Sunday, December 10, 2023

DỤ NGÔN CỦA THẦY

-- Tâm Nhãn-

Một đạo hữu nhờ tôi viết một bài về kỷ niệm những năm thầy Tuệ Sỹ an cư ở Diên lâm, Diên Khánh, Khánh Hòa. Thỉnh thoảng tôi đã viết đăng rải rác trên Facebook, kỷ niệm tình thầy trò thì bàng bạc. Điều đáng kể là kho kiến thức của thầy: Phật điển, vật lý, khoa học, tâm lý học v.v… truyền dạy, nhưng chẳng học trò nào có thể lãnh hội hết. Tôi chỉ nhớ vài dụ ngôn bất hủ của thầy, giờ ghi lại ở kẻo quên:

1. "Tiền thật, tiền giả":
Thầy nói, trong xã hội nhà chùa hiện tại, tiền giả đang lên ngôi, thì ta có cầm tiền thật trong tay cũng vô nghĩa. Tu sĩ ngày nay tu học thiển cận, mở tông lập phái, giảng dạy thiếu cơ sở giáo lý. Người nghe ngưỡng mộ chiếc y áo, tin chắc sư này, cô kia nói đúng và tin theo. Cứ thế, loại “tiền giả” này phổ biến và trở nên thịnh hành; chân lý “tiền thật” không còn giá trị nữa. Số Tăng nhân giảng chân lý chỉ là số ít, giáo nghĩa nói ra đi ngược với thứ 'tiền giả' đang thịnh hành, do đó khiến thiên hạ khó tin.

2. "Cha con trong nhà khen nhau":
Theo thầy, hiện trạng về học tập và nghiên cứu, Tăng ni trong nước cứ tự hào về những “thành tựu đang có”, nhưng thực chất nhìn ra thế giới, mình thua thiệt người ta.

Tôi diễn giải lại. Phật giáo Việt Nam hiện có ba cơ sở đào tạo lớn: Phật học viện Sài Gòn, Huế, Hà Nội, nhưng những tấm bằng không được Bộ giáo dục nhà nước công nhận. Cử nhân, Tiến sĩ PG rất nhiều, song số người nghiên cứu Phật giáo chẳng là bao.

Khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, những trường phái như Franco-Belgique- dưới sự chỉ đạo của Vatican- tập trung nghiên cứu, phiên dịch các tác phẩm Đại thừa như Trung quán và Duy thức, đơn cử Étienne Lamotte là Linh mục người Bỉ biên dịch ấn hành “Đại trí độ luận” (Le traité de la Grande Vertu de Sagesse de Nāgārjuna - Mahāprajñāpāramitaśastra) vào 1944. Họ cũng nghiên cứu “Đại thừa Nghiệp luận” của Thế Thân (Karmasiddhiprakarana - The Treatise on Action by Vasubandhu), Étienne Lamotte biên dịch Pháp ngữ, Leo M. Pruden dịch sang tiếng Anh.

Trường phái thứ hai là Leningrad của Nga, dẫn đầu bởi Stcherbatsky, tập trung nghiên cứu Luận học.

Trường phái thứ ba Anglo-saxon mà trung tâm là Tích Lan và London, tập trung phiên dịch Tam tạng Pāli, và nghiên cứu Abhidhamma (A-tỳ-đàm) theo hướng tâm lý học phương Tây. Chúng ta đều nghiên cứu lại của họ, những gì đang “tự hào” chỉ là “cha con trong nhà khen nhau”.

Thật sự, nếu kiêu hãnh và tự hào thì chỉ “mót” lại chút quá khứ vàng son của Viện Đại học Vạn Hạnh, trước 75. Ai từng học và làm việc nơi đây đều thấy nó đủ thẩm quyền sánh vai với Phật giáo thế giới. Một mình Hòa thượng Minh Châu dịch Tạng kinh Nam truyền, Ôn Quảng Độ dịch bộ Từ điển Phật quan, Thầy Tuệ Sỹ làm tạng Thanh văn; Phạm Công Thiện là triết gia phương tây không có người thứ hai, Lê Mạnh Thát một sử gia lỗi lạc, luôn thao thức trăn trở với tiền đồ Phật giáo.

3. "Cái dơ của thằng ăn mày":
Thằng ăn mày dơ dáy vì không có khái niệm tắm rửa, đụng đâu ngủ đó. Thân thể đã bẩn thì nằm chỗ sạch dơ như nhau. Ví như người làm ác, tâm bất thiện tràn ngập, ăn chơi trụy lạc, xô bồ bừa bãi; đối với họ lương tâm trong sáng thánh thiện như thứ “trang sức” đắt giá, màng đến làm gì. Mỗi ngày trôi qua, làm thêm chút ác cũng thấy bình thường như thằng ăn mày la cà đầu đường xó chợ, bụi bặm bám thêm chẳng thấy nhớp là gì.

4. "Sống giả miết, rồi cũng thành là thật":
Ở đời lắm kẻ sống giả, khoác trên người chức vị, quyền thế, danh phận…, kết hợp cùng nhiều vòng hào quang giả tạm; ra ngoài, đứng trước công chúng như ông “thần”, “thánh”, đôi khi có chút kệch cỡm. Nhưng thế cuộc bắt họ vào “vai”, phải diễn cho thật, cho hay… ngày này qua ngày nọ, họ dần nhập vai diễn y như thật. Chẳng ai biết đằng sau “cánh gà”, cuộc đời họ như thế nào, miễn sao khi chết công chúng biết họ đã sống một đời “chuẩn mực”.

Còn nhiều câu nói trở thành tâm điểm phục hưng nếp sống đời lẫn đạo. Chỉ có người trí 'ưu thời mẫn thế' mới bước trong suy tư, lý trí, phát biểu thành tư tưởng dụ ngôn.

“Giữ được đức mà không biết phát huy; tin phục đạo lý mà không kiên định làm theo. Người ấy thì ích lợi gì? Không có người ấy thì có hại gì? [Chấp đức bất hoằng, tín đạo bất đốc, yên năng vi hữu? Yên năng vi vong?]

VẠN HẠNH - VÕ LÂM NGŨ BÁ

Truyện kiếm hiệp của Kim Dung chẳng những làm điên đảo nhiều thế hệ đại chúng ở Á châu vào những thập niên 60, 70, 80 và 90 thế kỷ trước, mà còn có những ảnh hưởng nhất định lên tầng lớp tinh hoa của xã hội như chính trị, trí thức, thậm chí cả các đại học sĩ trong xã hội.

Chuyện kể rằng ngày ấy, tại Đại học Vạn Hạnh, người ta cũng có những buổi "Hoa Sơn Luận Kiếm" để bầu ra 5 đại cao thủ tương xứng 5 vị trí của Võ Lâm Ngũ Bá: Đông Tà, Tây Độc, Nam Ni, Bắc Cái, Trung Thần Thông.

Đông Tà là Tuệ Sỹ, vì không ai có thể vượt ông sở học về triết học Đông Phương. Ông còn kiêm nhiều sở trường tuyệt trác trong cầm, kỳ, thi, họa. Tính ông lại hết sức "Chứng" vì không thích là đóng cửa không tiếp hoặc bỏ đi ngay. Các vị Hòa Thượng Trưởng Lão cũng phải dỗ giành ông suốt.

Tây Độc là Phạm Công Thiện, ông nổi tiếng về môn Triết Tây. Ông cực kỳ thông minh, tính tình bộc trực, thẳng thắn, ông chuyên tu Mật Tông của Tây Tạng nữa. Nên không ai có thể mang danh hiệu này tốt hơn ông.

Nam Ni là Ni Sư Trí Hải, bà xuất thân Quận chúa của Tuy Lý Vương, vì dòng dõi Hoàng thất nên có thể liên tưởng đến Nam Đế/Tăng của Đoàn Trí Hưng nước Đại Lý. Bà là bậc Long Tượng Nữ Lưu.

Bắc Cái thì không ai khác hơn là Bùi Giáng. Ông xứng là kỳ tài thiên hạ về văn chương chữ nghĩa. Ông có thể đóng cửa dịch liền 2 tuần, xong một tác phẩm lớn, mà dịch phẩm còn có thể hay hơn nguyên tác. Nhưng ông có một vài trục trặc về tâm trí, ông có thể tiếu ngạo lang thang ngày này qua bữa khác ngoài hè phố với y phục như kẻ vô gia cư chính hiệu.

Còn Trung Thần Thông là Hòa Thượng Minh Châu, Ôn là người có khả năng dung hợp những tài năng ấy để tạo lập tên tuổi một thời lừng lẫy cho Vạn Hạnh.

Ngoại chuyện kể rằng, một hôm Bắc Cái sau một thời mệt mỏi giang hồ bèn ghé tịnh thất "Đào Hoa Đảo" của Đông Tà để nghỉ ngơi... vài tháng, nhưng thay vì mang theo cặp Bạch Điêu của Quách Tĩnh Hoàng Dung, thì ông lại mang theo cặp "Bạch Cút" chờ đẻ trứng. Tịnh thất của Đông Tà thì nhỏ, cặp "Bạch Cút" lại vô cùng mất vệ sinh. Vậy nên, có lần Đông Tà cầm cái chổi quét và hốt đống phân của cặp "Bạch Cút" rơi ra, khi Bắc Cái ra ngoài, ai dè Bắc Cái thình lình trở lại, thấy cảnh bạn quét phân chim thì ông đùng đùng nổi giận, nói bạn có ý đuổi khéo mình... Nên ngay lập tức, ông đã xách cặp "Điêu" của mình rong ruổi giang hồ. Vừa đi vừa đọc:

"Điêu tự tại hề vạn dặm biên
Cút phóng noãn hề bôi bán thiên"*

(Chim điêu tự tại ngoài biên ải
Cút đẻ trứng vàng uống bể ly.)

Nay cả năm vị Ngũ Bá đều đã thành người thiên cổ. Những giai thoại về họ, có lẽ còn truyền tụng mãi ngàn năm sau.

Chú thích:

* Vì chỉ được nghe đọc một lần 20 năm trước, nên không dám chắc câu thơ này chính xác 100%

Trần Bảo Toàn

No comments:

Blog Archive