Thursday, December 19, 2024

CUỘC CHIẾN TAY BA

Dư luận thế giới không ngừng phỏng đoán cuộc chiến tay ba Nga-Mỹ-Tàu đang hình thành và khó tránh khỏi nguy cơ tàn phá nền văn minh nhân loại.

Dĩ nhiên, chẳng ai trên thế gian này mà không lo lắng, ưu tư ở nhiều cấp độ khác nhau.

Cầu nguyện ư? Mong đợi kỳ tích? Buông trôi theo số phận con người? Góp sức ngăn chặn?

Loài người bước vào thế kỷ thứ 21 với niềm tin và khát vọng sẽ xây dựng được một nền hòa bình vĩnh cửu do đã từng trải qua kinh nghiệm đau thương tột cùng trong thế kỷ 20.

Không may, loài người vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng ma chiến tranh khốc liệt khắp nơi. May mà vũ khí hạt nhân chưa được sử dụng trong các cuộc xung đột trên thế giới.

Chớ vội mừng. Số lượng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc ngày càng nhiều làm gia tăng tham vọng vô bờ của Chủ tịch Tập Cận Bình. Huỷ hoại môi trường sống của nhân loại vẫn đóng vai trò răn đe lẫn nhau, ngày càng gay gắt.

Trong khi Trung Quốc và Nga đẩy mạnh hoạt động chế tạo các loại hoả tiễn tầm xa hầu cạnh tranh vai trò lãnh đạo thế giới thì một số cường quốc Châu Âu muốn thay thế Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo NATO. Trump không như Biden ngu ngốc, lẫn, yếu hèn khi đẩy Ukraine vào miệng cọp Putin và cuộc chiến tiêu huỷ khủng khiếp tại Trung Đông.

Tiền bạc, vũ khí do Biden bắt buộc dân Mỹ cung cấp cho Ukraine chỉ kéo dài thảm kịch cho dân tộc này vì các lý do rất dễ hiểu. 
(1) Ukraine không đủ khả năng giao chiến với Nga trong bất cứ tình huống nào luôn ở thế hạ phong vào trường hợp “đánh tay đôi”. 
(2) Nhược tiểu không thể đơn phương giao chiến với cường quốc có số vũ khí hạt nhân hàng đầu thế giới dù có chung đường biên giới hay không. 
(3) Trong điều kiện chiến tranh, nhược tiểu mau kiệt quệ hơn cường quốc. (4) NATO không thể tiếp nhận Ukraine để trở thành kẻ thù của Siêu cường Nga. 
(5) Ukraine xua quân đi chiếm đất siêu cường Nga để bị vây hãm khó thoát. (6) Chiến tranh tạo điều kiện cho Nga mở rộng lãnh thổ miền Đông-Nam Ukraine. 
(7) NATO không vì ủng hộ Ukraine mà để xảy ra Đệ tam Thế chiến!!!

Tập đoàn Barack Obama-Joe Biden không hiểu thời thế, khả năng của đối phương nên khi khai chiến hoặc đối đầu chỉ bị tiền mất tật mang.

Tổng thống George W. Bush đã ổn định tình hình Iraq sau 8 năm chinh chiến, hao binh, tổn tướng. Iraq đã lập được Chính phủ lưỡng phái: Shia và Sunni để Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Trung Đông.

Tân Chính quyền Barack Obama-Joe Biden tiến hành chính sách dân-chủ-hoá Trung Đông đã động chạm tới cốt lỏi của Đạo Hồi: độc quyền tôn giáo tại Trung Đông. Suốt 8 năm không một ngày nào ngưng tiếng súng càng làm cho mối hận thù tôn giáo sôi sục. Đồng thời, chiến trường A Phú Hãn gây hao binh tổn tướng cho Hoa Kỳ. Nhiệm kỳ 8 năm Obama-Biden đã lưu lại một món “nợ-công” tương đương với số “nợ-công” của 43 vị tiền nhiệm gộp lại!!!

Thế mà cho tới ngày nay, một số học giả Mỹ vẫn ca tụng thành tích của Obama mà không bao giờ kèm theo tên Biden?

Trình độ học vấn của Obama vẫn mù mờ? Không ghi nhận hồ sơ nào nói ông Obama đã dự thi để lấy bằng luật sư! mảnh bằng luật sư của Obama bị vô hiệu hóa vào năm 2002. Phóng viên George Stephanopoulos của hãng thông tấn ABC, bạn cùng khoá với Obama tại Đại học Columbia năm 1984 nói chẳng quen biết. Fox News đã tiếp xúc với 400 sinh viên của trường Đại học Columbia từ thuở Obama nói đã học ở đó mà không ai biết. Số An sinh Xã Hội mà Obama hiện dùng được cấp phát tại Connecticut, nơi ông ta không bao giờ sinh sống. Suốt 8 năm tại chức Tổng thống Barack Obama đã phát động chiến tranh làm tan nát Libya thuộc Bắc Phi. Bị sa lầy trong chiến tranh Trung Đông suốt 8 năm.

Tác giả Frosty Wooldridge nhận xét “Obama chẳng làm được điều gì trước khi vào Nhà Trắng, làm rất ít chuyện tốt tại Nhà Trắng, và tiếp đến là sẽ chẳng làm được gì cho đến hết đời của ông”.

Thành tích xảo trá của Đảng Dân Chủ Mỹ đã đưa Joe Biden thành Tổng thống được 4 năm rồi tô son điểm phấn cho Phó tổng thống Kamala Harris đương đầu với Ứng viên Donald Trump.

Các chính trị gia nổi tiếng của Đảng Xã hội Mỹ biết xu thế bất lợi nên chỉ lo vổ tay cổ vũ cho Kamala. Họ đã đánh giá đúng thời cuộc bất lợi cho ứng viên Đảng Dân Chủ Mỹ nên phải lặn sâu.

Tổng thống đắc cử Donald Trump chưa đăng quang mà đã được giới cầm quyền quốc tế săn đón tại Lễ Khánh thành Nhà thờ Đức Bà ở Paris. Trump đưa ra các nét khái quát, nhưng, tình hình gay cấn hơn tin tức báo chí đã loan tin.

Tổng thống Joe Biden quyết đưa Hoa Kỳ vào thế “việt vị” sau khi bàn giao cho Trump.

Thứ nhất, Biden cho phép Ukraine tấn công tỉnh KURSK nên bị sa lầy trên đất địch, chờ ngày bị tiêu diệt. Nga mở rộng vùng chiếm đóng miền Đông Nam Ukraine để cho Trump phải gánh hậu quả!

Thứ hai, Biden cho phép Ukraine nã đại bác vào lãnh thổ Nga bị Putin phản pháo bằng tầm xa và tàn phá dữ dội hơn.

Nhiệm kỳ 4 năm của Biden-Kamala đã giúp cho Bắc Kinh phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Quân sự: ngày càng tương đương với Mỹ; mở rộng quyền kiểm soát ở đất liền cũng như biển cả. Kinh tế: mở rộng giao thương toàn cầu nhờ sản phẩm đa dạng, giá thành thấp. Ngoại giao: ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới thiết lập bang giao nhờ che dấu được tham vọng thống trị toàn cầu.

Trong nhiệm kỳ 4 năm đầu của Tổng thống Donald Trump đã giúp nhiều quốc gia chấm dứt chiến tranh, hợp tác hành động cùng nhau xây dựng hoà bình và phát triển quốc gia. Đại dịch Covid-19 lan khắp toàn cầu buộc Trump dồn nỗ lực chống dịch nên trì trệ sản xuất để bảo vệ bình yên trên thế giới.

Cáo già Vladimir Putin sẽ dễ thoả thuận với Donald Trump hơn vì không muốn Quả Địa Cầu thành bãi tha ma không còn người thắp nhang.

Nhưng, Tập Cận Bình mang dòng máu Thành Cát Tư Hãn chỉ muốn đuổi tận, giết tuyệt. Không những các dân tộc Châu Á mà Châu Âu cũng từng là nạn nhân của dòng máu Thành Cát Tư Hãn.

Nhân loại đang chờ Donald Trump mở đường sống an bình, thịnh vượng.

Đại-Dương

FBI Takes Down 2 CCP Agents on American Soil




Prince Andrew - China’s Useful Idiot in the UK

 


MỘT CÂU CHUYỆN BUỒN

Thân gửi đến quý anh chị đọc để thông cảm với sự bất hạnh của người Việt đồng hương, và cảm ơn đời vì nhìn lại vẫn thấy mình còn may mắn hơn   người khác.( Đinh công Đức.)

Tôi nhớ rất rõ chuyện xẩy ra rất lâu khi tôi gần hơn bốn tuổi.

Hồi đó, gia-đình tôi sống gần một làng chài ở Mỹ-khê, Đông-Giang thuộc quận ba thành-phố Đà nẵng.

Ba tôi phục-vụ trong quân-đội VNCH, đơn-vị đóng ngoài Quảng-Trị, cấp bậc hạ-sĩ. Mẹ tôi bán cá ngoài chợ Sơn-trà. Mẹ tôi mua cá của những ghe chài cập bến vào sáng sớm, để đem ra chợ bán. Một buổi trưa Chúa nhật, hai anh em tôi chơi banh ngoài sân cỏ bên cạnh nhà, chờ mẹ về cho ăn cơm. Anh tôi học lớp đệ thất trường Trung-học Đông-Giang, tôi học lớp mẫu-giáo của một trường tư trong phường. Đang chơi, vô tình trái banh do anh tôi đá quá mạnh, tôi đỡ không nổi nên bị trái banh trúng vào mặt.

Đau quá tôi khóc ầm lên, anh tôi chạy đến dỗ dành tôi, lấy tay lau nước mắt cho tôi, xoa nhẹ vào má tôi, nơi bị đau. Vừa lúc đó mẹ tôi từ chợ về. Thấy mẹ, tôi càng khóc lớn thêm. Khi biết được sự việc, mẹ tôi quơ tay đập nhẹ mấy cái vào đầu anh tôi mắng: “Cha mi, làm em đau,” rồi vội dẫn tôi vào nhà, lấy khăn ướt lau mặt cho tôi, để tôi vào võng đưa qua đưa lại, dỗ dành: “Nín đi con, sau nầy đừng chơi banh nữa, tháng tới sinh nhật con ba về mẹ nói ba mua cho con chiếc xe đạp nhỏ, con đạp đi học giống như anh Hai của con.” Nói xong, mẹ tôi đi vào bên trong nhà rồi trở ra, một lá thơ trên tay: “Đây là thơ của ba con gởi về hôm tháng rồi” mẹ tôi đọc:

– Tháng tới, ngày 27 tháng 4 sinh-nhật của cu Tấn, anh sẽ xin phép về vài ngày. Em xem mấy cửa hàng bên chợ Hàn nơi nào bán xe đạp vừa tầm cỡ cu Tấn, anh về sẽ mua cho con một chiếc.

Nghe vậy, tôi ngừng khóc. Mẹ tôi ngồi vào võng, ôm tôi nằm sấp vào lòng, vừa đưa võng vừa nói, “Bữa ni mới 10 tây tháng hai, còn hơn hai tháng nữa ba mới về. Từ đây đến ngày đó, nếu con còn nhõng nhẽo không nghe lời của mẹ và anh hai thì mẹ nói ba không mua xe đạp cho con đâu.”

Tiếng mẹ tôi nghe nhỏ dần, trong mơ tôi nghe tiếng ba tôi khen “Cu Tấn đạp xe giỏi quá”, tiếng mẹ và anh hai: “Coi chừng té! coi chừng té”, và tiễng vỗ tay của ba người.

Một buổi sáng, tôi đã thức dậy nhưng còn nằm nuớng trên giường với mẹ. Hôm đó biển động nên không có cá bán, mẹ ở nhà. Mẹ tôi ôm tôi: “Còn gần một tháng nữa, ba con về phép mua xe cho con, con lớn rồi, bốn tuổi đâu còn nhỏ nữa mà hở đâu khóc đó” Tôi mắc cở, dụi đầu vào lòng mẹ thì nghe có tiếng đập cửa rất mạnh.

Tiếng bác Hội hỏi lớn: “Thiếm Tiếng có nhà không? thiếm Tiếng có ở nhà không? “Mẹ tôi vùng ngồi dậy, trả lời:

– Dạ, có tôi ở nhà, hôm nay biển động nên không có cá. Có chuyện gì không anh?

Mẹ tôi mở cửa. Tôi nghe tiếng bác Hội:
– Tụi Việt-cọng đã tấn công vào Quảng-trị. Kỳ nầy nghe đâu bọn nó tấn công khắp nơi. Đơn vị của chồng thiếm bị tan hàng, một số bị bắt, một số bỏ chạy, một số bị thương trước đó, được đưa vào bịnh-viện Huế. Chú Tiếng, chồng thiếm nghe nói bị thương, đang nằm ở bịnh-viện Huế. Tin nầy do thằng Báu vừa chạy về cho biết. Hai đứa nó cùng đơn-vị..

Mẹ tôi khóc. Tôi thấy mẹ tôi như tàu chuối héo, rũ người trên ghế. Tôi và anh hai tôi sợ sệt, vội chạy đến bên mẹ trố mắt nhìn mẹ, không biết nói gì. Nghe tiếng ồn ào, hàng xóm chạy qua, mỗi người một tiếng khuyên mẹ tôi bình-tĩnh nhưng mẹ tôi vẫn khóc.

Hai ngày sau mẹ tôi đi Huế để tìm ba. Hai anh em tôi được mẹ nhờ bác Hội trông nom săn sóc. Mẹ tôi mua một bao gạo và kho sẵn mấy nồi cá dành cho hai anh em tôi ăn dần khi bà đi Huế.

Bác Hội là bạn cùng xóm với ba tôi. Nhà hai gia-đình sát vách nhau. Hai người chơi với nhau khi cả hai còn chưa biết hổ thẹn khi chỉ mặc áo. Bác hơn ba tôi năm tuổi. Ba tôi rất thương bác Hội vì ba là con duy nhất của ông bà nội. Bác cũng thương ba tôi như em. Sau nầy tôi được biết bác đã muốn gã em gái cho ba tôi, nhưng rồi chuyện hôn nhân không thành.

Bác Hội thi tú tài không đậu nên bác tình nguyện xin đi học Trung-sĩ để khỏi bị bắt làm lính khi đến tuổi thi hành quân-dịch. Bác phục-vụ tại sư-đoàn 2 bộ-binh đóng tại Quảng- ngãi. Năm 1972, bác bị thương, mất một chân và được giải ngũ. Ngày bác cưới vợ, ba tôi dự tiệc, uống rượu rồi gây gỗ ồn ào với một ông khách tham dự lễ cưới. Cảnh-sát quốc-gia can thiệp, bắt và chuyển ba qua Quân-cảnh tư pháp vì tội trốn quân dịch. Ra tóa án quân-sự, ba tôi bị xử đi quân dịch. Ba tôi được đưa đi huấn-luyện tại Trung tâm huấn luyện Hòa-cầm ở quận Hiếu-Đức,Tỉnh Quảng- nam.

Lúc đó ba tôi đã có vợ và anh Hai tôi độ chừng bảy tuổi. Ba tôi đóng quân tại tỉnh Quảng-trị và hai lần được thưởng Anh-dũng bội tinh tại mặt-trận. Bác Hội thường nói với anh Hai tôi:”Ba mầy hiền lành như con gái nhưng ra ngoài mặt trận với địch quân, ba mầy gan dạ, không biết sợ chết là gì, được gắn huy chương, được thăng cấp ngoài mặt trận, còn bác chẳng được gì ráo, lúc nào cũng chỉ mang lon trung-sĩ quèn”.

Mẹ tôi đi Huế tìm thăm ba đã hơn hai tuần mà chưa thấy về. Ba nồi cá kho ăn đã gần hết. Hai anh em tôi ngày nào cũng khóc vì nhớ mẹ. Buổi tối bác Hội thường qua nhà ngồi chơi, an ủi hai anh em tôi đến khuya với về lại nhà bác. Và từ đó hai anh em tôi không còn gặp lại ba và mẹ.

Một hôm, trong xóm bỗng nhiên tiếng chó sủa vang, tiếng người gọi nhau inh-ỏi, tiếng súng nổ, lính tráng từ đâu đổ về đầy xóm, đầy bãi biển. Xe cộ nối đuôi nhau nằm ụ hai bên vệ đường. Người dân đủ cỡ, đàn bà con nít, ông già bà cả dìu dắt nhau đi, vừa hớt hãi chạy, vừa khóc, tất cả dều theo huớng ra bờ biển. Trong xóm tôi, vài gia đình cũng bồng bế nhau chạy ra bãi biển. Vài người gọi với vào nhà tôi: “Chạy đi, cọng-sản sắp vào tới rồi!”. Hai anh em tôi đứng trong nhà nhìn đoàn người lũ lượt đi..và nhớ đến ba mẹ, chỉ biết khóc.

Tôi nghe tiếng bác Hội nói với những người cùng xóm rũ bác đi lánh nạn: “Tôi chỉ còn có một chân mà chạy đi đâu? ” Tối hôm đó bác qua nhà tôi bảo anh Hai tôi hạ cây cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Bác nói:

– Thằng Tấn anh, mày leo lên đem lá cờ xuống dấu kỹ một chỗ, sau nầy dùng lại; nếu không, lũ khốn-nạn đó vào mà thấy được, chúng sẽ không để yên cho sống đâu.

Anh hai tôi đem lá cờ xuống xếp nhỏ lại, rồi thoăn thoắt leo lên cột nhà để vào chỗ nứt của đầu kèo nhà, nơi mà anh tôi hay giấu những đồ chơi quý mà anh không muốn cho tôi phá vì sợ bị làm hư.

Rồi một ngày, đồng loạt tất cả nhà nhà trong xóm đều treo cờ đỏ sao vàng. Anh em tôi được phát mỗi đứa một khăn quàng đỏ và ngày nào cũng đi sinh hoạt thiếu nhi, có ngày mệt quá hai đứa tôi không ăn uống gì hết, tối về đến nhà là lăn ra ngũ, quên cả khóc nhớ ba mẹ.

Ông thợ may đầu xóm thành ông tổ trưởng dân phố. Mấy con ông, cả trai và gái đứa nào cũng có súng, đi lục soát từng nhà tìm bắt những người đã làm việc cho “ngụy”. Tôi nghe bác Hội gọi lén lũ nầy là bọn “ôn dịch”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cọng-sản”. Cá kho hết, anh em tôi ăn cơm với nước mắm. Hết nước mắm, anh em tôi ăn cơm với muối. Đến khi hết gạo thì bác Hội cho tụi tôi ăn cơm độn khoai mì. Nhà bác Hội nghèo, có bác gái và hai đứa con nên phần cơm chia sẽ cho anh em tôi không đủ no bụng.

Bác Hội giúp anh Hai tôi bán cái Radio, rồỉ đến chiếc xe đạp…rồi đến một ngày trong nhà không còn gì để bán. Nhà bác Hội cũng không còn gì để bán. Bắt chước mấy người trong xóm, hai anh em tôi đi khắp nơi lượm bao nylon đem ra biển rửa sạch, phơi khô, vài ba ngày gom lại đem bán lấy tiền mua gạo. Những lúc phơi bao nylon trên bãi biển, tôi phải ngồi canh chừng, nếu không kẻ khác lấy mất. Có lúc canh chừng mà tôi ngũ quên, kẻ gian lấy hết. Anh Hai tôi không nói gì, nhưng nhìn thấy mặt anh buồn thiu.

Bác Hội gái không còn đuợc cho đi dạy học. Bác chuyển sang mua cá ngoài bến ghe chài đem bán dạo trong xóm. Nhớ trước đây mẹ tôi bán cá trong chợ, tôi hỏi tại sao bác không bán trong chợ như mẹ tôi trước đây? Bác nói “Bác không vào hợp tác xã nên không bán ngoài chợ đươc.” Bác phải mua cá của những ghe chài bán lậu trước khi cập bến.. Để tránh sự dành giật nhau khi mua cá lậu, bác rủ anh tôi cùng phụ bác đi mua bán cá. Khi ghe bán lậu cá còn xa bờ, anh hai tôi bơi ra ghe mua cá rồi đem vào. Cá được cho vào một sô nhựa, bác Hội gái và anh tôi thay nhau xách đi bán khắp nơi trong phường, khóm, có khi đi qua trung tâm thành phố. Công việc kéo dài được vài tháng thì bị công an phường cấm. Anh em tôi không còn gì để ăn, tôi hay đói nên lúc nào cũng đòi ăn. Hàng xóm thương tình, người cho củ khoai, người cho củ sắn nhưng không làm sao hết đói.

Rồi một buổi sáng sớm, anh hai tôi dắt tôi đến bịnh-viện, anh tôi bảo tôi ngồi chờ anh trước cổng, anh đi vào bên trong.Tôi ngồi chờ lâu quá nên tựa lưng vào tường ngủ gật. Khi anh đánh thức tôi dậy thì mặt trời đã chiếu ngay trên đầu. Anh kéo tôi đi nhanh khỏi bịnh viên, anh nói: “Tấn em chắc đói nhiều lắm rồi phải không?”.

Tôi chưa kịp trả lời anh rằng “từ hôm qua đến giờ em có gì để ăn đâu! ” thì anh nói tiếp: “Anh cũng đói lắm, hai ngày ni anh cũng chẳng có gì để ăn hết….bây giờ anh em mình tìm gì để ăn.” Anh đi vào con hẻm bên kia đường. Tự nhiên tôi đứng lại không chịu đi theo anh. Kéo mạnh tay tôi, anh nói: “Vào đây anh em mình ăn bún.” Tôi lắc đầu: “Mình không có tiền mà!”. Anh khựng lại nhìn tôi, hai mắt anh sáng lên, giọng anh như reo vui: “Hôm nay anh có tiền!” Anh cho tay vào túi rút ra mấy tờ giấy bạc cho tôi thấy, lúc đó tôi mới chịu đi theo anh. Gánh bún bên lề đường đông người, hai anh em phải chờ khá lâu.. Bụng tôi cứ vang lên tiêng rột…rột..nước miếng cứ chảy ra. Hôm đó anh mua ba tô bún, mỗi người một tô, tô thứ ba được chia làm hai, nhưng anh dồn hết phần thịt cho tôi, anh chỉ lấy phần bún.

Ăn xong tôi theo anh vào chợ mua gạo khoai mì và nước mắm. Ngày hôm sau anh thức dậy sóm, nấu cơm ghế khoai mì. Hai anh em ăn cơm ghế khoai với nước mắm.

Bắt đầu một ngày mới. Hai anh em tiếp tục đi nhặt bao nylon.
Hai tuần sau, anh lại đưa tôi đến trước bịnh-viện, tôi đúng chờ trước cổng, anh đi vào trong và khi anh trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún. Anh cũng mua ba tô, mỗi người một tô, tô thứ ba chia hai, anh chia hết phần thịt cho tôi. Từ hôm đó tôi cứ trông đến ngày anh hai tôi dẫn tôi đến trước bịnh-viện, tôi sẽ đứng bên ngoài chờ, anh đi vào bên trong, lúc trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún.

Lần thứ ba, anh hai tôi dẫn tôi đến bịnh-viện, tôi cũng đứng trước cổng chờ. Lần này tôi nhìn thấy bác Hội từ bên trong bịnh-viện đi ra, cùng lúc ấy bác cũng nhìn thấy tôi, bác hỏi: “Tấn em làm gì đứng đó?”.Tôi trả lời: ” Con đợi anh hai con, anh ấy vào trong đó” tôi vừa nói, vừa chỉ tay vào bịnh viện. Bác nói: “Anh hai con vào trong đó làm gì vậy kìa? Nó có nói với con không?”.Tôi lắc đầu. Bác đứng lại với tôi, lấy thuốc ra hút….Anh hai tôi từ trong bịnh-viện đi ra. Bỗng nhiên anh đứng khựng lai, vẻ mặt sợ hãi, có lẽ vì nhìn thấy bác Hội? Cùng lúc ấy, bác Hội hỏi:

“- Con vô đây làm chi rứa?”

Anh hai tôi không trả lời, mặt nhìn xuống đất, tôi nhìn thấy trong mắt anh chớp chớp, như có những giọt nước. Bác Hội sẵng giọng:”Con vào đó bán máu phải không?”. Anh tôi không trả lời, hai vai anh run nhẹ, những tờ giấy bạc rơi lả tả xuống đất. Bác Hội lê bước tới nắm tay anh kéo đi. Tôi lượm lại mấy tờ giấy bạc chạy theo. Đến một khoảng vắng, bác vứt cây nạng gỗ xuống đất, bác kéo anh tôi vào lòng, bác khóc, anh hai tôi khóc và tôi cũng khóc.

Về đến nhà, bác hỏi anh hai tôi ai chỉ vẽ cho anh đi bán máu, anh nói:”Trong xóm mình nhiều người đi bán máu lắm, họ rũ con đi”. Bác thở dài, lẩm bẩm: “Khốn nạn cho cái xã-hội mới nầy”!

Một hôm trời mưa, hai anh em tôi không đi lượm bao nylon. Tôi qua chơi với hai đứa con của bác Hội. Buổi trưa về, vừa mở cửa vào phòng, tôi thấy tên công an Được đang ở trong nhà. Nó vứt mấy đồng bạc trên giường và nói: “Giữ lấy mà mua gạo ăn!”. Tôi nhìn anh tôi dò hỏi nhưng anh im lặng.

Từ đó, anh tôi không còn vui cười, mặt lầm lì, hay tránh mặt tôi. Vài ngày sau, bác Hội đưa anh vào bịnh-viện vì anh bị đi cầu ra máu. Về nhà, bác lẩm bẩm suốt ngày: “Tên khốn khiếp! có súng, tau bắn nát đầu mầy”.

Bác Hội xin được cho anh hai tôi công việc gỡ lưới bắt cá trên một ghe chài của một người bà con bên vợ.

Hàng ngày tôi đi lượm bao nylon một mình. Buổi tối tôi ngủ một mình. Anh hai tôi theo ghe chài hai ngày mới về bến một lần. Tôi ăn uống bên nhà bác Lộc.

Một đêm, tôi đang ngủ, có cảm giác như có ai ôm mình vào lòng. Tôi nghĩ chắc anh hai tôi đã đi biển về, tôi quay người lại nhưng cái cảm giác chạm vào da thịt của anh hai tôi không giống như thuờng ngày, tôi mở mắt, qua ánh sáng đèn từ ngoài đường chiếu vào, tên Được đang nằm bên tôi. Tôi hoảng sợ, dùng hết sức mạnh hai chân đạp vào bụng tên Được rồi nhảy xuống guờng chạy ra khỏi nhà. Tiếng tên Được gọi theo:” Đừng chạy, tau bắt đưa về công an phường bây giờ”. Nhưng tôi vẫn chạy, chạy qua bao nhiêu con hẽm trong xóm, chạy ra huớng biển và thẳng đến bến ghe chài.

Tôi ngồi tựa lưng vào cái thúng chài trên bờ. Trước mặt tôi một màu đen mênh-mông, tiếng gió hòa cùng tiếng sóng biển tạo ra một âm thanh kỳ bí làm tôi sợ hãi.. Tôi ngồi chờ anh hai tôi trở về bến. Tôi không dám quay trở về nhà, tôi phải trốn tên công-an Được.

Bỗng có tiếng chân người đi ven mé biển trước mặt tôi, càng lúc càng nhiều.Tiếng thì thầm thúc dục mà mang âm điệu sợ hãi.. Tiếng trẻ con khóc, tiếng “xuỵt xuỵt ” bảo im lặng. Tiếng gọi tên nhau thì thầm. Tôi nghe tiếng máy nổ của một chiếc ghe từ xa càng lúc càng gần. Ở quanh tôi, đám đông đã đi lên hết trên cầu tàu.

Chiếc ghe đã cập cầu bến cá. Mọi người lần lượt lên ghe…Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi:

– Bà con lên hết chưa? Đếm xem đủ người của mình chưa? Nhanh lên! để ghe rời bến, nhanh lên! nhanh lên! công an nó đuổi tới nơi bây giờ!” Tôi bủn rũn khi nghe mấy tiếng “công-an đuổi đến bây giờ”, tôi nhớ đến lời của tên Được: “Tau bắt đưa về công-an phường bây giờ! “Sợ hãi, tôi leo nhanh lên cầu tàu. Một người chạy đến túm lấy tôi ném lên ghe: “Còn một đứa nhỏ, con ai đây? ..xong rồi! mở máy cho ghe chạy đi, trời bắt đầu sáng rồi.”

Trong ghe tối đen, tôi không nhìn thấy ai là ai. Một người lay tôi dậy. Trời đã sáng. Mọi người ngồi ép vào nhau.Vài người lao nhao hỏi tôi: “Cháu là con ai vậy? Tên là gì? Đi với ai?. Tôi chỉ khóc, không biết trả lời như thế nào. Một bà dang tay ra ôm và an ủi tôi. Tôi nói với bà: “Con chờ anh con đi theo ghe đánh cá trở về..rồi một người nào đó ném con lên ghe này khi ghe bắt đầu chạy”.

Buổi chiều hôm đó, mọi người được chủ ghe cho phép lần lượt ra khỏi lòng ghe để thở chút gió mát. Quanh tôi, biển mông mênh không thấy đâu là bờ.Tôi nhớ đến anh hai tôi, nhớ ba mẹ tôi, nhớ gia đình bác Hội, nhớ mọi người trong xóm.

Tôi nghe hai người đàn ông nói chuyện với nhau:
– Chuyến này như vậy là thành công, hai lần truớc bị bắt khi ghe vừa rời bến, nhưng lần nầy thì mình thoát, ghe đang chạy vào hải phận quốc tế rồi. ..”

Hai ngày sau ghe bị đột ngột chết máy, phải thả bồng bềnh trên biển. Trong lúc nguy khổn, may sao ghe được một tàu hàng Do-Thái đi ngang cứu, và chúng tôi được đưa đến trại tỵ nạn cọng-sản ở đảo Galang của nước Nam-dương.

Tôi được một gia-đình người Pháp gốc Do-Thái nhận làm con nuôi, định-cư tại Tel-Aviv sau mấy tháng sống tại tỵ-nạn Galang.

Hôm xuống tàu để sang Singapour, những người tỵ-nạn còn đang bị tạm lưu lại đảo, tụ tập ngoài cầu tàu để tiễn những người được định cư, đi đến các nước đã nhận cưu mang họ. Con tàu xa dần bến, người đưa tiễn khuất dần trong tầm nhìn. Nỗi cô-đơn ngập trong tôi, tôi cảm nhận kể từ phút đó, tôi mất tất cả những gì gọi là hình bóng Viêt-Nam. Tôi gục đầu vào thành tàu, nghe những thổn thức tràn ngập trong lòng. Tôi khóc.

Ba mẹ nuôi nguời Do-Thái của tôi không có con. Họ đã có hai người con nuôi trước khi nhận tôi. Ba nuôi tôi có một nông trại trồng cam còn mẹ nuôi tôi là một giáo sư ngôn ngữ học. Hai người anh của tôi là một người da màu, gốc Madagascar còn nguời anh kia gốc Ai-cập. Trong ba người, tôi nhỏ tuổi nhất, kém người anh cả tám tuổi, kém người thứ hai năm tuổi.

Chúng tôi được nuôi ăn học đàng-hoàng, sống rất hòa thuận và đều theo Do-Thái giáo. Bà mẹ nuôi tôi hay than với tôi: “Đất nước của con sao mà nhiều thống khổ quá! chỉ tội cho người dân.. Con cố học hành và đừng quên tiếng Việt, sẽ cần cho con sau nầy khi con muốn tìm về cội nguồn.”

Khi tôi lên trung học, mẹ nuôi tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Việt. Trong những giờ dạy tiếng Việt, bà yêu cầu tôi kể những gì liên quan đến gia đình tôi mà tôi còn nhớ được. Tôi kể bằng tiếng Việt gia đình và về hoàn cảnh của tôi. Mẹ tôi đã ghi lại trên giấy và vào buổi cơm tối ngày hôm sau bà đọc lại cho mọi người trong gia-đình cùng nghe bằng tiếng Do-Thái. Sự việc nầy kéo dài hàng năm cho đến lúc tôi không còn nhớ gì thêm để kể lại. Sau này những lúc chỉ có hai người, mẹ nuôi tôi thường nói tiêng Việt với tôi. Bà bảo đã hai lần đi Việt-nam, tim đến những nơi mà tôi đã kể cho bà nghe để tim tin tức gia-đình tôi nhưng vô hiệu. Có lẽ tri nhớ và số tuổi nhỏ của tôi đã không kể lại đủ chuyện gia-đình cũng như nơi chốn gia-đình tôi sinh sống trước đây cho bà nghe.

Sau khi tốt nghiệp đại-học, tôi được học bổng của trường đại học Sorbonne Pháp để học tiếng Pháp tại Paris. Một hôm đang ăn trưa tại một tiêm phở thuộc khu phố người Việt quận 13, một bác phục vụ nhà hàng lại bàn nói chuyện với tôi. Bác hỏi thăm và cho biết bác cũng là người gốc quận ba Đà-nẵng trước đây. Bác và gia-đình vượt biển sau khi thành-phố Đà-nẵng bị mất vào tay Cộng-sản. Bác khoe có trở về Đà-nẵng vài lần, nên bác cho biết các sự đổi thay và chỉ dẫn tôi cách tìm đường về nơi tôi đã đuợc sinh ra và lớn lên. Bác khuyên tôi nên về Đà-nẵng một chuyến để tìm lại gốc gác gia đình.

Tôi đi dạy được hai năm thì cưới vợ và rồi có hai con, một trai một gái. Khi đứa con trai đầu của tôi được tròn bốn tuổi, tôi mua cho nó một chiếc xe đạp nhân ngày sinh-nhật của nỏ. Khi đem chiếc xe về nhà, kỷ niệm của ngày xa xôi ở quê nhà trở về …tôi nằm trên võng nghe mẹ tôi đọc lá thơ của ba tôi viết từ chiến trường…ba hứa khi về nhà sẽ mua cho tôi chiếc xe đạp mừng sinh-nhật …nhưng rồi mơ uớc đó không bao giờ đến. Nhìn con trai tập đạp xe, tôi ứa nước mắt, bùi ngùi nhớ lại tuổi thơ của mình, tội nghiệp cho thằng bé là mình hai chục năm trước. Tôi tự hỏi nếu ngày đó tôi có được chiếc xe, không biết tôi có những cử chỉ vụng về, loạng quạng khi tập đạp xe như con tôi bây giờ?

Tôi hay nói với vợ tôi,”Cho đến tuổi nầy, anh chưa bao giờ bước lên yên xe đạp”. Vợ tôi an ủi: “Anh lại trở về với quá khứ rồi, hãy quên đi!”

Tôi chỉ biết thở dài…Làm sao mà quên được!

Mùa hè năm 2010, mẹ nuôi tôi khuyên tôi nên trở về Đà nẵng tìm thăm tin-tức gia-đình. Nếu tôi tìm được, bà định sẽ đem hết đại gia đình cùng đi với tôi trong một chuyến đi sau.

Tôi về đến Đà-nẵng. Theo lời hướng dẫn của cô tiếp-viên khách-sạn và những chi tiết bác đồng-hương tại một nhà hàng bên Pháp cho biết năm nào, tôi tìm đuờng ra bờ sông Hàn rồi tìm phà qua sông. Bến phà này mấy mươi năm trước anh hai đâ đưa tôi qua lại mấy lần để đến bịnh-viện bán máu lấy tiền mua gạo. Mọi vật đã đổi thay, phà đã ngừng đưa khách, chiếc cầu mới đã được bắt ngang hai bờ sông. Bác xe ôm lớn tuổi chở tôi chạy vòng qua bao nhiêu khu phố mà ở cái tuổi tôi thời ấy chưa có, bây giờ các khu phố đã mọc lên che lấp những bờ dương và bãi cát cùng sóng biển.

Tôi ra đi ở cái tuổi lên năm, chưa có ý-niêm gì về tên làng, tên xóm, tên phường, tên con đường hẻm chạy qua trước nhà….nên bao nhiêu năm qua tôi không thể nào liên lạc đuợc về nhà cũ, quê hương dường như đă chết trong tôi. Tôi nhờ bác lái xe ôm hỏi thăm và đưa tôi đến nơi có bến ghe cá mấy mươi năm trước. Tôi hy vọng từ đó tôi sẽ tìm ra nhà cũ của ba mẹ tôi. Bác lái xe ôm đã đưa tôi đến bến ghe cá cũ, nhưng nay chỉ còn cái tên của ngày trước vì bến đã dời đi nơi khác, thay vào đó là một khách-sạn đã được xây lên cùng những ngôi nhà cao tầng.Tôi hỏi thăm nhà ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà bác Hội, hỏi thăm tên anh hai tôi, mọi người đều lắc đầu, trả lời với một giọng nói có âm sắc cao và sắc mà tôi chưa hề được nghe khi còn thuở thơ ấu.

Lòng nặng chĩu và thấy lạc-lõng, tôi rưng rưng muốn khóc. Cả buổi trưa tôi lang-thang, từ khu nầy qua khu khác, áo đẫm mồ hôi, tôi đứng tựa vào một tường nhà có bóng mát tránh nắng. Tôi đã định quay trở về khách sạn nghỉ và sẽ tiếp tục trở lại khu nầy ngày hôm sau.

Bỗng tôi nghe có tiếng ve sầu vang lên đâu đây nghe thật buồn não. Ngày xưa trong xóm chỉ có nhà tôi có cây phượng vĩ. Mùa hè hoa nở đỏ rực, lũ ve sầu từ đâu đến buông tiêng kêu râm ran và rầu rĩ, như ru tôi ngủ trong những buổi trưa hè nóng bức. Khi có cơn gió mạnh, những cánh phượng rơi lả tả xuống sân nhà, mẹ tôi cầm chỗi quét. Một lần tôi nghe mẹ tôi phàn nàn với ba tôi: “Anh ơi, hãy đốn cây phượng làm củi cho rồi. Ngày nào cũng quét hoa và lá rụng, mệt quá”. Ba tôi cười trả lời: “Cây phượng nầy do ông nội trồng để tưởng nhớ bà nội sau khi bà nội chết, bà nội mấy đứa nhỏ tên Phượng, mình không đốn cây được đâu.” Tôi lần đi về hướng có tiếng ve rên-rĩ..màu đỏ của hoa phượng chan hòa trước mắt tôi: một cây phượng to lớn im lìm dưới nắng chói chang…Tôi dừng chân bên cây phượng được trồng ngay bên cổng vào một căn nhà…

Tôi nhìn kỹ, hình ảnh ngôi nhà xa xưa của tôi hiện ra rõ ràng trong trí nhớ. Tôi đã tim ra được nhà tôi. Hàng hiên không có gì đổi thay, tất cả còn nguyên như cũ.Tôi lặng nguời vì vui mừng. Lòng hồi hộp nhưng cố giữ bình -tĩnh, một lát sau, tôi gọi vọng vào bên trong:

– Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi thăm? ” Tôi gọi đến lần thứ ba thì cánh cửa nhà hé mở, một đứa bé trai bước ra nhìn tôi rồi vội quay vào đóng cửa lại. Tôi kiên nhẫn chờ.

Cánh cửa lại mở, một người đàn ông râu tóc bạc phơ chống nạng bước ra. Tôi nhận ra ngay bác Hội ngày xưa của tôi. Bác già quá nhiều. Bác chống cây nạng gỗ mà người cứ run run. Bác lấy tay che trán nhìn tôi. Tôi bồi-hồi, xúc-động nói lớn:

– Bác Hội còn nhớ con không? Con là Tấn em đây. Bác đi khập khiễng ra cổng, giọng lắp bắp:

– Tấn em hả? con còn sống hả? Trời ơi! con còn sống hả?.. Vào đi, vào đi con.

Hai bác cháu loạng choạng ôm nhau, cả hai cùng khóc, khóc vì mừng gặp lại nhau và khóc cho thân phận của mỗi người và thân phận của nhau. Tôi theo bác vào nhà, đưa mắt nhìn quanh, vội hỏi bác:

– Ba mẹ cháu đâu? anh hai cháu đâu bác?” Bác khựng lại rồi nói:

– Chuyện còn dài, rồi bác sẽ kể lại cho con nghe. Con ngồi nghỉ cho khỏe đã!

***
Và bác kể:

“Ngày mẹ con đi Huế tìm thăm ba con bị thương ở Quảng-tri và được đưa vào điều trị tại bịnh-viện Huể đến nay, bác chỉ nghe bạn đồng đội của ba con kể lại. Khi mẹ con ra đến bịnh viện thì ba con đã bị chính quyền mới của Cọng-sản đuổi ra khỏi bệnh viện cùng với các đồng đội khác cũng bị thương. Những người thương-binh và các nguời nuôi bệnh cùng cảnh này tụ-tập sống dưới chân cầu Tràng-tiền, nhờ vào sự giúp đỡ của dân chúng. Sau đó họ dìu dắt nhau theo quốc lộ 1 trở về Đà-nẵng, ngày xin ăn, tối ngủ bờ ngủ bụi. Khi đến Cầu-Hai thì ba con kiệt sức vì vết thương làm độc nên chết tại đây. Sau khi được dân Cầu-Hai giúp chôn cất ba con xong thì ngày hôm sau mẹ con, lúc đó cũng đau yếu, thất thểu đi một mình trên đuờng vào Đà Nẵng. Rồi từ ngày ấy đến nay, không ai biết tăm tích của mẹ con ở đâu nữa. Chắc là chết ở đâu rồi, vì nếu còn sống mẹ con thế nào cũng tìm về nhà ở Đà nẵng với hai anh em con.”

Tôi gục đầu xuống bàn, thổn thức. Giọng bác đều đều:
” Khi con mất tích, anh hai con, gia-đình bác cùng bà con lối xóm ngày đêm tìm kiếm hoài không ra. Anh hai con buồn lắm, sống như một cái bóng thui thủi trong căn nhà này – bác nhìn quanh nơi bác và tôi đang ngồi. Ba năm sau, anh hai con đến tuổi “thi hành nghiã vụ quân sự” thì bị đưa qua chiến trường Campuchia. Chỉ sáu tháng sau, địa phương báo cho bác biết anh hai con đã tử thương.

Người ta hứa sẽ đưa xác về, nhưng đó chỉ là lời hứa suông thôi, không bao giờ có xác về. Bác đã lấy một mảnh đất sau vườn nhà con xây một ngôi mộ nhỏ, lập bia chung cho cả ba người, ba mẹ con và thằng Tấn anh của con. Hằng ngày bác thắp nhang cho linh hồn ba mẹ con và anh hai con khỏi lạnh lẽo. Còn riêng phần con, bác nghĩ là con không chết, có lẽ con đã đi lạc đến một nơi nào đó, có người đem về nuôi, một mai khôn lớn con sẽ tim ra gốc gác gia đình để trở về... Anh hai con cũng có ý nghĩ như bác nên trươc ngày bị đưa đi Campuchia, anh con đã giao hết giấy tờ nhà đất cho bác giữ hộ và dặn:”Nếu con có mệnh hệ nào thì xin bác giao lại cho thằng Tấn em con.” Bác giữ đã lâu mà vẫn không có tin tức gì của con, bác sợ chính quyền sẽ tịch thu căn nhà nên bác đã xoay sở sang tên ngôi nhà cho bác, nhờ vậy, cái nhà vẫn còn. Nay con trở về, bác sẽ giao nhà lại cho con.

Tôi theo bác ra sau vườn, ngôi mộ nằm bên một góc vườn. Mộ bằng xi-măng, sạch sẽ. Tôi đọc tên ba, mẹ và anh hai tôi ghi trên mộ bia. Tôi quỵ người xuống, gục đầu vào thành bia, nước mắt trào ra. Lòng tê tái, tôi đau đớn nghĩ đến cha mẹ, đến anh hai tôi và tự xót thuơng cho thân phận mình mồ côi, cô độc, tìm ra gốc gác gia đình chỉ để nhận thêm một sự thực rằng truớc sau gì tôi vẫn không còn cha mẹ, anh em, không có ai là người ruột thịt…đến lúc bác Hội nắm tay kéo tôi đứng lên, đèn trong nhà bác đã thắp sáng.

Ngày hôm sau, tôi vẫn giữ căn phòng ở khách-sạn nhưng về sống với gia-đình bác Hội. Một hôm bác đưa tôi dạo quanh xóm cũ, phần lớn dân cư tù nơi khác đến.Tình cờ ngang qua một tiệm sửa xe, tôi gặp Hiền, người bạn cùng học lớp mẫu giáo với tôi ngày xưa. Hai đứa nhận ra nhau. Cả hai bồi hồi, xúc-động. Bằng tuổi tôi nhưng Hiền mang dáng dấp của một ông lão.

Ba của Hiền, ngày xưa là Trung-úy của quân lực Việt Nam Cọng-hòa. bị chính-quyền mới bắt đi tù cải-tạo ở Trung–phước rồi chết tại đó. Vì có lý-lịch con của “ngụy” nên Hiền không tìm đươc công ăn việc làm, nên đành lấy hiên nhà làm tiệm sửa xe từ mấy chục năm nay. Con cái học hành không tới đâu, nhà quá nghèo. Vợ cũng phải phụ chồng sửa xe. Bất chợt cơn mưa rào chợt đến. Hiền vội vã tìm thau và chậu đề hứng nhưng cả tiệm sửa xe vẫn tràn đầy nước từ trên mái đổ xuống. Hiền nói: “Cái nhà đă ‘rệu’ từ chục năm nay, không tiền để sửa, bây giờ lo cái ăn cho gia-đình khỏi đói là đủ mệt rồi”. Tôi nghe mà lòng bỗng dưng cồn-cào như bị cái đói ngày xưa hành hạ, cái đói mà anh Hai tôi phải bán máu, chất dinh dưỡng cơ thể để đổi lấy cái ăn mà sự dinh-dưỡng cơ thể đang cần…một cái vòng lẩn quẩn khốn-nạn của nhu cầu sinh tồn.

Buổi chiều truớc ngày từ giả gia-đình bác Hội để về lại Do-Thái, bác cùng tôi ngồi tâm-sự trong phòng khách. Bác kể lại tình bạn giữa bác và ba tôi, kể đến đâu, bác thở dài đến đó, bác ngậm ngùi nhớ đến kỷ niệm của một thời đă qua.Tôi tựa đầu vào thành ghế, tai chăm chú nghe nhưng mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà. Tôi hướng mắt về phía cái kèo nhà có cái khe nứt, sực nhớ lại chuyện ngày trước bác Hội đã thúc hối anh hai tôi tháo cờ ba sọc đỏ dấu đi….anh hai tôi đã leo cột nhà đem dấu vào chỗ khe nứt đó…bỗng nhiên tôi đứng lên đi vòng vòng trong phòng khách, mắt cứ nhìn chăm chăm vào khe nứt trên kèo nhà.

Có lẽ bác Hội ngạc nhiên nên hỏi tôi:
– Con tìm cái chi rứa? Tôi trả lời:

– Bác còn nhớ,ngày xưa khi cọng sản vào thành phố, bác thúc anh hai con đem cây cờ ba sọc đỏ giấu đi và anh Hai con đã đem lá cờ giấu vào cái lỗ đó”, tôi vừa nói vừa chỉ tay lên lỗ nứt trên kèo nhà. Bác Hội “ờ” lên một tiếng rồi nói “thằng ni nhớ dai ghê, như vậy thì nó còn ở đó; từ đó cho tới ni, chỗ đó không ai động đến, mà lâu quá không biết lá cờ có mục có nát không?”

Nói xong bác tiến đến cửa lớn nhìn ra ngoài và nói với vẻ thận trọng:
– Sắp nhỏ chạy chơi đâu hết rồi, con muốn xem cái đó thì leo lên xem thử.

Nói xong bác khép cửa lại, gài chốt ngang.Tôi đã định xin phép bác leo lên xem thử lá cờ còn đó không, thì nghe bác khuyến khích làm tôi vừa sung-sướng vừa hồi hộp. Tôi đang loay hoay tìm cách leo lên cây cột (nhà xây theo kiểu xưa, có nhiều cột) thì bác đẩy cái bàn đèn sát cây cột nhà rồi để thêm cái ghế lên trên bàn, bác nói:

– Làm như thế ni leo dễ hơn!

Tôi thận trọng bước lên bàn, bước lên ghế, dùng hai tay đu lên sà nhà. Tôi chợt nhớ đến anh hai tôi, hồi đó anh leo lên cột sao dễ dàng và nhanh nhẹn như sóc vậy.

Tôi thọc tay vào khe hở bên kèo nhà, tay chạm vào một vật mèm mềm, kéo ra, một cuộn vải màu vàng đã phai màu..Tôi nói với bác Hội:

– Nó còn đây bác ơi!. Tôi ném cuộn vải màu vàng xuống cho bác.. Bác nhặt cuộn vải lên, mở ra, tay giũ giũ mấy lần, lá cờ ba sọc đỏ hiện ra trước mắt tôi…tôi nghe bác nói:

– Còn nguyên si, chỉ bạc màu chút thôi. Tôi tuột xuống đứng bên bác. Bác trùm lá cờ lên đầu bác.

Tôi nghe bác hít…mấy cái rồi bác lặng yên, chừng một phút sau bác lấy lá cờ ra khỏi đầu. Tôi nhìn thấy hai mắt bác đỏ và long lanh nước. Bác trao lá cờ cho tôi giữ và mở cửa đi ra ngoài rồi quay lại với một lọ thủy tinh trên tay, bác nói với tôi:

– Con cuộn lá cờ lại bỏ vài cái lọ ni, đem ra chôn bên mộ của ba con, ba con chết không có ai phủ cờ, mình nay đem chôn cạnh ba con như rứa ba con cũng ấm lòng.

Tôi cuộn lá cờ cho vào lọ, đậy nắp lại. Bác và tôi cùng đi ra ngôi mộ sau vườn.

Bác dùng con dao chẻ củi đào một cái lỗ trên đầu mộ, tôi để cái lọ vào đó và bác lấp đất lại.Tôi nghe giọng bác thì thào như nguời tâm sự:

– Tổ quốc chưa kịp ghi ơn em thì Tổ quốc đã mất. Tổ quốc chỉ còn một chút nầy, em mang theo để sống với kỹ niệm của một giai đoạn lịch-sử…và biết đâu Tổ quốc sẽ sống lại với con cháu của chúng ta sau nầy.

Chiều hôm đó tôi từ giã gia-đình bác Hội. Trên đường đi từ trong nhà bác ra đường lớn đón xe để về khách-sạn, bác nhắc tôi:

– Con nhớ đừng quên giúp đỡ Hiền, thằng bạn của con. Nó cần sửa lại căn nhà dột nát của nó, không biết cả đời nó có tiền sửa được không. Tôi nói:

– Bác yên tâm, con sẽ giúp tận tình, con sẽ chuyển tiền về cho bác để bác đưa cho Hiền. Nếu không đủ con sẽ chuyển thêm cho đủ.

Tôi lại nói với bác:
– Dường như cả đời, bác đã lo hết cho gia đình ba mẹ con và anh em con, con nhớ ơn bác vô cùng. Nay bác có tuổi rồi, bác nên quan tâm cho sức khỏe bác nhiều hơn”.

Bác nắm chặt tay tôi hỏi:
– Còn ngôi nhà của ba mẹ con, con tính sao đây? Nay con còn đó, bác tiếp tục giữ nhà thì lòng bác ngại quá..! Tôi trả lời trong nghẹn ngào:

– Tình cảm và công ơn bác dành cho gia-đình con như trời biển, có một trăm ngôi nhà như vậy cũng không thấm vào đâu đối với tấm lòng của bác… Con chưa bao giờ có một ý nghĩ nào về ngôi nhà đó là của ba mẹ con hay của con. Nó là của bác… nó là của bác. Bác nên lo cho Bác nhiều hơn!

Thay vì đi máy bay từ Hà-nội thẳng về Do-thái, tôi đổi vé đi Paris. Nước Pháp có vài ngôi chùa Việt-nam còn bên Do-thái không có.

Tôi tìm đến một ngôi chùa ở ngoại ô Paris để xin lập bài-vị thờ ba mẹ và anh hai tôi theo như lời bác Hội khuyên.

Vị-sư trụ trì chùa tiếp tôi sau chánh điện, hỏi:
Anh cho biết tên thân-sinh của anh.

Tên cha?
Đoàn-minh-Tiếng.

Ngày và năm sinh?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Ngày và năm chết?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Pháp-danh?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Vị sư trụ trì nhìn tôi với đôi mắt khác thường, rồi lắc đầu:
Ngày sinh, tháng đẻ của cha anh mà anh không biết, lạ thật!

Vậy tên của mẹ anh là gì?
Nguyễn-thị kim Ngân.

Ngày và năm sinh?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Ngày và năm chết?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Pháp-danh?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Vị sư trụ trì đứng dậy đi tới đi lui rồi nhìn tôi với đôi mắt nheo lạỉ như nghi ngờ như tôi đang đùa với ông một cách không nghiêm chỉnh.
Sư lại ngồi xuống, hỏi tiếp:

Anh còn muốn lập bài vị cho ai nữa không?
Dạ, còn người anh.

Tên gì?
Đoàn-tấn Anh.

Ngày sinh và năm sinh?
Da, thưa thầy con không biết.

Ngày chết và năm chết?
Dạ, thưa thầy con không biết.

Pháp-danh?
Da, thưa thầy con không biết.

Thầy trụ trì ném cây bút xuống bàn rồi niệm Phật:
“Nam mô A-di-Đà-Phật”

Thầy thở dài hỏi tôi:
Anh muốn lập bài vị để thờ người thân trong chùa mà không nhớ ngày sinh tháng đẻ, ngày chết, Pháp-danh thì chùa làm sao cúng kiến cầu siêu được?

Dạ thưa thầy, con lạc gia-đình cha mẹ và anh con từ lúc năm tuổi nên con không biết ngày sinh tháng đẻ.

DuyTrac-AuOanh



TÌM HIỂU TU CHÍNH ÁN THỨ MƯỜI BỐN VỀ QUỐC TỊCH KHI SINH RA Ở MỸ

Nội dung tu chính án số 14 như sau :

“Tất cả những người sinh ra hoặc nhập tịch tại Hoa Kỳ và CHỊU SỰ QUẢN LÝ CỦA HOA KỲ đều là công dân của Hoa Kỳ và của Tiểu bang nơi họ cư trú.”
................

Kristen Welker của NBC đã hỏi Tổng thống đắc cử Donald Trump vào Chủ Nhật rằng liệu ông có còn dự định chấm dứt quyền công dân theo nơi sinh hay không. Trump đã khẳng định kế hoạch của mình. Nhưng cách Welker cố tình trình bày sai lệch tu chính án 14 cho thấy mối nguy hiểm của một nền báo chí sẵn sàng soạn thảo luật bằng lời nói.

“Ông đã hứa sẽ chấm dứt quyền công dân theo nơi sinh ngay từ ngày đầu tiên,” Welker nói . “Ông vẫn còn kế hoạch đó sao?”

“Đúng vậy, chắc chắn rồi,” Trump trả lời.

Welker nói tiếp : “Tuy nhiên, Tu chính án thứ 14 có ghi rằng, trích dẫn: 'Tất cả những người sinh ra ở Hoa Kỳ đều là công dân.'” Sau đó, Welker hỏi liệu Trump có sử dụng “hành động hành pháp” để lách Hiến pháp hay không.

Nhưng đó không phải là những gì Tu chính án thứ 14 nói - Welker và những người tuyên truyền Dân chủ khác muốn khăng khăng trong việc diễn giải Tu chính án thứ 14 như một sự bảo đảm chung cho quyền công dân theo nơi sinh đã gây ra sự nhầm lẫn rộng rãi - nhưng đó là cố ý. 

Ví dụ, Mia McCarthy của Politico đã đưa tin rằng Trump sẽ phải "đi vòng qua Tu chính án thứ 14" để chấm dứt quyền công dân theo nơi sinh. 

Daniel Dale của CNN đã viết rằng Tu chính án thứ 14 nói rằng "một người sinh ra ở Hoa Kỳ được cấp quyền công dân tự động ngay cả khi cha mẹ họ không phải là công dân".

Không có chỗ nào trong Hiến pháp nói như vậy. Nội dung thực sự của Tu chính án thứ 14 là:

“Tất cả những người sinh ra hoặc nhập tịch tại Hoa Kỳ và CHỊU SỰ QUẢN LÝ CỦA HOA KỲ đều là công dân của Hoa Kỳ và của Tiểu bang nơi họ cư trú.”

Xuất xứ của Tu chính án 14 :

Tu chính án thứ 14 được thông qua vào năm 1868 để bảo đảm rằng những người trước đây bị bắt làm nô lệ và con cháu của họ sẽ không bị từ chối quyền công dân. Nó thay thế phán quyết Dred Scott trước đó, vốn từ chối quyền công dân đối với những người bị bắt làm nô lệ.

Thượng nghị sĩ Jacob Howard, tuyên bố rằng :

“Tu chính án mà tôi đã đề xuất chỉ đơn giản là tuyên bố về những gì tôi coi là luật của đất nước, rằng mọi người sinh ra trong phạm vi lãnh thổ Hoa Kỳ và chịu sự quản lý của họ, đều là công dân của Hoa Kỳ theo luật tự nhiên và luật quốc gia”, Howard nói. 

“Tất nhiên, điều này sẽ không bao gồm những người sinh ra tại Hoa Kỳ là người nước ngoài, những người thuộc gia đình của các đại sứ hoặc bộ trưởng ngoại giao được Chính phủ Hoa Kỳ công nhận, nhưng sẽ bao gồm mọi tầng lớp người khác”.

Howard cũng cho biết tu chính án này “giải quyết câu hỏi lớn về quyền công dân và xóa bỏ mọi nghi ngờ về việc ai là công dân Hoa Kỳ hoặc ai không phải là công dân Hoa Kỳ”.

Như đã nói, Hiến pháp Mỹ vận hành theo một bộ quy tắc và nếu trong tương lai những quy tắc này không thể sử dụng ở một trường hợp cụ thể thì sẽ được xét theo tiền lệ. Những tiền lệ này hiện được lưu trữ trong một hồ sơ tài liệu dày 1.600 trang. Chắc chắn vụ ân xá cho con trai của Joe Biden sẽ là một tiền lệ mới.

Vì vậy trong diễn ngôn tư pháp của Hoa Kỳ có khái niệm “người nước ngoài và người nước ngoài sống tại Mỹ”. 

Năm 1835, Tocqueville viết “Mỗi khi đất nước lâm nguy thì người Mỹ sẽ đoàn kết để chống lại người nước ngoài và người nước ngoài sống tại Mỹ”

Đã có tiền lệ nào chưa?

Tiền lệ thứ nhất : Elk kiện Wilkins năm 1884
John Elk, một người da đỏ Winnebago, sinh ra tại một khu bảo tồn của người da đỏ trong ranh giới lãnh thổ của Hoa Kỳ và thề trung thành với bộ tộc của mình. Sau đó, ông cư trú ngoài khu bảo tồn ở Omaha, Nebraska và tuyên bố quyền công dân theo quyền bẩm sinh theo Điều khoản công dân của Tu chính án thứ 14. Vụ án xảy ra sau khi Elk cố gắng đăng ký bỏ phiếu vào ngày 5 tháng 4 năm 1880 và bị Charles Wilkins người đăng ký cử tri của phường thứ năm của Thành phố Omaha, từ chối.

Trong quyết định 7–2, Tòa án Tối cao phán quyết rằng mặc dù Elk sinh ra tại Hoa Kỳ, anh ta không phải là công dân vì anh ta có nghĩa vụ trung thành với bộ tộc của mình khi anh ta sinh ra chứ không phải với Hoa Kỳ, và do đó KHÔNG PHẢI CHỊU SỰ QUẢN LÝ CỦA HOA KỲ khi anh ta sinh ra. Tức Elk là “người nước ngoài sống tại Mỹ”

Tiền lệ thứ hai : Hoa Kỳ kiện Wong Kim Ark năm 1898
Wong Kim Ark, sinh ra tại San Francisco vào năm 1873, đã bị từ chối nhập cảnh trở lại Hoa Kỳ sau chuyến đi nước ngoài, theo Đạo luật Loại trừ Người Hoa, một đạo luật cấm hầu như mọi hoạt động nhập cư của người Hoa và cấm người nhập cư Trung Quốc trở thành công dân nhập tịch Hoa Kỳ. Ông đã phản đối việc chính phủ từ chối công nhận quyền công dân của mình, và Tòa án Tối cao đã ra phán quyết có lợi cho ông, cho rằng ngôn ngữ về quyền công dân trong Tu chính án thứ Mười bốn bao gồm hoàn cảnh nơi ông sinh ra và không thể bị hạn chế về hiệu lực bởi một đạo luật của Quốc hội.

Tòa án tối cao phán quyết :
"Một đứa trẻ sinh ra tại Hoa Kỳ, có cha mẹ là người gốc Hoa, vào thời điểm sinh ra là thần dân của Hoàng đế Trung Hoa, nhưng có hộ khẩu thường trú tại Hoa Kỳ, và đang kinh doanh tại đó, và không được tuyển dụng vào bất kỳ chức vụ ngoại giao hoặc chính thức nào dưới thời Hoàng đế Trung Hoa" - Vì vậy “con cái của họ tự động trở thành công dân Hoa Kỳ khi sinh ra”

Quá rõ, cha mẹ nhập cư bất hợp pháp vào Mỹ thì con cái họ đương nhiên không được tự động trở thành công dân Hoa Kỳ.

Nhưng cánh tả không muốn vậy. Họ muốn thay đổi Hiến pháp. Và Hiến pháp bị thay đổi thì nền Cộng Hòa Lập Hiến cũng không còn.

(Ngô Nhật Đăng )


CHIẾC VÒNG MÃ NÃO

THÁI THANH

Tôi bán đồ trang sức si mạ ở chợ lớn Qui Nhơn gồm kẹp tóc, nơ cài và cả vòng đeo tay cho con gái. Có một thời tôi bán rất đắt hàng kể cả bán sỉ và lẻ.

Trong chợ có một chị làm công cho các quầy hàng bún phở. Chị tên Xíu, chuyên đi bưng bê các tô bún, tô cháo, hoặc là trà đá chanh, sinh tố cho bạn hàng buôn bán trong chợ. Ngày nào chị cũng ngang qua hàng của tôi mà ngắm nhìn. Một buổi chiều sau khi xong việc, chị dừng lại hàng tôi và chỉ chiếc vòng mã não Mỹ mà tôi chưng bày trong tủ kính (hồi thời đó vòng mã não rất quý).

-Bao nhiêu cái vòng này?

-Sáu ngàn đó chị!

Chị cười bẽn lẽn rồi đi. Và cứ thế ngày nào chị cũng đến chỉ để dòm. Chân chị bị quỷnh, miệng răng vàng đục, cái mặt méo mó đen đúa xấu xí. Tôi nghĩ có lẽ chị mua về làm quà cho ai đó. Tôi lại chạnh lòng khi nhớ chuyện của mình. Năm con gái tôi tròn 5 tuổi nó mơ ước có được một con búp bê để chơi mà không dám vòi vĩnh mẹ, ngày nào nó cũng lên phòng mợ (chị dâu tôi) để được chơi cùng con búp bê của hai đứa con gái của mợ. Đó là thời bao cấp đồ chơi không bán nhiều ở bên ngoài. Trong các quầy hàng mậu dịch của nhà nước bán ở chợ bên dãy Phan bội Châu chỉ có bày bán vài con búp bê trong tủ kính. Mỗi lần tôi dắt cháu đi ngang qua nó đều ngoái cổ quay nhìn con búp bê trong tủ. Tôi tất bật buôn bán nuôi con, tiền bạc còn rất khó khăn, nên cũng như chị này cứ hỏi giá rồi lại không mua vì chưa đủ tiền. Cho đến một ngày tôi gom đủ được tiền, tôi chạy đến quầy hàng bách hóa trong chợ nhưng con búp bê đã bị bán mất. Tôi đứng ngẩn ngơ tiếc rẻ. Thấy vậy chị bán hàng đưa ra con búp bê còn sót lại nhưng nó bị trầy trụa làm nám mặt, lem luốc xấu xí. Các quày khác cũng không ai còn hàng bán. Thời bao cấp hàng hiếm, cho trẻ chơi búp bê là đồ xa xỉ. Tôi mua con búp bê đó với giá rẻ hơn, mặc dù nó cũng nhắm mắt mở mắt như búp bê trước nhưng con gái tôi nó buồn xo ... nó vốn kỹ tính ngay từ lúc nhỏ ... vì món quà mua về không đúng ý nó.

Nhìn cái dáng chị Xíu xiêu vẹo quay đi. Tôi chạnh lòng. Sao mình không bán rẻ cho chị một chiếc nhỉ. Như vậy con chị nó sẽ mừng đến bực nào. Nghĩ như thế nên lần sau chị lại đến nữa. Tôi ngõ lời mời.

-Mua đi chị em bán rẻ cho!

-Rẻ là bao nhiêu?

-Năm ngàn thôi!

-Ừ dẫy thì bán cho tao cái phía trong này nè.

Sau khi chọn lựa chiếc ưng ý, chị chìa tay ra.

-Đeo dô tay tao đi.

-Ủa, chớ hổng phải mua cho con chị à?

-Chồng đâu có đâu, mà có con!

À, thì ra chị này không có chồng con. Thôi thì cứ bán cho chị đi. Phụ nữ mà. Ai lại chẳng muốn làm đẹp. Tôi đeo chiếc vòng vào cái tay đen đúa của chị. Thời đó tôi đeo vòng giỏi lắm, khách tới mua vòng tôi đều đeo trót lọt vào tay họ. Nhưng lần này thì không được. Tay chị Xíu to mà cứng ngắc hà. Khi lắc vòng gần vào chị lại lấy gân làm chiếc vòng "bụp" một phát vỡ ra ngay. Như những người khách khác thì họ nhân nhượng chịu một nửa tiền nhưng với chị thì chắc chắn là không như vậy được. Tôi lại phải cho chị chọn chiếc khác.

Sau khi đeo chiếc mới trót lọt vào tay. Chị móc hết túi ra và đưa cho tôi chỉ 3 ngàn.

-Năm ngàn mà!

-Có ba ngàn, còn nhiêu nữa bán nợ đi.

Thế rồi chị ngoe nguẩy bỏ đi. Sau đó hàng ngày chị vẫn đi bưng bê, vẫn còn đeo chiếc vòng mã não trên tay ngang qua hàng tôi nhưng không hề trả nợ. Kỳ đó tôi lỗ mất 9 ngàn đồng. Tôi ghét chị!

Một buổi chiều chạng vạng tối tôi đi thăm mộ về trễ. Đường vắng chỉ vài chiếc xe máy chạy qua. Chợt từ xa tôi thấy một người phụ nữ ngồi ở ngoài đường đang dơ tay quắc người đi xe máy "Cho tui quá giang với!". Nhưng hết người này sang người khác mà không ai dừng lại. Tôi nhận ra ngay người đó chính là chị. Thấy tôi chị mừng rỡ vẫy tay lia lịa "làm ơn cho tui đi dới!". Tôi ghét chị vì hôm đó sao chị không nói trước cho tôi chị chỉ có 3 ngàn. Tôi ghét chị vì chị thấy rõ tôi đeo cho chị đã vỡ mất vòng, tôi đã chịu lỗ mà chị lại quỵt tiền của tôi. Thà chị nói một tiếng cho tôi nhẹ lòng chứ...

Tôi đạp xe đạp chạy vụt qua. Nhưng đôi mắt van lơn của chị " làm ơn... làm ơn". Tôi lại áy náy không đành lòng. Cuối cùng tôi quay xe lại. Chị mừng rỡ đứng lên, lúc này tôi mới thấy chân chị bê bết máu.

- Chị sao dậy?

-Bị cái thằng quỷ kia tông dăng (văng) dô đây nó chạy mất rầu! (rồi)!

- Giờ đi đâu?

-Dìa chợ đi!

Tôi im lặng khom lưng mà đạp. Không thèm nói chuyện với chị. Đến nơi tôi bỏ chị xuống rồi đi về nhà. Trong lòng tôi dù vẫn còn giận chị nhưng lại thấy nhẹ lòng vì không nỡ bỏ chị bên đường đó.

Mấy năm sau. Tôi hầu như quên mất chị dù chị vẫn còn bưng bê ở chợ Qui Nhơn. Một đêm kia, má tôi bị đau bụng dữ dội. Má lại bi tăng huyết áp cao. Tôi liên lạc với bác sĩ thường điều trị má mời ông đến nhà nhưng ông chỉ hướng dẫn cách xử lý tình huống và bảo chở vào bệnh viện ngay. Tôi đã nhét viên thuốc dưới lưỡi của má rồi đi kêu xe. Buổi tối không có xe thồ mà thời đó không có tắc xi, lại không nhờ được ai quanh xóm vì họ đã đóng cửa ngủ. Nhà đơn chiếc chỉ có hai má con tôi. Má tôi nhờ có viên thuốc huyết áp cấp thời đó nên đỡ bớt nhưng vẫn còn đau bụng. Tôi chở má bằng chiếc xe đạp cà tàng của mình, xe đi đến đường Nguyễn Huệ thì bị xì lốp không chạy được. Đường về đêm vắng teo. Tôi khóc ngay vì không biết làm sao, tự nhiên tôi nghe có tiếng.

-Bà bác leo lên lưng con cõng cho.

Tôi thấy chị. Chị sớt má tôi lên lưng gọn hơ rồi chạy. Tôi kéo cái xe đạp chạy theo sau. Chị cõng má tôi vào phòng cấp cứu. Miệng la bài hãi:" Cấp cứu, cấp cứu mau bịnh nặng lắm." Bác sĩ thăm khám và cho thuốc, má tôi đi tiêu được bà nhẹ bụng dần. Lúc tôi đi làm thủ tục đóng tiền viện phí, chính chị là người đổ bô, chùi rửa, thay áo quần và vệ sinh cho má tươm tất. Má tôi dần ổn... Chị đi về trước khi trời dần sáng. Một đêm dài ở bệnh viện chị như một đứa con xa của má trở về.

Tôi muốn tỏ lòng cảm ơn với chị nhưng chị về quê mất không gặp được.

Thời gian trôi đi. Tôi không còn bán chợ lớn Qui Nhơn nữa. Năm 2019 trong lần đi chùa quê tôi gặp lại chị. Cả hai chúng tôi đều " Ồ" lên vui mừng khi gặp lại nhau. Chị kéo tay áo tràng màu xám lên cho tôi thấy chiếc vòng mã não năm xưa vẫn còn trên tay chị.

- Coi cái dòng (vòng) nó lên nước đẹp chưa nè... cho tao tiền nợ nghen, hôm kỳ đó tao còn nợ mầy 2 ngàn đó.

-Chiện xưa lắc mà nhắc lại làm gì!

-Hầu đó 2 ngàn lớn lắm. Tao muốn trả lắm nhưng làm quài mà trả hổng nổi.

-Em phải cảm ơn chị nhiều hơn chứ ... nhờ chị mà đêm đó má em được cứu sống. Cảm ơn chị nhiều lắm.

-Có gì đâu, bà má mầy bã nhẹ hìu hà. Tao ở nhà quê tao làm quen rầu. Giờ bác sao rầu?

-Má em mất rồi. Em nhớ ơn chị lắm. Chị cầm ít tiền nè cho em dzui.

-Mầy cho tao tiền tao nợ là quý rầu... chớ không tao nợ mầy kiếp sau trả sặc sừ.

Duyên trời. Tôi và chị lại gặp nhau và lại chia tay. Tôi ấm lòng khi nhớ đến chị. Một người phụ nữ xấu xí mà sao tôi lại thấy đẹp ngời lên trong trí nhớ của tôi khiến tôi yêu chị.

Thai Thanh


Tình Người Miền Nam

Trung chạy xích lô cũng hơn ba năm nay. Thời buổi khó khăn, gốc là lính Quốc Gia nên chỉ có chạy xích lô là dễ dàng cho Trung kiếm tiền phụ giúp gia đình nhất. Trung cũng không đủ tiền vốn để mua một chiếc xích lô mà phải mướn xe chạy từng ngày. Thường Trung chạy từ sáng sớm đến tối mịt mới đem trả xe. Hôm nay cuốc xe cuối của Trung là đưa một người khách về một con hẻm ở gần cổng xe lửa số 6. Con hẻm khá hẹp mà một bên là dãy nhà gạch còn một bên là khu nghĩa trang hoang vắng. Khi quay trở ra thì có một người đàn ông đứng ở ven đường vẫy tay gọi xe. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày chạy bao nhiêu cuốc xe rồi nhưng sẵn có khách gọi nên Trung cũng ghé lại hỏi:

– Đi về đâu vậy anh?

Người thanh niên cũng cỡ trạc tuổi Trung có gương mặt khắc khổ và hơi xanh xao dưới ánh đèn yếu ớt từ các ngôi nhà gần đó chiếu ra không đủ soi rõ mặt. Người thanh niên cất tiếng.

– Anh chở tôi ra xa cảng miền Tây được không?

Từ đây đến đó khá xa nhưng dù sao cũng tiện hướng đi về nhà Trung nên anh nhận lời. Sau khi hai bên đồng ý giá cả thì người thanh niên lên xe cho Trung chở. Trung ngạc nhiên vì người thanh niên tướng tá cũng cao ráo tuy có hơi gầy nhưng không ngờ lại nhẹ như vậy. Mặc dù đã là cuối ngày nhưng Trung vẫn đạp xe băng băng như không hề chở ai đằng trước. Suốt thời gian lên xe người khách không hề lên tiếng và cứ ngồi yên lặng gần như không cử động. Lúc này Trung cũng mệt nên cảm thấy như thế cũng may khỏi phải bắt chuyện với khách. Thật sự khi chạy những cuốc đường dài gặp khách vui vẻ nói chuyện rôm rả cũng khiến Trung cảm thấy con đường được rút ngắn đi nhiều. Tuy nhiên đôi khi gặp khách nhiều chuyện nói huyên thuyên nhiều quá thì Trung cũng không thích lắm.

Đến nơi người khách xuống xe trả tiền rồi bỏ đi. Đến lúc này Trung tự dưng thấy ớn lạnh trong người. Anh nghĩ có lẽ mình lao lực quá sức nên muốn cảm nên cố gắng đạp xe thật nhanh về trả xe cho chủ rồi về nhà ăn uống qua loa, tắm rửa rồi đi nằm. Ngày hôm sau, sau khi ngủ qua một giấc thì Trung cảm thấy khỏe khoắn như bình thường. Trước khi rời nhà để đi lấy xe, anh sực nhớ nên móc ví đưa gần hết số tiền chạy được ngày hôm qua cho mẹ để làm tiền chợ. Trung chỉ giữ lại một ít để dằn túi cũng như để phòng xa phải thối tiền lại cho khách.

Sáng chạy vài vòng các đường phố trên Sài Gòn Trung mới gặp được người khách mở hàng kêu anh chở vào Phú Nhuận. Khi móc tiền ra để thối lại cho khách Trung mới chợt nhận thấy trong mớ tiền trong ví của mình có một tờ tiền vàng mã. Trung ngạc nhiên lắm. Tối đó khi về nhà anh hỏi mẹ xem trong mớ tiền mình đưa ban sáng có thêm tờ tiền vàng mã nào không. Bao lâu nay tiền Trung đưa về thỉnh thoảng có ngày mẹ anh vẫn cất để dành chứ không đụng đến nếu trong nhà không thiếu hụt. Mỗi ngày mẹ Trung vẫn ngồi lê la vài tiếng ngoài chợ bán quần áo cũ để kiếm thêm chút đỉnh. Hơn nữa em gái Trung làm công nhân dệt nên cũng ít nhiều phụ giúp được gia đình. Tiền Trung chạy xích lô mẹ anh thường hay cất giữ để dành sau này có việc gì trọng đại, như cưới vợ cho anh chẳng hạn, thì còn có món để chi tiêu.

Khi nghe Trung hỏi lúc đó mẹ anh mới mở tủ ra kiểm lại chỗ tiền anh đưa hồi sáng. Bên trong mớ tiền đó cũng có vài tờ tiền vàng mã. Hai mẹ con thẫn thờ chưa hiểu chuyện gì thì Trung đã lên tiếng.

– Vậy là hôm qua có đứa nào nó lừa đưa tiền vàng mã cho con rồi. Thiệt tình cái thời buổi gì mà cứ lừa lọc người ta tùm lum. Riết rồi không ai dám tin ai nữa.

Mấy hôm sau trong một cuốc xe cuối ngày chở khách về xa cảng miền Tây, Trung gặp lại người khách hôm trước. Lúc đó Trung đang trên đường dự tính về trả xe thì có người thanh niên đứng dưới gốc cây sao lớn bên vệ đường vẫy. Trung tắp xe vô lề hỏi:

– Đi về đâu anh Hai?

– Cho tôi về đường Thiệu Trị khúc cổng xe lửa số 6.

Đến lúc này thì Trung mới nhận ra người khách mà anh chở cách đây mấy hôm từ khu cổng xe lửa số 6 về đây. Một phần người thanh niên ban đầu đứng dưới gốc cây lớn nên ánh đèn đường không chiếu tới. Mãi khi người thanh niên lên tiếng anh mới nhận ra cái giọng khàn khàn nhất là cũng vẫn bộ quần áo lính cũ sờn rách mà rất ít người dám mặc nguyên bộ vào thời đó. Như Trung cũng vẫn còn giữ vài bộ đồ lính ngày xưa của mình nhưng thường trong lúc đạp xích lô anh chỉ mặc hoặc quần hoặc áo chứ ít khi mặc nguyên bộ.

Cũng vẫn như lần trước khi lên xe người thanh niên cứ yên lặng không nói năng gì. Và cũng từa tựa lần trước, chở người khách này Trung cảm thấy nhẹ tênh như chở một đứa nhỏ. Đạp được một quãng Trung lên tiếng hỏi:

– Thấy bộ đồ anh mặc tui đoán anh cũng là lính mình ngày xưa. Tui cũng vậy. Dân sư đoàn 18 nè. Còn anh đơn vị nào?

Mãi vài giây sau người thanh niên mới cất giọng khàn khàn:

– Tôi cũng sư đoàn 18 thuộc trung đoàn 43 của đại tá Hiếu.

Trung mừng quá nói huyên thuyên.

– Tui thuộc trung đoàn 52 nè. Trời vậy là gặp chiến hữu mà không hay. À quên xin lỗi không hỏi anh cấp bậc gì để dễ xưng hô. Tui chỉ là hạ sĩ quèn thôi nên nhờ vậy giờ mới đạp xích lô chứ không thôi cũng đang mút mùa ở trại tù nào rồi.

Người thanh niên ậm ừ một lát rồi nói bâng quơ.

– Thôi chuyện qua rồi đừng nhắc nữa anh.

Trung bỗng cụt hứng không muốn hỏi han gì thêm nữa. Vừa đạp xe Trung vừa ngẫm nghĩ, “có khi nào anh chàng này ba xạo nói bừa không ta”, “hay cũng có thể anh ta sợ không tin tưởng mình”. Nghĩ như vậy Trung đỡ cảm thấy bực bội trong lòng như trước đây vài giây. Anh nghĩ thêm, “chắc không phải xạo rồi vì nếu không làm sao anh ta biết được trung đoàn 43 của đại tá Hiếu chứ?”. Mặc dù không nằm dưới đơn vị của đại tá Hiếu nhưng anh cũng biết tên các vị chỉ huy khác của sư đoàn.

Cả hai im lặng cho đến khi xe rẽ vô con hẻm nhỏ mà một bên là nhà và bên kia là nghĩa trang. Người thanh niên dơ tay làm hiệu cho Trung dừng lại. Anh bước xuống và dúi vào tay Trung một nắm tiền giấy. Trung tính trả lại vì anh muốn giúp đỡ cho người chiến hữu sát cánh trong lửa đạn cùng đơn vị với mình ngày xưa nhưng người thanh niên đã đi băng băng vào hướng nghĩa trang. Trung nhét tiền vô túi và hơi ngạc nhiên vì trước giờ cứ ngỡ nhà anh ta phải ở phía bên này thay vì đi sâu vô khu nghĩa trang tăm tối đó.

Về đến nhà, như mọi bữa Trung lấy tiền trong ví ra đưa cho mẹ. Khi mẹ anh chìa tay ra đón thì cả hai bỗng giật mình vì trong mớ tiền đó lại có vài tờ tiền vàng mã. Đến lúc này thì Trung bỗng cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ ngay đến người thanh niên vừa rồi. Hèn gì mà lần nào chở anh ta cũng nhẹ tênh. Trung kể đầu đuôi cho mẹ mình nghe về người khách mà anh đã chở hai lần giữa nghĩa trang và Xa cảng miền Tây. Mẹ anh trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Mẹ nghĩ hồn anh ta còn có điều gì khúc mắc nên chưa siêu thoát. Hơn nữa có thể anh ta và con cũng có một chút duyên nên mới hai lần cho con gặp mặt. Mẹ nghĩ có lẽ mộ anh ta nằm ở nghĩa trang đó. Khi nào rảnh mẹ con mình ghé đó xem sao. Con có nhớ mặt anh ta chứ.

– Hy vọng xem hình trên bia mộ thì con sẽ nhận ra chứ giờ bảo nhớ thì con cũng không dám chắc vì cả hai lần anh ta đều đón xe trong bóng tối và sau đó thì đi rất nhanh.

Ngày hôm sau, sau khi chạy được vài cuốc xe kiếm đủ sở hụi tiền mướn xe Trung quay về nhà chở mẹ đến khu nghĩa trang ở khu cổng xe lửa số 6 để tìm môt cách hú họa. Nghĩa trang tuy nhỏ nhưng đi tìm kiếm ở từng ngôi mộ thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa có những chỗ chật hẹp xe xích lô không vào được, Trung phải chờ bên ngoài để một mình mẹ anh đi vào tìm kiếm. Sau hơn một tiếng rà soát, hai mẹ con tính bỏ cuộc quay ra thì bỗng dưng ngay trước mặt Trung là một tấm bia không hình ảnh. Đó là lý do tại sao ban đầu hai mẹ con không để ý tới. Trên tấm bia ghi rõ:

Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc
Mất ngày 30-4-1975

Tấm bia không ghi ngày sinh mà chỉ có ngày mất. Tự dưng Trung có linh tính đây chính là người lính cùng sư đoàn mà anh đã chở hai lần trước đây. Anh đón lấy bó nhang mẹ anh đem theo và đốt lên cắm xuống ngôi mộ và bắt đầu khấn.

– Xin lỗi thiếu úy. Hai lần chạm mặt mà không biết thiếu úy là cấp trên của em. Lòng thành chỉ có nén nhang này thắp cho thiếu úy. Xin thiếu úy cho phép em gọi thiếu úy là ông thầy cho thân mật. Ông thầy có sống khôn thác thiêng xin báo cho thằng em này biết để có điều gì có thể làm được thì thằng em này sẽ làm cho ông thầy.

Trước khi ra về, Trung đốt một điếu thuốc và cắm xuống bát nhang của ngôi mộ rồi đứng nghiêm chào đúng phong cách một người lính chào cấp trên của mình. Mấy hôm sau đó Trung cố tình né không chạy xe về khu cổng xe lửa số 6 cũng như Xa cảng miền Tây vào những khi tối trời vì cứ nghĩ nếu ông thiếu úy đó ra đón xe nữa thì không biết Trung sẽ xử xự ra sao. Một mặt đã khấn trước mộ người ta là có điều gì thì sẵn sàng làm giúp. Một mặt cứ nghĩ đến nếu giáp mặt với hồn ma lần nữa thì Trung cứ thấy lạnh xương sống.

Chả mấy chốc mà Tết đã gần kề. Mặc dù khi ấy ai nấy đều nhem nhuốc khổ sở nhưng vẫn cố gắng tạo nên một cái không khí Tết cho vui vẻ. Chợ búa cũng nhộn nhịp hơn bình thường. Nhìn những bó hoa vạn thọ bày bán khắp nơi Trung bỗng nhớ đến ngôi mộ của thiếu úy Ngọc. Anh ghé vào mua một bó cúc vạn thọ và bó nhang rồi đạp xe đến nghĩa trang. Từ xa Trung đã ngạc nhiên khi thấy trên mộ của thiếu úy Ngọc có ba nén hương còn nghi ngút khói và có cả đĩa trái cây. Nhìn quanh gần đó chỉ có một người đàn bà trạc tuổi mẹ Trung đang lom khom cắm nhang vào các ngôi mộ xung quanh. Trung lên tiếng hỏi.

– Thím Hai ơi. Có phải thím là người nhà của thiếu úy Ngọc nằm ở đây không?

Người đàn bà đang chăm chú cắm nhang bỗng giật mình ngẩng lên nhìn Trung rồi trả lời:

– Không phải.

Rồi bà ta đổi qua nét mặt có vẻ mừng rỡ và hỏi lại Trung:

– Vậy cậu là người nhà của người nằm nơi đây hả?

– Dạ không phải.

Đến đây thì cả hai cùng chưng hửng ngượng ngập không biết nói gì thêm. Một lát sau Trung hỏi:

– Vậy có phải đĩa trái cây này của thím Hai không? Thím Hai không quen biết mà sao đem trái cây đến ngôi mộ này cúng vậy?

Người đàn bà nhìn bó cúc vạn thọ và bó nhang trên tay Trung rồi hỏi ngược lại:

– Còn cậu hình như cũng đem hương hoa đến viếng ngôi mộ này đúng không? Cậu quen biết ra sao với người mất mà lại làm vậy?

Đến đây Trung quyết định kể cho người đàn bà nghe về câu chuyện của mình mặc dù không biết người ta sẽ tin hay không. Người đàn bà trầm ngâm một lát rồi nói với Trung.

– Chuyện dài dòng lắm. Nhà tôi cũng gần đây thôi, cậu nếu rảnh ghé qua tôi sẽ kể đầu đuôi cho nghe.

Trung dạ rồi đốt vội ba nén hương, cắm bó vạn thọ xuống ngôi mộ rồi lễ cẩn thận. Trước khi đi anh cũng không quên đốt một điếu thuốc mời người thiếu úy dưới mồ.

Sẵn xe xích lô Trung chở người đàn bà về nhà chỉ cách đó chừng trăm thước. Tại đây anh được người đàn bà đưa cho tấm thẻ bài mang tên Nguyễn Văn Ngọc và kể cho nghe câu chuyện bi tráng của những giây phút cuối đời của người lính này. Theo người đàn bà thì trưa ngày 30 tháng 4 thiếu úy Ngọc theo dòng người chạy loạn đi ngang qua khu nhà bà. Đến đây có lẽ do quá mệt mỏi và thất vọng khi nghe tin đã có lệnh buông súng đầu hàng, thiếu úy Ngọc đã tự sát bằng một phát đạn vào thái dương. Giấy tờ tùy thân trên người không có nên không ai có thể biết để liên lạc với gia đình của người mất. Trong lúc hỗn loạn đó, vợ chồng bà cùng vài người hàng xóm đã đứng ra chôn cất cho anh ta ở ngay khu nghĩa trang gần nhà. Bia mộ thì viết dựa theo tên trên tấm thẻ bài và cấp bậc căn cứ vào bông mai trên cổ áo của bộ quân phục anh mặc lúc đó. Từ đó vợ chồng bà cùng những người hàng xóm năm xưa vẫn thường xuyên ghé thăm và chăm sóc cho ngôi mộ này. Sau cùng người đàn bà nói:

– Tôi nghĩ cậu và anh ta có duyên với nhau nên anh ta mới xui khiến để cậu gặp hai lần. Thôi tôi giao cho cậu tấm thẻ bài này. Cậu ráng giúp tìm xem gia đình anh ta ở đâu để báo tin cho người ta biết.

Trung nhận tấm thẻ bài từ tay người đàn bà và tự nhủ trong lòng sẽ cố gắng giúp người thiếu úy quá cố tìm ra người thân của anh ta để báo tin. Dựa vào hai lần đón xe, một đi từ nghĩa trang đến xa cảng miền Tây và một đi theo hướng ngược lại Trung đóan có lẽ anh ta có người thân ở quanh khu đó. Khổ nỗi xa cảng miền Tây thì rộng mênh mông bát ngát biết đâu mà tìm. Suy nghĩ một lát Trung bỗng nhớ ra cả hai lần đưa và đón người khách đi xe luôn đứng ở dưới gốc cây sao lớn trước một ngõ hẻm. Như thế có lẽ nhà người thân anh ta chỉ ở quanh quẩn đâu đó. Trung đạp xe ngay đến đó và bắt đầu gõ cửa từng căn nhà trong con hẻm để hỏi thăm về tung tích người thiếu úy tên Ngọc. Những căn nhà đầu tiên anh hỏi thăm đều là những gia đình mới dọn về sau này nên không ai có thể cho anh thêm thông tin gì. Đến căn nhà ở quãng giữa con hẻm có một người thiếu nữ trạc tuổi Trung đã cho anh một chi tiết quan trọng.

– Anh hỏi thăm thử căn nhà có trồng cây bông giấy trước sân đó xem. Ngày xưa tôi biết gia đình đó có một người con trai cũng cỡ tuổi tôi làm sĩ quan nhưng sau ngày 30 tháng 4 thì không thấy nữa. Hàng xóm đoán là có thể anh ta đã di tản hoặc trốn cải tạo ở đâu đó nên không ai dám hỏi.

Trung cám ơn cô ta rồi đến thẳng căn nhà có cây bông giấy bấm chuông. Một người đàn bà lớn tuổi đi ra. Trung cất tiếng:

– Dạ chào bác. Con kiếm nhà anh Nguyễn Văn Ngọc.

Trung tính nói thêm “ngày xưa là sĩ quan sư đoàn 18” nhưng anh chợt dừng lại vì vào thời điểm đó ai cũng sợ liên lụy, Trung không muốn chủ nhà nghi ngại. Người đàn bà ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:

– Cậu quen sao với thằng Ngọc nhà tôi?

Đến đây thì Trung không còn lo ngại nữa nên trả lời người đàn bà.

– Dạ cháu là lính cùng sư đoàn 18 với ảnh.

– Cậu vào nhà chơi uống miếng nước cái đã.

Trung bước vào nhà và để ý ngay đến cái bàn thờ ở nhà trong mà trên đó có treo bức hình chân dung một người sĩ quan có khuôn mặt khắc khổ. Không thể lẫn vào đâu được, chính là người khách đi xe của anh trước đây. Người đàn bà rót nước trà mời Trung rồi lên tiếng.

– Cậu có tin tức gì của con tôi không? Cậu thấy đó, tôi lập bàn thờ cho nó vì tin rằng nó đã mất. Lần cuối tôi được biết tin tức về nó là khi đơn vị của nó đóng ở Xuân Lộc. Lúc ấy qua tin tức thì trận đánh ở đó khốc liệt lắm. Sau đó không còn tin tức gì. Vợ chồng tôi không biết nó bị bắt, bị tử trận, hay đã trốn thoát được ở nơi nào đó. Đến đêm ngày 30 tháng 4 tôi bỗng nằm mơ thấy nó mặt mũi bê bết máu. Giấc mơ chỉ thoáng qua thật nhanh và tôi chưa kịp hỏi han thì đã giật mình tỉnh dậy. Sau đó không có tin tức gì của nó nữa và tôi cũng không còn mơ thấy nó lần nào. Vợ chồng tôi cũng đi dò hỏi ở nhà những người bạn cũ của nó thì không ai hay biết gì. Bạn thân trong đơn vị của nó thì không ai ở Sài Gòn. Sau một thời gian bặt tin tức và căn cứ theo giấc mơ ngắn ngủi, chúng tôi đã lập bàn thờ cho nó và lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ. Tôi mong là cậu có thể cho chúng tôi biết được tin tức của nó.

Đến đây thì Trung lần lượt kể cho người đàn bà nghe về hai lần có duyên được gặp mặt thiếu úy Ngọc. Anh kể cho bà ta nghe về những người tốt bụng đã chôn cất thiếu úy Ngọc tử tế và vẫn thường xuyên chăm sóc mộ phần anh cho đến tận bây giờ. Cuối cùng anh móc trong túi ra tấm thẻ bài như một kỷ vật để trao lại cho người mẹ đau khổ nhưng hạnh phúc vì cuối cùng cũng biết được con mình bấy lâu nay vẫn được hương khói và mồ yên mả đẹp. Sau đó Trung đạp xe chở mẹ Ngọc đến mộ phần của anh và sau đó ghé thăm nhà của những người ngày xưa đã chôn cất Ngọc. Những cuộc gặp gỡ tràn ngập nước mắt nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc cho một cái kết phần nào có hậu. Trung đã đứng trước mộ phần thiếu úy Ngọc và khấn thầm trong miệng. “Em đã làm được việc tìm ra gia đình của ông thầy. Từ đây mong ông thầy yên nghỉ”.

Khi Trung chở mẹ Ngọc về, người đàn bà đã giữ anh ở lại ăn bữa tối. Hôm đó cũng là ngày tiễn ông Táo về trời. Ở nhà người chị gái của thiếu úy Ngọc đã chuẩn bị mâm cơm cúng tươm tất. Sau bữa cơm Trung cám ơn và cáo từ gia đình Ngọc để ra về. Khi đạp xe ra khỏi cổng con hẻm bên gốc cây sao, Trung bỗng giật mình khi thấy người đón xe xích lô hôm trước, thiếu úy Ngọc, đang đứng giơ tay lên chào mình. Đang đà xe chạy nên Trung không kịp dừng, anh chỉ kịp ngoái đầu lại thì chỉ còn thấy gốc cây sao trống trơn. Lật đật thắng xe lại, Trung đứng vội xuống đất sửa quần áo cho chỉnh tề rồi đứng nghiêm hướng về gốc cây sao chào theo đúng phong cách cấp dưới chào cấp trên trước khi leo lại lên xe để đạp về nhà.

Thảo Lan



Blog Archive