Sunday, June 5, 2022

Nhạc sĩ Cung Tiến (1938- 2022)














* Xin kính cẩn VĨNH BIỆT người nhạc sĩ rất mực tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam đương đại: Nhạc sĩ Cung Tiến (1938- 2022)

Nhạc sĩ Cung Tiến sinh năm 1938 tại Hà Nội. Ông học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng là Thẩm Oánh và Chung Quân tại trường TH Chu Văn An và Nguyễn Trải.

Từ nhỏ, ông đã có khiếu về thổi sáo, đàn mandoline, guitar cổ điển trước khi làm quen với đàn piano khoảng 1957 - 1963 khi ông được học bổng du học tại Úc.

Năm 1953 (mới 15 tuổi), ông đã sáng tác hai ca khúc bất hủ là “Thu Vàng” và “Hoài Cảm”.

Năm 1970, ông nhận học bổng cao học tại Anh Quốc, nghiên cứu kinh tế học. Tại đây, ông tham dự các lớp nhạc sử, nhạc học và nhạc lý. Ngoài âm nhạc, ông cũng đóng góp cho lãnh vực văn học với bút hiệu Thạch Chương.

Sau biến cố 1975, ông định cư tại Hoa Kỳ, làm việc cho Bộ An Ninh Kinh Tế Tiểu Bang Minnesota.

-- Nguồn : saigonocean3


HƯƠNG XƯA (Cung Tiến) - Tuấn Ngọc

Người ơi, môt chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa?
Ngươi ơi, đường xa lắm con đường về làng dìu mấy thuyền đò
Còn đó tiếng tre êm ru
Còn đó bóng đa hẹn hò
Còn đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mông nghe sáo vi vu

Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao
Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao
Còn đó tiếng khung quay tơ,
Còn đó con diều vật vờ
Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa

Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi
Buồn sớm đưa chân cuộc đời
Lời Đường Thi nghe vẫn rền trong sương mưa
Dù có bao giờ lắng men đợi chờ
Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô
Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ
Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó

Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ
Dù đã quên lời hẹn hò
Thời Hoàng Kim xa quá chìm trong phôi pha
Chờ đến bao giờ tái sinh cho người

Đời lập từ những đêm hoang sơ
Thanh bình như bóng trưa đơn sơ
Nay đời tan biến trong hư vô,
chết đầy từng mồ oán thù.
máu xương tơi bời nhiều mùa thu ....

Người ơi, chiều nào có nắng vàng hiền hòa sưởi ấm nơi nơi?
Người ơi, chiều nào có thu về cho tôi nhặt lá thu rơi?
Tình có ghi lên đôi môi
Sầu có phai nhòa cuộc đời
Người vẫn thương yêu loài người và yên vui cuộc sống vui.
Đời êm như tiếng hát của lứa đôi,
Đời êm như tiếng hát của lứa đôi ....

HOÀNG HẠC LÂU --Thôi Hiệu-
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Bản dịch của Vũ Hoàng Chương:

'Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống nào quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi!"

**Ca khúc “Hoàng Hạc Lâu” của CUNG TIẾN, giọng ca Quỳnh Giao:

PHỎNG VẤN Cung Tiến -- Ký giả Ngọc Lan-

1. Nhạc sĩ Cung Tiến: Ở cái tuổi 14, 15 thì đâu có nghĩ viết tác phẩm quan trọng nên 'Hoài Cãm' là bài hát trong tưởng tượng, nhớ về một người nào đó mình yêu mến, chứ không có ý nghĩ sâu xa gì cả. Lời ca bị ảnh hưởng từ những bài thơ học ở trường, như thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, những nhà thơ lãng mạn hồi đó.

Âm nhạc hay bất cứ sáng tác nghệ thuật nào, cũng là sự tưởng tượng cả. Một mối sầu, buồn, vui hay là mối khoan thai, hoàn toàn là tưởng tượng của người sáng tác.

2. Hỏi: Ông có từng mơ trở thành nhạc sĩ trước khi thành chuyên gia kinh tế không?

- Đáp: Không. Có một chuyện này: hôm mới vào Sài Gòn, trên đài phát thanh quốc gia có tổ chức tuyển lựa ca sĩ, tôi cũng dự thi, không nhớ hát bài gì. Khi về nhà, thấy bố tôi vứt hết quần áo, sách vở của tôi ra trước cửa. Bởi vậy, mình đâu có dám mơ đâu, vì gia đình không muốn.

3. Hỏi: Nổi tiếng với những nhạc phẩm “Hoài Cảm,” “Thu Vàng,” “Hương Xưa”... ông thích được biết đến trong vai trò nhạc sĩ hay nhà kinh tế?

- Đáp: Tôi có nhiều sở thích lắm: văn chương, tiểu thuyết, thơ, hội họa, toán học và kinh tế - là ngành tôi được học bổng ra ngoại quốc học. Nhưng âm nhạc vẫn là sở thích đầu tiên và cuối cùng trong đời tôi.

4. Hỏi: Ngoại trừ “Hoài Cảm”, “Thu Vàng”, “Hương Xưa”, hầu hết các tác phẩm của ông đều phổ nhạc từ thơ Thanh Tâm Tuyền, Phạm Thiên Thư, Trần Dạ Từ, hay ý thơ Xuân Diệu…Ông có chia sẻ gì về điều đó?

- Đáp: Hồi nhỏ học trung học, tôi chỉ biết viết “popular song”, tức là những ca khúc phổ thông. Âm nhạc có nhiều khía cạnh, nhiều trật tự phải theo như: hòa âm, đối điểm, tổ khúc, phối âm… mà hồi ở Việt Nam, tôi chưa được học.

Năm 1956, sang Úc học về kinh tế, trong thời giờ rảnh tôi học thêm ở Nhạc Viện Sydney; từ đó tôi mới khám phá ra những khía cạnh của âm nhạc, không chỉ melody- làn điệu, mà còn nhiều yếu tố khác. Từ đó trở đi, tôi phổ nhạc thơ, vì nếu thơ có nhạc phụ họa vào sẽ có chiều kích (dimension) khác, gọi là ca khúc nghệ thuật- “art song”.

5. Hỏi: Nếu một người bắt đầu học kinh tế, nhạc sĩ có khuyên họ sẵn đó, nên học nhạc luôn không?

- Đáp: Không. Với tôi, kinh tế là sở thích 'bắt buộc' vì tôi được học bổng đi học. Kinh tế cũng là một nghệ thuật, đoán trước ý muốn của người tiêu thụ để sản xuất làm ra cái đó. Phải có sự quân bình giữa cung và cầu. Giản dị vậy thôi. Khoa học thì lại khác, toán học hoặc vật lý học chính xác hơn.

Không chính xác cho nên "nghệ thuật kinh tế' có những rủi ro; thế nhưng, áp dụng vào âm nhạc thì không thể được.

6. Hỏi: Xin giải thích diểm giống nhau và khác nhau giữa những ca khúc sau này với những bài hồi xưa.

- Đáp: Ngày xưa, tôi không biết xài chất liệu âm thanh Á Ðông. Nhưng sau khi học nhiều về nhạc, tôi mới ý thức có cả kho tàng về làn điệu mà Việt Nam chưa khai thác được, đó là âm giai ngũ cung.

Vì thế, tác phẩm mới là bản “Hoàng Hạc Lâu”, thơ của thi sĩ Thôi Hiệu đời Ðường, Vũ Hoàng Chương dịch Việt, là bản đầu tiên tôi dùng chất liệu quý báu của âm nhạc dân tộc.

7. Hòi: Sáng tác nào để lại cho nhạc sĩ nhiều kỷ niệm, cảm xúc nhất, cho đến bây giờ?

- Đáp: Khó nói lắm. Như thể có 10 đứa con, mà phải nói thương đứa nào nhất vậy!

Có những bài lạc đâu mất. Ví dụ, bản Mùa Hoa Nở, viết năm 1956. Khi rời Việt Nam, tôi không mang theo bất cứ thứ gì. Tất cả tài liệu, sách vở đều để lại Sài Gòn hết.

Tình cờ một hôm, ca sĩ Mai Hương gửi cho tôi bản Mùa Hoa Nở. Tôi rất ngạc nhiên: “Ủa, đứa con bị thất lạc đâu mà mặt mũi lem luốt quá đi!”. Về nhà tôi thương nó, mới sửa lại thành ra hợp xướng khúc.

Nói tóm lại, mỗi thời kỳ sáng tác đều có kỷ niệm riêng. Thời nhỏ đi khỏi là nhớ Hà Nội. Rồi hồi di cư vào Nam, nhớ những đoàn người từ Bắc xuống miền Nam. Rồi đến khi sinh viên, lại có xúc động khác.

Thế nhưng, có thể nói tác phẩm tôi trân quý nhất đến giờ là tập “Vang Vang Trời Vào Xuân”. Ca khúc từ thơ của người bạn thân- là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, được sáng tác trong trại tù, và bằng cách nào đó ông ấy đưa được ra ngoài để in… Tôi hết sức cảm động, viết thành 12 bản rồi sau rút lại còn 10 bản. Ðó là những gì suốt đời tôi trân quý nhất về tình người, tình bằng hữu và tình cảnh đất nước hồi đó.

8. Hỏi: Xin nhạc sĩ chia sẻ với độc giả về cuộc sống hiện tại của ông.

- Đáp: Tôi đã về hưu và ở Minnesota cùng vợ. Con trai tôi sống ở tiểu bang khác. Tôi nuôi hai con chó, hàng ngày chơi với chúng, viết nhạc và đọc sách.

No comments:

Blog Archive