịch còn gọi là Tết tây để phân biệt với Tết ta là tết Nguyên Đán, tháng năm có tết Đoan Ngọ, tháng tám có Tết Trung Thu. Tuy tiếng Hán Việt thành hình là do chịu ảnh hưởng một ngàn năm đô hộ phương Bắc nhưng tổ tiên ta vẫn giữ được tinh thần độc lập, tự chủ bằng cách tạo ra một thứ chữ riêng gọi là chữ Nôm thành hình từ thời nhà Đinh, qua bao triều đại Lê, Lý, Trần, Nguyễn...

Mùa Tết Trung Thu sắp đến. Hai chữ “Trung Thu” khi đã dùng quen, dịch sang tiếng thuần Việt như “Tết giữa mùa Thu” thì mất ngay cái tên đẹp và nét trang trọng của nó. Có khi ai đó muốn Việt nam hóa để có sự trong sáng trong tiếng Việt, vô tình nó trở thành dung tục, lạ lẫm, ngô nghê, nửa nạc nửa mỡ như sau một chín bảy lăm xuất hiện các từ như “chiến sĩ gái”, “xưởng đẻ”, “máy bay lên thẳng”, “lính thủy đánh bộ”... Cho nên muốn thay đổi một thói quen trong cách sử dụng ngôn ngữ không dễ gì được quần chúng chấp nhận và đòi hỏi nhiều thời gian.

Hồi còn bé, tôi thích nhất những ngày Tết. Các câu chuyện Mẹ kể về Tết Trung Thu hay đọc trong sách vở vẫn là những ký ức đẹp và khó quên. Sách kể rằng Tết Trung Thu là Tết của Tàu vì có tích chuyện chị Hằng Nga và anh chàng Hậu Nghệ vốn là thần bất tử sống trên cõi trời. Hậu Nghệ vì làm sai lệnh của Ngọc Hoàng nên hai vợ chồng bị đày xuống trần gian. Hậu Nghệ đì tìm Tây Vương Mẫu xin thuốc trường sinh nhưng dấu vợ. Một hôm Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga lén chồng, uống thuốc tiên, bay lên cõi trời. Hậu Nghệ về kịp, định dùng cung bắn mặt trăng nhưng Hằng Nga đã rơi xuống mặt trăng nên chàng không nỡ. Từ đó Hằng Nga trở thành người đẹp của mặt trăng, còn gọi là cung Hằng, làm bạn suốt đời với con Thỏ ngọc. Vì thế mới có những câu thơ ỡm ờ của nhà thơ Tản Đà trêu ghẹo chị Hằng: “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi. Trần thế em nay chán nữa rồi. Cung quế đã ai ngồi đó chửa. Cành đa xin chị nhắc lên chơi...”

Một tích khác là chuyện ông vua Đường Minh Hoàng mê ca múa, nằm mơ thấy mình vân du cõi trời, được xem màn ca vũ nhạc của các tiên nữ trên trời. Khi thức dậy, nhà vua nhớ lại giấc mơ, sáng tác điệu múa đặt tên là “Khúc Nghê Thường” để dạy cho các vũ nữ trong cung. Các điệu vũ này thường được múa hát vào những dịp Tết Trung Thu trong triều đình kèm theo nghi thức yến tiệc, uống trà, ăn bánh, ngắm trăng, uống rượu, làm thơ, họa thơ...

Chuyện cổ Việt nam kể rằng ngày xửa ngày xưa có “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa...” Thằng Cuội sau khi giết đàn hổ con, hổ mẹ về, Cuội sợ quá trốn trên cây. Cuội rình thấy hổ mẹ đi tìm lá thuốc chữa bệnh cho hổ con. Đàn hổ con sống lại. Mẹ con hổ đi rồi, Cuội mừng quá, bứng cả cây thuốc “cải tử hoàn sinh” đem về nhà trồng. Trên đường về, Cuội gặp một ông lão bị bệnh, Cuội dùng lá thuốc chữa cho ông lão. Ông lão khỏi bệnh, dặn dò đây là cây thuốc quý Trời cho gọi là cây đa, phải chăm sóc cẩn thận, không được phóng uế, cây sẽ hết linh nghiệm.

Chuyện thằng Cuội kết thúc đâu phải chỉ đến đó. Cũng giống như chuyện Hằng Nga hay trong Kinh Thánh, phải có sự tham dự của người đàn bà. Người đàn bà thường là nguyên nhân gây ra những biến cố làm thay đổi số phận hay cuộc đời của họ và các ông chồng. Bà Eva nghe lời con rắn dụ dỗ ăn trái cấm ở vườn địa đàng Eden nên cùng với ông Adam sau này trở thành thủy tổ của loài người. Vợ thằng Cuội muốn thử cây thuốc quý của chồng bèn đái vào cây đa, cây đa bứt gốc, bay lên trời. Cuội về kịp, tiếc của, bám lấy cây đa, cây đa bay tít lên cung trăng. Từ đó Cuội sống cô độc, cô đơn suốt đời làm bạn với cây đa. Nhạc sĩ Lê Thương cám cảnh thằng Cuội, sáng tác bản nhạc “Thằng Cuội”. Trẻ em sống ở miền Nam hầu như đứa nào cũng biết hát những lời ngắn dễ nhớ: “ Bóng trăng trắng ngà. Có cây đa to. Có thằng Cuội già. Ôm một mối mơ... Cuội ơi, ta nói cho Cuội nghe. Ở trên cung oán mà chi. Bóng trăng trắng ngà....”

Kho tàng truyện cổ Việt nam vào mùa Trung Thu đi vào ký ức, sống mãi trong tâm tưởng của tôi suốt thời thơ ấu. Cho đến bây giờ, hồi tưởng lại vào những đêm rằm xa xưa, trời trong, trăng sáng và tròn, tôi hay nhìn lên mặt trăng tìm bóng dáng chị Hằng Nga, con Thỏ ngọc, thằng Cuội, cây đa. Thời đó làm gì có “i-phone”, “i-pad”, “i- pod”... Kỹ thuật hiện đại và trí tưởng tượng của con người sau năm mươi năm quá siêu việt, đưa trẻ con ngày nay đến tận vô vàn thế giới ảo, hấp dẫn, sinh động, phong phú nên những câu chuyện cổ về mùa Trung Thu không thực tế và gây ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn chúng. Trong trí tưởng tượng của đứa trẻ hơn mười tuổi đầu thập niên sáu mươi, tôi hình dung chị Hằng Nga là cô gái đẹp và buồn, sống vò võ một mình trên mặt trăng lúc nào cũng nhớ về ông chồng Hậu Nghệ. Con Thỏ ngọc xinh xắn, dễ thương và tốt bụng, hy sinh nhảy vào lửa để làm thức ăn cho đàn thỏ đói được Phật hóa thành Thỏ ngọc sống trên cung trăng với chị Hằng. Ngắm cái vòng tròn sáng rực và xa tít mù khơi vào những đêm trăng, tôi nhìn ra hình dáng mờ mờ một cái cây gọi là cây đa và một người ngồi dưới gốc đa. Thằng Cuội. Trong tưởng tượng của tôi nó là một thằng bé nhà quê, làm củi trên rừng, có cái mặt câng câng, khôn lanh và lém lỉnh giống cái mặt của “Thằng Bờm có cái quạt mo”. Hình ảnh thằng Cuội sau này còn là một thằng láu cá, thêm vào cái tính hay nói dối cho nên mới có thành ngữ “Nói dối như Cuội.”.

Sau chuyến di cư năm một chín năm tư là thời thanh bình của một triệu người dân miền Bắc cùng với dân miền Nam bắt tay vào việc ổn định đời sống, xây dựng đất nước.

Hạnh phúc của những đứa trẻ như các anh chị em tôi vào dịp Tết Trung Thu thời đó là được ba cho đi xích lô máy vào Chợ Lớn mua bánh Trung Thu và lồng đèn. Sáu cha con ngồi chen chúc nhau. Mấy đứa lớn ngồi chồm hổm dưới cái càng xe. Gió ngược chiều tốc cả tóc, áo, rát cả mặt. Con đường Trần Hưng Đạo đi thẳng hoài đến nhà hàng Đồng Khánh, xa hơn nữa là nhà hàng Soái Kinh Lâm. Từ đường Đồng Khánh trở đi là một khu thương mại của người Hoa rực sáng đèn là đèn từ các cửa hàng bán lồng đèn và bán bánh Trung Thu nổi tiếng như Đông Hưng Viên, Tân Tân... Những giấy bóng kiếng màu xanh, đỏ, vàng tạo thành hình những chiếc máy bay, xe tăng, con gà, con thỏ, con cá, ngôi sao....treo lủng lẳng trước cửa hàng làm lũ trẻ hoa mắt không biết chọn cái nào vì cái nào cũng đẹp.

Gần năm mươi năm trôi qua, mỗi mùa Trung Thu lại nhớ đến ông bố. Nhâm nhi miếng bánh thập cẩm mà không quên hương vị ngọt ngào của miếng bánh Trung Thu ngày nào ngồi trên xe xích lô máy về nhà, mỗi đứa được bố cho ăn một góc tư bánh Trung Thu Đông Hưng Viên thập cẩm, hai hột vịt muối ngon ơi là ngon. Đứa nào xui, chậm tay bắt nhằm miếng bánh cắt ra không có hột vịt muối, mặt mày buồn thiu. Bố lại an ủi “Bố còn cả hộp đây này.Ngày mai phần con ưu tiên có một hột vịt muối”. Hương vị vừa bùi vừa béo, mềm và thơm của miếng hột vịt muối mằn mặn, nhâm nhi chậm rãi sao mà đậm đà và thấm thía tình thương của ông cụ.

Vui nhất là buổi tối trăng rằm, khi thành phố lên đèn, lũ trẻ con ùa ra đường. Con đường nhỏ Hồ văn Ngà nằm ngang phía sau đường Trần Hưng Đạo chia làm ba đoạn nhưng sầm uất nhất là đoạn nằm giữa hai con đường Calmette và bác sĩ Yersin còn gọi là phố hàng đàn, lăng xăng, chộn rộn, ồn ào của đám nhóc. Chúng tôi mang theo lồng đèn, đèn cầy, giúp nhau đốt đèn cầy vào cái vòng kẽm hình xoắn bên trong lồng đèn. Đám con trai không chơi lồng đèn thì dùng lon sữa bò đục lỗ, gắn trên một cái trục quay nối với một thanh cây dài dùng để đẩy. Khi đẩy, tiếng kêu “rét, rét” của lon sữa bò trong đó có cây đèn cầy đốt sáng khi quay mà không bị tắt là một sáng chế rất đáng tự hào. Có những đứa bố mẹ không mua lồng đèn, chúng tự xếp, chế thành những chiếc lồng đèn làm bằng giấy “pelure” hồng, mỏng, nho nhỏ xinh xinh. Dưới sự chỉ huy của thằng Thanh con bác Quảng Thành là thủ lãnh và một thời là thần tượng của đám con nít Hồ văn Ngà, thằng Thanh bắt đám con nít phải thuộc bài hát “Rước Đèn Tháng Tám” mới được vinh dự nối đuôi nhau theo nó đi rước đèn. Các lồng đèn được đốt lên, sáng lung linh. Đám nhóc trai gõ trống, đẩy lon, đám con gái cầm đèn, cả đám con nít đi vòng vòng hát vang cả khu phố:

“Tết Trung Thu rước đèn đi chơi. Em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui sướng với đèn trong tay.Em múa ca đưới ánh trăng rằm. Đèn ông sao với đèn cá chắm. Đèn thiên nga với đèn bươm bướm. Em rước đèn này đến cung trăng. Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh...

Mỗi lần nghe bài hát này tôi nhớ đến thằng Thanh. Thằng Thanh, bạn hàng xóm thân thiết “tao tao mầy mầy” của tôi bây giờ không biết nó nằm ở đâu. Cái oai phong của nó thời đó làm cho đám con nít sợ, nể, phục. Nó sai bảo gì là răm rắp nghe lời trong đó có tôi. Sau này, thằng Thanh lớn lên theo ngành hải quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, tôi hết gọi nó bằng thằng mà chuyển sang gọi bằng tên. Sau một chín bảy lăm, Thanh bị kẹt ở lại, bỏ trốn, bị bắt đi học tập cải tạo, vợ bỏ lấy chồng khác, trốn trại hai lần, Thanh bị bắn chết trong rừng. Xác nó nghe bà má nói chôn cất sơ sài không biết bị thú rừng đào bới hay đất sụp lở nên sau này không tìm được tông tích để gia đình đi bốc mộ.

Vào dịp Tết Trung Thu, Mẹ tôi tuy bận rộn công việc nhưng cũng làm một mâm cỗ cúng cho các trẻ con vui. Ngoài hoa trái cúng trên bàn thờ, mâm cỗ Trung thu không thể nào thiếu bánh dẻo, bánh nướng, cá chép, bánh nướng hình con lợn mẹ và đàn lợn con... Đó là dịp để đám con nít chúng tôi có dịp ăn bánh ngọt thả dàn.

Có năm, một bác thợ đàn khéo tay làm biếu ba một cái đèn kéo quân, ba treo trước cửa. Đám con nít tối nào cũng kéo đến xem chật nhà làm cho Tết Trung Thu năm ấy thật vui vì nhà lúc nào cũng đầy người đến xem đèn. Những hình ảnh người lính, người tiều phu gánh củi, mẹ ngồi ru con, các con thú đủ loại, con khỉ Tôn Ngộ Không, quan trạng vinh quy bái tổ...chạy vòng vòng hiện trên cái màn hình bọc bằng giấy trắng quanh chiếc đèn hình trụ có nhiều tầng. Sức nóng của ngọn nến đốt bên trong làm cho cái đèn cù quay tự động như một sân khấu nhỏ linh động, đủ màu sắc. Chỉ có mỗi món đồ chơi là lạ như cái đèn kéo quân mà làm mê man cả xóm và những khuôn mặt ngây thơ với những đôi mắt long lanh xem suốt mùa Trung Thu không biết chán.

Mùa Trung Thu thời thơ ấu đã qua. Thời con gái sắp đi lấy chồng, kỷ niệm khó quên của tôi là ghé vào thăm ông chú chồng vào đêm Trung Thu, biếu ông vài hộp bánh gọi là đền ơn đáp nghĩa ông chú bà thím có công vun đắp cho đôi trẻ sau này nên duyên chồng vợ. Nhà ông chú chồng tôi là một cửa hàng bán đàn nổi tiếng ĐT trên đường Nguyễn Thiện Thuật. Bên cạnh cửa hàng phía bên trái là một căn nhà biến chế thành một khu vườn nhỏ có hồ bán nguyệt, hòn non bộ, nước chảy róc rách, kỳ hoa dị thảo, cây kiểng, tre, trúc quanh năm xanh tốt. Đi sâu vào trong nhà là thế giới đồ cổ của ông nào sập gụ, tủ chè, ghế cẩn xa cừ, bình, lọ, đĩa, ấm, chén, tượng, tranh, hoành phi, câu đối...Chỉ có người thân mới được ông mời vào ngắm nghía, thưởng lãm các món đồ cổ đẹp, độc đáo, hiếm có và mắc tiền, được nghe ông khoe cái sở thích sưu tầm đồ cổ điệu nghệ của ông và niềm tự hào được kết bạn với nhà sưu tầm đồ cổ nổi tiếng Vương Hồng Sển.

Ba chú cháu ngồi trên chiếc chiếu hoa trải bên cạnh hồ nước trong vắt. Ông nhẹ nhàng lấy ra bộ ấm chén từ thời nào xưa lắm bên Tàu, pha một bình trà bằng loại trà thơm đặc biệt khi uống vào chất trà đọng lại ngòn ngọt đến tận cổ. Bà thím đón tiếp cô cháu dâu tương lai bằng bánh nướng, bánh dẻo, mứt sen, trái cây. Khung cảnh thật nên thơ, tĩnh lặng. Gió mát nhè nhẹ. Trăng rằm sáng rực trên trời. Tiếng nước chảy róc rách êm tai. Tâm hồn phơi phới, lâng lâng của lứa đôi đang hạnh phúc tràn trề thời kỳ tiền hôn nhân thật là những kỷ niệm khó quên.

Với lối kể chuyện hài hước rất có duyên, hai chúng tôi ngồi nghe ông kể miên man về cuộc đời thơ ấu của ông, về cơ ngơi của gia đình bên nội ở làng Khuốc, thời đi làm văn công đóng kịch, thời yêu đương các cô gái làng. Là người có nhiều kinh nghiệm sống trong trường đời, từ miền Bắc di cư vào Nam với hai bàn tay trắng, sinh cơ lập nghiệp trở thành một ông chủ tiệm đàn nổi tiếng và giàu có, ông kể về những ngày khốn khó khi vào Nam, nỗi đau khổ của ông bà khi đứa con trai đầu lòng và liên tiếp những đứa con trai sau đó đều mất khi còn bé. Ông cũng là người sính thơ văn cổ, giao tiếp nhiều giới văn nghệ sĩ và giới chơi đồ cổ, chúng tôi được nghe ông kể biết bao chuyện “thâm cung bí sử” ly kỳ và thú vị.

Đây là lần đầu tiên tôi được “làm quen” với ông chú chồng, nhân vật quan trọng thứ hai sau ông bố chồng, những người tôi cho rằng mình nên xử sự... “kính nhi viễn chi” vì chưa phải là dâu chính thức. Ông đã cho cô cháu dâu tương lai một ấn tượng tốt đẹp về gia đình chồng, gần gũi và thân tình trong buổi tối ăn bánh, uống trà, ngắm trăng và nghe chuyện “cổ tích” về ông trong đêm rằm Trung Thu.

Cái dinh cơ đồ sộ ấy sau bảy lăm bị chia năm xẻ bảy cùng với lòng người tan tác phân ly. Mỗi người đi tìm cho mình lối thoát. Hai đứa con đầu của ông bà đi theo một gia đình làm sở Mỹ trước bảy lăm. Đứa con trai kế đi theo diện đoàn tụ qua Pháp bằng giấy tờ giả. Đứa con nuôi đi đường bộ qua Thái Lan an toàn. Cô con gái cuối lận đận vượt biên cả chục lần cuối cùng cũng sang được đảo Pulau Bidong. Cái nhà đã sắp xếp để lại cho bà con thân tín. Ông bà đã chuẩn bị ra ghe nhỏ để lên tàu lớn cũng là lúc cơn suyễn hành hạ ông. Ông quyết định trở về. Bà vẫn tiếp tục chuyến đi.

Không biết giải thích thế nào về những ngả rẽ đau lòng này khi thời thế thay đổi, vận nước nổi trôi, lòng người hoang mang, do dự trước những quyết định. Những quyết đinh đó sau này trở thành định mệnh của mỗi người. Đối với cả hai đây là một sự quyết định sinh tử. Đi cũng chết mà ở lại cũng chết.

Câu chuyện của bà Thím có hậu vì bà sang được đến Mỹ, làm cột trụ cho các đứa con ăn học, trưởng thành, cưới vợ, gã chồng, đứa nào cũng học hành đến nơi đến chốn, nhà cao cửa rộng. Bà mất nhẹ nhàng, êm thấm, thanh thản trong sự chăm sóc của các con.

Ông chú trở về sống trong cái cơ ngơi phải luôn luôn đối phó với công an, ủy ban nhân dân quận, phường, khóm lăm le muốn chiếm cái nhà vì biết bà vượt biên. Ông thu nhỏ cửa hàng, dẹp gọn khu vườn và căn phòng chứa đồ cổ trước đây. Nghe nói ông bán hết đồ cổ chuyển tiền sang Mỹ. Ông sống lây lất với cơn bệnh suyễn kinh niên và sự chăm sóc của cô hầu gái người Hoa đã từng giúp việc cho ông bà khi cô còn là cô bé con. Ông mất trong vòng tay của cô hầu gái với tờ di chúc. Nghe hàng xóm kể lại cô đã cầm tay ông để ông ký tên trên đó. Đám tang ông không có mặt một đứa con nào. Vài năm sau, cô hầu gái mất vì bệnh ung thư máu. Căn nhà sau này bà thím về Việt nam tìm cách lấy lại được và bán cho con trai của tiệm bánh mì Hà Nội gần đó để cậu này mở thêm một tiệm thứ hai. Đám cháu trai, gái gọi ông bằng chú ruột như gia đình chúng tôi và các em cũng dần dần qua Mỹ.

Nhìn vầng trăng đêm nay trên bầu trời xứ Mỹ mà nhớ vầng trăng xưa với những kỷ niệm về những người thân như ông bố, đứa bạn hàng xóm, ông chú chồng. Những vầng trăng im lìm, bất động, tỏa sáng ở trên cao đã chứng kiến biết bao dâu bể, đổi thay của những đời người. Hai mươi bốn mùa Trung Thu trôi qua ở xứ Mỹ, mỗi khi nhìn thấy chiếc lồng đèn, chiếc bánh dẻo, bánh nướng, lòng khộng khỏi bâng khuâng một nỗi nhớ và tự hỏi ta còn “bonus” bao nhiêu mùa Trung Thu nữa trong cuộc đời?

Cali, 24 tháng Tám 2015

Phùng Annie Kim
Có Phước, Có Phận


Trương Tấn Thành


* * *
Tôi nhớ không lầm thì ngạn ngữ Anh có câu khuyên là ta hãy suy xét, tìm hiểu kỷ càng trước khi kết hôn với một người nào vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc suốt cuộc đời của mình. Trong trường hợp của tôi thì câu này rất đúng ở phân nữa của phần sau.

Sau khi được định cư ở Mỹ và tiếp tục đi học lại ở cái tuổi trên bốn mươi trong nhiều năm, tôi thấy đến lúc mình cần lập gia đình để có người bạn đời nơi xứ lạ. Trước tiên, tôi nghỉ ngay đến đứa con gái của ngừơi bạn ở cùng đơn vị khi xưa nay còn bị kẹt ở bên đó. Trước năm bảy lăm, tôi và anh ấy hay đi bơi ở hồ bơi Yết Kiêu ở Thị Nghè. Thường anh ấy có dẫn theo đứa con gái và đứa em rất dễ thương đi theo. Tôi nghỉ là tôi và anh cùng quen biết khi xưa nên biết đâu đây là cơ hội duyên may cho tôi. Trong dịp về thăm ba tôi bị bịnh, tôi có ghé lại nhà anh để thăm dò. Đúng như tôi nghỉ, gia đình anh cũng đồng ý cho phép tôi tiến tới. Tuy nhiên người con gái của anh lại không đồng ý. Khi về lại bên này, tôi cũng được nhiều người giới thiệu em cháu của họ nhưng rồi cũng không tới đâu.

Trong khi đi học, để kiếm thêm chút tiền chi dùng, tôi và anh bạn ở cùng phòng và cùng đảo khi xưa cuối tuần hai anh em chúng tôi đi cắt cỏ, dọn vườn. Trong giới làm cỏ  nơi tôi sống, tôi có quen được với hai vợ chồng ông bạn trong nghề này đã lâu nên thường tới lui thăm viếng. Bà dì, ngươi vợ, là một người hoạt bát rộng rải, rất vui vẻ và thật tốt bụng. Từ khi được ông bảo lảnh qua, bà đã cùng ông không quản ngại mưa tuyết, cùng đi cắt cỏ, hốt lá với chồng. Nhờ đồng vợ đồng chồng như vậy mà chỉ vài năm sau đó hai ông bà trả dứt được tiền mua nhà. Bà còn hai người chị, và hai người em ở lại bên đó. Người chị thứ ba có đứa con gái kế út, chưa có gia đình. Xin được nói qua về gia cảnh người con gái kế út, cháu của bà.

Mẹ của nàng có bốn đứa con, chồng là sĩ quan Cộng Hoà bị chết trong chiến tranh khi đứa trai út sinh ra không được bao lâu. Bà ở vậy làm nghề may để nuôi đàn con. Nàng là người đứng cắt aó để cho mẹ mình kết, may cùng sự phụ gíup của mọi người trong nhà. Dù sức học chẳng kém ai nhưng vì phải đứng đo cắt cả ngày nên nàng không có cơ hội theo đuổi việc học hành cho đến nơi đến chốn như đa số bạn bè cùng trang lứa.

Ở một thị xã nàng bị hạn chế ở nhiều mặt, cho đến khi nàng được chồng bảo lảnh qua Mỹ mà vẫn chưa biết lái xe Honda. Vóc dáng nhỏ bé lại yếu về mặt thể chất nên từ khi nhỏ tới lớn, nàng thường hay bị bịnh. Bạn trai thì có nhưng nàng chưa hề có người yêu. Quan niệm sống và cách sống của nàng cũng là giản dị. May mà cuộc sống ở thị xã không có những quyến rủ và cám dỗ như ở chốn thị thành, vã lại nàng để dành hết thì giờ vào việc mưu sinh để giúp mẹ và gia đình. Rồi sau bảy lăm cuộc sống nhà càng thêm cơ cực, nàng phải tìm cách vượt biển nhưng rồi bị bắt. Thế là nàng phải ở lại sống với gia đình để cùng chung lo việc mưu sinh. Một thời gian sau, người dì thứ tư của nàng được chồng bảo lảnh sang đây ở cạnh vùng tôi đang sống. Hai ông bà làm nghề cắt cỏ, công việc làm ăn phát đạt.

Một cuối tuần tôi có ghé qua nhà ông bà chơi, bà dì có nghe là tôi đang tìm vợ nên ngỏ lời giới thiệu tôi với nàng. Rồi kể từ đó hai tôi liên lạc thường xuyên với nhau trao đổi thư tù, hình ảnh và nói chuyện thường xuyên qua điện thoại. Lúc đầu mẹ của nàng cũng ngần ngại vì tôi lớn tuổi và không biết tôi có con rơi con rớt gì không. Nhờ dì tư bên này có những dữ kiện trung thực và sống về tôi nên tôi bắt đầu tiến đến giai đoạn kế. Khi chồng thư từ liên lạc càng ngày càng dầy cộm lên và mấy cái bills điện thoại càng lúc càng dài ra, tôi nghỉ đã đến lúc mình về bên đó, trước để thăm ba mình bị bịnh, sau là để gặp nàng và làm quen với gia đình nàng. Như vậy là từ khi được giới thiệu, tôi chưa hề gặp mặt nàng! Sau này nàng có kể cho tôi nghe là khi còn đi học, một hôm cùng đám bạn vào chùa xin sư một quẻ về tình duyên gia đạo thì sư có nói rõ ràng là:

Sau này con có một người chồng lớn hơn mình nhiều tuổi mà trước đó, con chưa hề gặp mặt người này lần nào!

Sau khi trích ra một ít tiền từ financial aid được chính phủ giúp khi đi học, tôi mua vé về bên đó.

Đón tôi ở phi trường là nàng và gia đình nàng. Trước mặt tôi là một cô gái nhỏ nhắn, duyên dáng, trong tay ôm bó hoa đến trao cho tôi. Sau khi gọi báo cho ba tôi là tôi đã về đến, tôi lên xe bao về gia đình nhà nàng ở dưới tỉnh. Năm sau đó, ba tôi đã cùng bên đàng trai đáp xe xuống gia đình nàng làm đám hỏi. Năm kế tiếp, tôi về để làm đám cưới nàng. Hơn một năm sau nàng tới Mỹ.

Là một cô gái ở thị xã, không tiếp cận được với những tiện nghi của cuộc sống tân tiến thị thành, bước đầu của nàng nơi xứ lạ quê người không dễ. Lái xe không được, tiếng Anh không rành, cửa nẻo chưa biết mở đóng khóa ra sao, ở nhà một mình lo sợ đủ chuyện cho đến khi chồng đi làm về mới hết lo. Có lần nàng ra ngoài rồi đóng cữa lại nhưng không biết loại khoá này nó tự động khoá chốt lại khi đóng nên bị nhốt ở ngoài trong khi tôi đi làm chưa về. Trong bộ đồ bà ba mang từ bên đó qua, nàng phải co ro chịu lạnh đứng bên ngoài cửa mà chờ...

Sau khi thi đậu bằng lái, bà dì mua cho nàng một chiếc xe Mỹ cũ để chạy đi chợ rồi sau đó lái đi làm. Nhớ lại lúc tôi dạy nàng lái xe vì nóng tính và đòi hỏi qúa đáng ở nàng, tôi làm nàng phải phát khóc vì bị tôi chê trách và hối thúc. Sau đó, để trả lời cho sự thiếu tế nhị đó của tôi, nàng chỉ thi lái một lần là đậu!

Mọi người nhận xét là tôi hiền nhưng nóng tính và... hơi cộc. Tôi không được nhỏ nhẹ trong lời nói nên thường hay làm cho nàng buồn. Dĩ nhiên là chén trong xống còn khua nên trong cuộc sống có lúc tôi và nàng cũng có lớn tiếng bất đồng, nhứt là ở những năm đầu. Sau những lần canh không ngọt như vậy nàng vẫn kiên nhẫn dành cho tôi có dịp suy nghỉ lại mà sửa đổi. Nói về trình độ thì tôi phải hơn nàng nhiều vì may mắn có cơ hội học đến nơi đến chốn lại ở Mỹ khá lâu. Vì vậy mà nàng thường bị tôi lấn lướt và có chiều độc đoán vì cho là mình biết nhiều! Nàng cũng nhận biết điều đó và dành cho chồng mình nhiều ưu tiên trong các quyết định trong cuộc sống hằng ngày. Thái độ nhẩn nhịn này đã giúp cho cuộc sống hai tôi vượt qua nhiều sóng gió và đi đến sự thông cảm như ngày hôm nay. Nếu như ở vào trường hợp của các cô gái vợ của Việt kiều khác thì, trăm phần trăm, chắc là họ đã tung cánh thoát ly từ lâu rồi.

Về mặt công việc, vì tôi không muốn nàng làm nghề trong ngành thẩm mỹ hằng ngày bị hít hoá chất độc nguy hại cho sức khỏe sau này nên tôi khuyên nàng đi tìm việc làm trong ngành ẩm thực dù có kiếm ít tiền hơn. Nàng nghe theo và không phản đối dù sau khi mẹ mình mất, tháng nào nàng cũng phải gởi ít tiền về phụ gíup cho người chị và đứa cháu bên đó.

Nhiều lúc thấy nàng cực nhọc trong công việc, tôi thấy xót xa nhưng thà vậy chớ không để nàng phải chịu bị bịnh nan y khi tuổi về gìa. Về việc ăn mặc và chưng diện, nàng rất giản dị và thực tế trong việc ăn mặc, son phấn chứ không đua đòi như một số người chạy theo thời trang, xài hàng hiệu cách tốn phí. Cho dù họ kiếm ra tiền trong hiện tại nhưng lại không biết dành dụm, không tập thói quen tiện tặn để dự phòng cho những bất trắc xãy ra trong cuộc đời. Tháng nào nàng cũng dành ra ít tiền đưa cho tôi để phụ tôi trả thêm vào tiền nhà cho mau hết nợ. Dù tôi ít giao thiệp nhưng thỉnh thoảng nàng vẫn mua quần aó cho tôi để diện cho đẹp với người ta mặc dầu tôi không thấy cần thiết lắm.

Cách đây vài năm, hai tôi có xuống Wesminster chơi và thăm vài người bạn. Vì tôi rất sùng kính Cha Trương Bửu Diệp mặc dù tôi là dân bên lương giáo nên tôi quyết định đến kính viếng nhà thờ Cha. Nàng cũng đồng ý tháp tùng tôi. Hai tôi cùng kính bái, cúng dường, cầu xin điều lành với Cha và sau đó mua ảnh và vật kỷ niệm. Khi về lại trên này tôi thấy trong xe của nàng trước tay lái có treo ảnh của Cha. Tôi rất cảm kích trước việc làm tế nhị này. Điều đó cho thấy sự tôn trọng tín ngưởng của tôi và đồng thời cho thấy đức tính qúy báu của người vợ ngoan hiền nơi nàng.

Mấy năm nàng vừa mới qua, mục đích của tôi là ngoài việc đưa nàng đi học Anh ngữ ở trường, tôi cố ý tập cho nàng nghe và nhận ra giọng Mỹ nên không đặt mua đài Việt. Coi như nàng bị đặt vào tình cảnh vịt nghe sấm trong nhiều năm. Dù khó chịu và phật lòng nhưng nàng vẫn nhẩn nhịn nghe theo lời tôi. Giờ thì nàng là một khán giả trung thành của chương trình đố chữ hằng ngày có tên là “Wheel of Fortune” lúc bảy giờ chiều trên đài KCTS9 cũng như thích xem những phim truyện dài trên đài Mỹ khác.

Tôi bị bịnh đi tiểu nhiều lần ban đêm vì vậy thường bị mất ngủ. Mỗi lần tôi dậy đi tiểu như vậy thì nàng cũng bị mất giấc. Vì biết chồng mình bi bịnh mà phải như vậy, nàng không hề phàn nàn, khó chịu dù sáng hôm sau nàng còn phải thức dậy đi là sớm.

Nàng thuộc tuýp người đúng như trong câu nói dí dõm: “người xấu, người đẹp; miễn có duyên là được.” Còn về lời ăn tiếng nói thì có lẽ ít có ai sánh được với nàng. Trong lời nói hằng ngày nàng luôn xưng là em và gọi tôi bằng mình. Tôi thì vì làm ra vẽ ta đây nên ít khi chịu nói ra lời ngọt ngào như vậy dù trong bụng thật là vừa ý với lời ăn tiếng nói của nàng. Dù nàng có giận tôi như thế nào đi nữa vẫn tự chủ được trong lời nói và lối cư xử đối với tôi, một ông chồng... hơi khó chịu! Mà tôi nhận thấy hình như là trong cuộc sống vợ chồng thì lời nói nếu không biết kềm chế và mềm mỏng thì rất dễ đi đến bất hoà, mất vui. Nhờ lối ăn nói nhẹ nhàng của nàng mà hai tôi tránh được nhiều cải vả vô ích trong cuộc sống hằng ngày.

Để thay lời kết, xin được trích dẫn lời nhận xét của B.V.P., tác giả bài báo “Thư Thăm Chú” đăng trên Việt Báo ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy 21 & 22-8-2015, đoạn nói về Việt kiều về Việt Nam lấy vợ như sau:

... bọn Việt kiều đã bị lừa 5,7 lần rồi về Việt Nam tìm người để lấy vợ, lấy để đi, qua các nước tư bản thời gian sau đến 90% họ bỏ...( sic)

Nếu vậy thì sau hơn mười bảy năm sống bên nàng, quả đúng tôi là một người có phước, có phận ở trên đời này.

Cảm ơn em đã cùng tôi
Vui buồn sống trọn một đời bên nhau.

Trương Tấn Thành

Blog Archive