Monday, May 5, 2025

XÁ LỢI LỚN NHỨT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ TIẾNG THƠM VÀ NHỮNG VIỆC GIÚP ÍCH CHO CHÚNG SANH CỦA NGƯỜI ĐÓ ĐỂ LẠI

Đám đông 30/4 vừa dứt thì bắt đầu đám đông đi chiêm bái xá lợi Phật.
Xá lợi Đức Phật được bày trí trong viện bảo tàng quốc gia Ấn Dộ.

Tháng 1-1898, khi mà Phật giáo đã suy tàn ở Ấn Độ sau khi bị Hindu và Hồi giáo tiêu diệt. Tại làng hẻo lánh Piprāhwā ở Uttar Pradesh, Ấn Độ, cách biên giới Nepal một cây số, môt chủ đất Anh tên là William Claxton Peppé hiệp cùng một học giả người Anh Vincent Smith khai quật một gò đất bỏ hoang mà hai ông nghĩ đó là một bảo tháp cổ được xây dựng từ thời Asoka.

Họ tìm thấy một hộc đá sa thạch, bên trong có nhiều hộp nhỏ, một trong số đó có những mảnh xương người. Trên hộp đựng xương có khắc dòng chữ Brāhmī:
“Sukiti-bhatinaṃ sabhaginikanam sa-puta-dalanam iyaṃ salila-nidhane Budhasa bhagavate sakiyanam”
(Hộp đựng xá lợi này là của Đức Phật đáng kính của dòng tộc Śākya, (là sự cúng dường) của những người anh em của Sukīrti, cùng với các chị em, các con trai và những người vợ của họ”.

Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn, xá lợi của Ngài được phân chia thành tám phần, trong đó, dòng tộc Śākya (Thích Ca) ở Kapilavastu nhận được một phần.

Các học giả tuyên bố Piprāhwā chính là Kapilavastu Ca Tỳ La Vệ của dòng tộc Thích Ca. Nhưng các học giả Nepal bác bỏ.

Khi khai quật còn phát hiện hơn 1.800 viên đá quý, bao gồm pha lê, ngọc trai, vỏ sò, san hô, vàng và bạc, được chôn cùng với xá lợi.

Năm 1899, Anh trao xá lợi tìm được đó cho vua Rama V của Thái Lan.

Ở Thái Lan, xá lợi được thờ ở Wat Saket Bangkok. Hai phần xá lợi được gửi đến Mandalay và Rangoon Myanmar. Ba phần khác được đưa đến Sri Lanka (Anuradhapura, Kandy và Colombo).

Xá lợi ở Ấn Độ chỉ là những hiện vật bằng vàng và trang sức được tìm thấy cùng với xá lợi được giữ lại ở Bảo tàng Ấn Độ ở Kolkata trong cái bình giả cổ, cái bình đựng xá lợi thiệt giữ ở Bảo tàng Kapilavastu ở Piprāhwā.

Như vậy xá lợi Phật Thích Ca được tôn vinh là quốc bảo của Ấn Độ, tôn trí trang trọng tại Bảo tàng Quốc gia New Delhi được rước qua Việt Nam không biết là xá lợi loại gì?

Ý nghĩa của xá lợi Đức Phật có ý nghĩa quan trọng nhứt là khẳng định Đức Phật Thích Ca là người từng tồn tại, là người có thiệt.

Xá lợi tiếng Phạn là sarira nghĩa là những hạt cứng.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch, theo phong tục Ấn Độ người ta hỏa táng Ngài. Sau lễ phát hiện trong tro nhiều viên ngọc cứng, lóng lánh, có ánh sáng.

Khái niệm xá lợi là từ sau cái chết của Đức Phật. Chúng sanh thương Phật nên thờ phụng xá lợi của Ngài. Xá lợi Phật là biểu tượng tâm linh, hình tượng linh thiêng của Đức Phật.

Nhưng hình tượng vật chất nó không thể thay thế những ý nghĩa về triết lý và cách sống mà Đức Phật đã dạy chúng sanh.

Những cao tăng chết mà hỏa táng sau này cũng có xá lợi. Xá lợi có vì nguyên nhân gì thì khoa học đang chứng minh. Trong quá trình khổ luyện, ăn uống, ngồi thiền đã có những biến đổi trong cơ thể, khi thiêu gặp lửa nó kết tụ lại.

Nhiều người rất tin vào tâm linh xá lợi.

Nhưng cái danh tiếng của một con người, cái nhân cách của một vị sư tăng hay cả Đức Phật đâu phải do mấy viên xá lợi đó là xong.

Nhân cách là tiếng thơm, là cách sống đẹp, là những đóng góp có ích cho đời của một người sẽ là công nghiệp của người đó sau khi mất.

Với Đức Phật thì chúng sanh nghiêng mình kinh cẩn với một bậc đại trí đã có nhiều đóng góp cho đời .

Người ta niệm Nam Mô, tại sao? Nam Mô là phiên âm của tiếng Sanskrit Namah. Khi Phật giáo vào Tàu thì người Tàu đọc chữ Namah là Nam Vô. Người Việt thì đọc Nam Mô là cách Việt 100%, chứng tỏ Phật giáo truyền thẳng từ Ấn Độ vào Việt Nam.

Nam Mô biểu thị sự tôn kính đối với Phật và Bồ Tát, là sự cung kính, quy mệnh, tiếp nhận, phát nguyện hồi hướng về Đức Phật và các vị Bồ Tát.

Có vụ Làng Mai của ông Thích Nhất Hạnh đổi "A Di Đà Phật" hay "Mô Phật" thành "A Di Đà Bụt" hay "Mô Bụt". "Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni" thay vì "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".

Tráo chữ thôi, có gì quan trọng hay khác lạ!

Người Miền Nam niêm “Nam mô di bố phù” là câu “Nam Mô A Di Đà Phật” mà trong tiếng Phạn là"नमो अमित बुद्ध"(Namo Amitàbha Buddha) thôi.

Vì sao lại tôn kính Đức Phật?

Là từ chữ Buddha. Chữ Phạn Buddha (बुद्ध) có nghĩa là người "đánh thức", "thức tỉnh" hay "giác ngộ".

Bud là giác, dha là người. Buddha không phải là tên họ ai hết, nó là cái danh hiệu ca tụng công đức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Tên khai sanh của Ngài là Siddhārtha (Sĩ Đạt Ta hoặc Tất Ðạt Ta), họ là Gautama (Cồ-đàm). Cha là vua Tịnh Phạn (śuddhodana) và mẹ là Hoàng hậu Tịnh Diệu (Māyādevī).

Bắc Kỳ đọc Buddha thành "Bụt-đà" hay "Bụt-đà-da", sau dài quá mỏi mồm, đọc thành Bụt.

Vậy danh xưng Phật có khi nào? Phật là cách phiên âm của người Tàu bên Trung Hoa của chữ Buddha.

Dịch âm tiếng Phạn Buddha là “Phật đà” 佛陀, là bậc tu đã tới cõi giác ngộ hoàn toàn, lại giáo hóa cho người được hoàn toàn giác ngộ.

Tín đồ Tàu tôn xưng người sáng lập Phật giáo Thích Ca Mâu Ni là Phật. Phật 佛 gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất là xuất xứ từ chữ Buddha.

Ở Bắc Kỳ thời Tống đến đời Minh có những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi qua Việt .

Từ đó Việt Nam có danh xưng Phật hay Phật đà.
Đức Huỳnh Phú Sổ của PG Hòa Hảo có câu thơ:

"Tăng sĩ quyết chùa, am bế cửa
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha
Đền xong nợ nước thù nhà
Thuyền môn trở gót Phật-Đà Nam-mô.”

Người ta, người có học, kẻ trí thức hiểu biết quí trọng Đức Phật không phải vì Ngài để lại xá lợi. Qúi mến và tôn thờ cái tinh thần, triết lý và danh thơm của Ngài để lại.

Người ta ca tụng những cao tăng không phải chờ cho mấy ổng chết lượm xá lợi. Tôn trọng vì nhân cách sáng ngời, học thuật cao siêu, trí óc minh mẫn, tâm thế an nhiên, tư thế đàng hoàng.

Một ông sư chết để lại máy chục cục xá lợi mà nhân cách khi sống như ma quỷ, đầu óc ngu dốt, nịnh bợ, lừa thầy phản bạn thì chúng sanh cũng coi ổng như rơm rác thôi.

Chúng ta có tín tâm thanh tịnh thì hình dung tâm mình chính là tâm của Phật.
Và học hỏi ở Đức Phật Thích Ca ở cách sống, cách suy nghĩ của ngài về con đường Trung Đạo, Tứ Diệu Đế, Bình Đẳng và sự Giác Ngộ.

Chúng ta nhìn sự vật cho đúng đắn, hiểu được rõ ràng nguyên nhân và kết quả.
Năm xưa Ấn Độ ràng rịt tôn giáo, ràng rịt đẳng cấp, giai cấp làm dân tình khổ sở oán thán. Đức Phật đã đem lại một sanh khí mới về sự bình đẳng trong xã hội. 

Ngài nói:
“Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn như nhau."

Đức Phật đã dạy chúng sanh không hối tiếc những điều đã qua, không lo lắng về những điều chưa đến, coi trọng những gì có trong hiện tại thì tâm sẽ khoẻ mạnh.

Không cần ăn chay, không cần ê a suốt ngày, chẳng cần màu mè áo xống, chùa lớn chùa nhỏ, tượng nhiều hay tượng ít, bợ ông sư này bà ni nọ. Tin Phật thì hãy sống theo triết học Đức Phật đã dạy.

Cứ ngẫm rằng, cõi Niết Bàn thực nhứt là ở ngay trần thế, là cuộc sống của chúng ta. Chúng ta phải có trách nhiệm làm cho cuộc sống đáng sống hơn .

Ý thức con người, giữ gìn xứ sở, lề lối của ông bà mình để lại.
Chúng ta giữ phẩm giá của chúng ta cũng là một cách tu hành.

Khi còn sống, Đức Phật Thích Ca Siddhārtha Gautama là một bậc đạo sư, ông chủ trương bình đẳng, thành ra ông không kêu ai cạo trọc đầu hết, tất cả còn tóc . Không có chuyện cạo đầu để phân biệt.

Cạo trọc đầu là sau này khi Đức Phật đã qua đời, những người sau bày ra, họ lý giải cạo trọc đầu là tiêu trừ được mọi sự phiền não, tiêu trừ được các tập quán xấu xa cũ kỹ, đoạn tuyệt trần ai.

Thành ra có gì đó khác lạ, tượng Đức Phật thì có tóc xoăn, còn tăng ni thì trọc đầu.

Than ơi! ma quỷ hay thần thánh gì là ở trong đầu chứ không phải ở mấy cọng tóc. Lông tóc không biết triết lý.

Ta còn thấy trên đầu tăng ni Bắc Tông còn có những vết thẹo tròn do chấm nhang phỏng mà thành. Trong Phật giáo Bắc Tông lễ này còn được gọi là “Tấn hương” (đốt nhang ), “Nhiệt đảnh” (Đốt đầu) hay còn gọi là “Đốt Liều”.

Tục đốt nhang trên đỉnh đầu xuất xứ từ Tàu, vào đời nhà Nguyên, xuất xứ từ ông Thích Chí Đức ở chùa Thiên Hỷ tại Kim Lăng vào đời nhà Nguyên. Ông sư này bắt tất cả đệ tử phải lấy đầu nhang cháy đỏ chấm thành thẹo trên đỉnh đầu để chứng minh tâm nguyện trọn đời theo Phật.

Phật giáo Nam Tông không có truyền thống đốt này.
Bày ra là tật của kẻ đi sau.

Đức Phật thì không có kêu mà những người sau họ muốn chứng tỏ họ quyết tu, nhưng suy cho cùng, họ đã không hiểu rõ giáo lý của chính Đức Phật.

Đạo Phật từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sở dĩ nó tồn tại là nhờ tinh thần khoan dung, tự do, tôn trọng và vỗ về an ủi chúng sanh trong mọi sự dù nguy nan tới an lạc.

Thành ra ba cái lễ lạc là màu mè, tâm lễ mới quan trọng.
Xin mọi người đừng đâm đầu vô ba cái xá lợi rồi dễ bị dẫn dắt này nọ.

Tinh thần của Đức Phật mới quan trọng, xá lợi của Ngài chính là triết lý của Ngài.

Học giả Nguyễn Hiến Lê từng nói:
"Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết Bàn hay Thiên Đàng."

Đức Phật từng dạy:
“Này các Tỳ kheo, bây giờ chư vị và ta tự do, giải thoát khỏi những sự trói buộc của chư thiên và loài người.”

"Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch."

“Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề.”

Phần đông đi học, chúng ta ý thức rằng, có sống sẽ có chết, chết là hết, chỉ còn danh là còn ở lại. Cái danh con người mới là cái để lại thực tế cho đời, danh tốt và danh dơ. Bia đời, bia miệng mới là bia trường cửu.

Xá lợi là những gì còn lại sau khi thiêu đốt một thân xác người chết mà thôi.

Khi còn sống, Đức Phật đâu có lập giáo, đâu xưng giáo chủ, Ngài chỉ là người tu tập chỉ dẫn cho chúng sanh con đường diệt khổ, người dẫn đường, tu kiểu Phật là bỏ cái bản ngã mình xuống hết.

Đức Phật chưa bao giờ cho rằng Ngài là thần linh hay Thượng Đế. Ngài chưa bao giờ bảo Ngài có quyền năng ban phước cho những ai kính tin Ngài, sùng bái Ngài, và giáng tai họa đến những ai không kính tin, không sùng bái Ngài.

Đức Phật chỉ là người tìm ra chân lý và dẫn đường cho chúng sanh đến với chân lý đó. Ngài là người đã thoát khổ và chỉ cho chúng sanh biết phương pháp thoát khổ đó.

Cái vụ xá lợi Phật có là sau khi Ngài tịch, chúng sanh thương mà tôn thờ xá lợi Ngài. Người ta biến xá lợi thành hình tượng tâm linh.

Xá lợi Phật đâu có nhiều, mà chắc gì của chính Phật mà khắp nơi trên thế giới đều có?

Còn xá lợi tăng thì tôi không tin. Tăng ni là người ăn cơm chúng sanh, giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản, Tăng cũng như mọi chúng sanh là tu thân và hòa cùng mọi người, không có nghĩa gì phải tôn thờ xá lợi tăng.

Đức Phật dạy:
“Hãy tự xem con là hải đảo của con, hãy tự xem con là nơi nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác” (Trường A-hàm, kinh Đại bát Nát Bàn).

Đức Phật dạy: “Chính các ngươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương tựa cho các ngươi.” (Kinh Pháp Cú, kệ 380).

Người chết để danh chứ không phải xá lợi, như con cọp chết để da vậy, xương cốt thành tro bụi, cái danh mới ngàn đời, suy cho cùng tro cốt hay xá lợi nó đã thành vật chất rồi.


Nguyễn Gia Việt




No comments:

Blog Archive