Wednesday, October 16, 2024

Câu Chuyện Luật Pháp: Ngày Trở Về


CÂU CHUYỆN LUẬT PHÁP: NGÀY TRỞ VỀ

Luật gia, Phó Tế Nguyễn Mạnh San

Thông thường những người xa quê hương vì rất nhiều những lý do khác biệt nhau, chẳng hạn như đi du học, đi làm việc công hay tư ở quốc ngoại, đi du lịch, đi công tác, đi tu nghiệp nghề nghiệp chuyên môn, đi các dịch vụ về thương mại, lập gia đình với người ngoại quốc phải theo chồng hay theo vợ ra nước ngoài v.v…, và phải kể đến trường hợp đặc biệt của hàng trăm ngàn người, già trẻ lớn bé phải bỏ quê hương Việt-Nam ra đi xa xôi hàng ngàn dặm, bằng những phương tiện thập tử nhất sinh, để trốn chạy cộng sản ra khỏi quê hương yêu dấu để đi tìm tự do của người Việt-Nam chúng ta nói riêng, thì tất cả những người này khi có dịp được quay trở về quê hương, đều có những cảm giác và những nỗi xúc động tương tự gần giống nhau.

Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.

Để tiêu biểu cho những nỗi cảm xúc này, chúng ta có thể trích tạm một đoạn lời ca trong bản nhạc Ngày Trở Về của nhạc sĩ Phạm Duy như: Ngày trở về, những đóa hoa, Thắm thoát mười năm nhớ anh vắng xa, Có nhiều khi đời hoa chóng già vì thiếu mặn mà, Đàn trẻ đùa bên lũ trâu, Tiếng hát bình minh thoáng trên bãi dâu, Gió về đâu, con thương tiếc người giọng hát rầu rầu.

Hoặc những nỗi cảm xúc tương tự như thế trong bản nhạc nổi tiếng khắp thế giới: Trở Về Mái Nhà Xưa (Come Back To Sorrento) cũng do nhạc sĩ Phạm Duy dịch ra lời Việt là: Về đây khi mái tóc còn xanh xanh, Về đây với màu gió ngày lang thang, Về đây xác hiu hắt lạnh lùng, Ôi lãng du quay về điêu tàn.

Đó là một vài nỗi cảm xúc tiêu biểu cho những người phải xa gia đình hay xa quê hương tạm một thời gian vì những lý do vừa nêu ở trên, thì nay có cơ hội tự mình muốn quay trở về thăm lại gia đình hay trở về thăm quê hương trong một thời gian dài hay ngắn hoặc có khi trở về luôn. Thế nhưng ngày trở về quê hương Việt-Nam sắp tới trong vòng vài tháng nữa của một số đông người Việt, thì những cảm xúc của họ hoàn toàn khác biệt, không giống những cảm xúc như những lời ca trong hai bản nhạc vừa nói trên, mà những cảm xúc của họ là sự lo sợ, buồn rầu, thất vọng vì bị cưỡng bách phải trở về quê hương, sẽ tạo nên những cảnh chia ly tang thương đầy nước mắt: Chồng phải xa vợ hay vợ phải xa chồng, con cái phải xa Bố hay xa Mẹ, anh chị em phải xa nhau v.v…, quả thật sự kiện này gần đúng như vậy.

Vì cách đây vài tuần lễ, cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đã bị hoảng hốt, hoang mang, bàn tán xôn xao với nhau về một thỏa hiệp đã được ký kết vào ngày 22 tháng 1 năm 2008 giữa chính phủ Hoa Kỳ với chính phủ Việt-Nam là: chính phủ Việt-Nam bằng lòng tiếp nhận những người Việt-Nam đã bị chính phủ Hoa Kỳ trục xuất trả về nguyên quán qua những án lệnh của Tòa đã ấn ký trước đây (Nói đến án lệnh tức là nói đến những thường trú nhân đã thi hành xong bản án tù ở vì đã vi phạm pháp luật Hoa Kỳ hoặc những người cư trú bất hợp pháp (Illegal Aliens) vì nhiều nguyên nhân khác nhau) và thỏa hiệp này sẽ có hiệu lực trong vòng 5 năm, và 6 tháng trước khi thỏa hiệp này hết hạn thi hành kể từ ngày ký, nếu không có bên nào tỏ ý từ chối việc gia hạn thì thỏa hiệp này tự động sẽ được gia hạn thêm một thời gian 3 năm nữa, có nghĩa là thỏa hiệp sẽ được thi hành trong thời gian 8 năm liên tục. Thỏa hiệp này chỉ áp dụng đối với những người Việt đến Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 7 năm 1995 hoặc đến Hoa Kỳ sau ngày này mà thôi.

Căn cứ theo lời phát biểu về thỏa hiệp này của bà Julie Myers, Giám Đốc Cơ Quan Thi Hành Luật Di Trú và Quan Thuế Hoa Kỳ (U.S. Immigration and Customs Enforcement) là những người Việt-Nam vào Hoa Kỳ bất hợp pháp sau khi mối bang giao bất hòa từ xưa giữa hai nước đã được bình thường hóa vào năm 1995, thì bây giờ những người này có thể (chữ có thể ở đây nên hiểu là chưa chắc chắn) bị ép buộc phải quay trở về lại nguyên quán (Vietnamese who entered the U.S. illegally after the former foes normalized relations in 1995 could now be forced to return to their birth country , said Julie Myers, Director of U.S. Immigration and Customs Enforcement).

Nhưng mới đây các giới chức cũng thuộc cơ quan của bà Myers đã cho biết cho đến bây giờ, có phỏng chừng 6,200 người Việt đã lãnh nhận án lệnh trục xuất mà những người này đã vào Hoa Kỳ trước giữa năm 1995 sẽ không bị ảnh hưởng đối với thỏa hiệp này và các giới chức này cũng cho biết có khoảng 1,500 người Việt sẽ bị trục xuất trả về Việt-Nam sau khi thỏa hiệp này được áp dụng vào cuối tháng 3 sắp đến. Những người này là thường trú nhân hợp pháp nhưng đã vi phạm những tội trạng được liệt kê là những tội tiểu hình hay đại hình bị trục xuất hay những người đã cư trú quá thời gian hạn định đã ghi rõ trong giấy chiếu khán. Bản thỏa hiệp này được chia ra từng giai đoạn để cho Hoa Kỳ và ViệtNam có đủ thời gian thi hành thỏa hiệp này.

Chính vì những lời tuyên bố của giới chức cao cấp có thẩm quyền vừa được kể trên, làm cho nhiều người Việt, thường trú nhân ở đây bị hoang mang lẫn lo sợ cho chính bản thân của mình và cho những người thân bằng quyến thuộc là những thường trú nhân đã từng bị kết án tù ở trước năm 1995 và đã vi phạm pháp luật Hoa Kỳ kể từ ngày 12 tháng 7 năm 1995 cho đến hiện tại. Có rất nhiều thường trú nhân (Permanent residents) đã không hiểu rõ mục đích chính xác của thỏa hiệp này nên đã tự hỏi, nếu vậy thì những ai từ Việt-Nam đến Hoa Kỳ vào này 12 tháng 7 năm 1995 hoặc đến sau ngày này mà chưa vô quốc tịch Hoa Kỳ, mới chỉ là Thường Trú Nhân thôi, thì tất cả những người này đều bị trả về Việt-Nam sao?

Thực ra điều thắc mắc này hoàn toàn không đúng như vậy, nói một cách rõ rệt hơn là những người cư trú ở đây bất hợp pháp kể từ ngày 12 tháng 7 năm 1995 cho đến hiện tại, có thể bị trục xuất trả về nguyên quán và một số Thường Trú Nhân nào đã lãnh án tù ở kể từ ngày 12 tháng 7 năm 1995 thì có thể bị trục xuất để trả về ViệtNam theo tội trạng ở mức độ nặng hay nhẹ tùy theo từng trường hợp của mỗi cá nhân phạm tội nếu nhận được giấy trục xuất. Theo nguồn tin của Thông Tấn Xã Hoa Kỳ (AP) loan báo có hàng ngàn người Việt cư trú bất hợp pháp tại Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng bởi thỏa hiệp này.

Khi nhận được những tin vừa kể trên, chúng tôi đã có dịp tham khảo trực tiếp vấn đề này với một số những vị luật sư trên toàn quốc Hoa Kỳ, có kinh nghiệm hành nghề từ 30 cho đến 40 năm về luật hình sự (Criminal law) cũng như về luật di trú (Immigration law) và những vị luật sư này, đa số đều cho rằng: Trước tiên thỏa hiệp mới được ký kết giữa hai chính phủ thuộc ngành hành pháp Hoa Kỳ và chính quyền Việt-Nam (Sở dĩ chúng tôi dùng chữ hành pháp là vì thỏa hiệp này chưa hề có sự phê chuẩn nào của ngành lập pháp Hoa Kỳ, trong khi luật pháp Hoa Kỳ nói chung và luật di trú Hoa Kỳ nói riêng, đều do ngành lập pháp làm ra, phê chuẩn và ban hành. Do đó đang có một số Dân Biểu Hoa Kỳ tỏ thái độ phản đối mạnh mẽ về thỏa hiệp này) chỉ nhằm mục đích trao trả về Việt-Nam những người đang cư trú bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, cộng thêm một số những thường trú nhân tội phạm (Criminal permanent residents) từ ngày 12 tháng 7 năm 1995 cho đến hiện tại và cho đến tương lai trong khoảng thời gian từ 5 năm đến 8 năm nếu có sự gia hạn.

Cũng theo đa số ý kiến chung của các vị luật sư này, thì Hoa Kỳ chỉ muốn trục xuất những người nào cư trú bất hợp pháp và một số tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội Hoa Kỳ. Dù tội nhân đã thi hành xong bản án, nhưng trên thực tế không phải là một điều đơn giản, dễ dàng để thi hành theo như thỏa hiệp này, vì các tội nhân phải qua những thủ tục pháp lý (Legal procedures) khá phức tạp mà Hoa Kỳ là một quốc gia luôn luôn biết thượng tôn pháp luật, áp dụng tuyệt đối quyền bình đẳng trước công lý (Absolutely due process), có nghĩa là tất cả mọi tội phạm phải được xét xử một cách công minh chính trực trước Tòa án cấp dưới và được phép đệ đơn kháng cáo lên Tòa án cấp trên để xin xét xử lại bản án.

Khi nói đến vấn đề trục xuất những người cư trú bất hợp pháp và những thường trú nhân tội phạm ra khỏi Hoa Kỳ, là nói đến luật di trú của Hoa Kỳ (US Immigration Law) và những loại tội phạm nào sẽ được đem ra áp dụng để tống xuất can phạm về nguyên quán, thì theo Đạo Luật Cải Cách về Di Trú Bất Hợp Pháp và về Trách Nhiệm Di Dân của Hoa Kỳ đã ban hành vào năm 1996 (the Illegal Immigration Reform and Immigrant Responsibility Act) và Đạo Luật Hoa Kỳ điều 8 U.S.C. Section 1101(a)(43) được quy định rõ ràng những tội trạng như sau:

1. Tội giết người, hiếp dâm hay lạm dụng tình dục với trẻ em dưới tuổi vị thành niên.
2. Tội buôn bán những chất cần sa ma túy.
3. Tội buôn bán súng đạn, những dụng cụ dùng để phá hoại hay những chất nổ.
4. Tội buôn bán bằng tiền bất hợp pháp gọi là tội rửa tiền (Xem điều luật 18 U.S.C. Section 1956).
5. Những loại tội cất giấu những thuốc nổ và súng đạn bất hợp pháp (Xem điều luật 18 U.S.C. Section 842 và Section 924 and 26 U.S.C. Section 5861)
6. Những tội bạo hành ghi trong điều 18 U.S.C Section 16 đối với bản án tù ở từ 1 năm trở lên.
7. Tội ăn trộm ăn cắp đối với những bản án tù ở từ 1 năm trở lên.
8. Tội tống tiền (Xem điều luật 18 U.S.C. Section 875)
9. Một vài tội cho trẻ con coi hình ảnh tục tỉu (Xem điều luật 18 U.S.C. Section 2251)
10. Những tội buôn bán bất hợp pháp để kiếm tiền bị tù ở từ 1 năm trở lên.
11. Tội mại dâm, tổ chức mại dâm hay đưa người qua Tiểu Bang khác để ép buộc làm nghề mại dâm.
12. Tội tiết lộ an ninh quốc phòng.
13. Tội lừa đảo người ta hay chính quyền mà sự thiệt hại vượt quá $10,000.
14. Tội đưa lậu người vào Hoa Kỳ.
15. Tội nhập cảnh Hoa Kỳ bất hợp pháp hoặc trở lại vào Hoa Kỳ bất hợp pháp.
16. Tội dùng giấy tờ nhập cảnh giả mạo bị tù ở từ 1 năm trở lên.
17. Tội trốn tránh không đi trình diện ở tù.
18. Tội hối lộ, giả mạo giấy tờ trái phép hay đổi bảng số giả cho xe hơi.
19. Tội tuyên thệ gian dối, tội lừa đảo có nhân chứng hay làm cản trở công lý bị tù ở từ 1 năm trở lên.
20. Tội không trình diện Tòa án có liên quan đến vụ truy tố hình sự có thể bị tù ở từ 2 năm trở lên.
21. Tội dự tính hay âm mưu phạm những tội kể trên.

Những người di dân phạm những tội nói trên có thể không được hưởng sự khoan hồng để ở lại Hoa Kỳ, có thể không được nhập tịch, có thể không được quay trở về lại Hoa Kỳ sau khi đã bị tống xuất về Việt-Nam và có thể những án lệnh của Tòa Án Di Trú phán quyết sẽ không được hưởng đặc ân bãi bỏ nếu không có quyết nghị đặc biệt của Tổng Trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ. Ấy thế mà chúng ta vẫn còn nhớ, cách đây khoảng hơn một năm, một số đài truyền hình đã chiếu trên màn ảnh về một cuộc biểu tình vĩ đại của hàng ngàn người Mễ cư trú bất hợp pháp tại Tiểu Bang California, hiên ngang đi diễn hành trên đường phố Los Angeles, họ hô to những khẩu hiệu đòi chính phủ Hoa Kỳ phải ngưng trục xuất họ, dành cho họ một số quyền lợi về công ăn việc làm, về lương bổng tối thiểu v.v… Đây đúng là một sự kiện độc nhất vô nhị, đã đi ăn mày mà còn đòi sôi gấc, chỉ xảy ra ở Hoa Kỳ chứ không thể xảy ra ở bất cứ một quốc gia tự do dân chủ nào khác trên thế giới.

Rồi đối với vấn đề bảo vệ lãnh thổ biên giới giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ, để ngăn chặn không cho những người Mễ băng qua biên giới chốn sang Hoa Kỳ cư trú bất hợp pháp, Hoa Kỳ đã phải tiêu tốn một số tiền khổng lồ của dân đóng thuế để xây cất lên một bức tường cao ngất, nối dài hàng trăm dặm dọc theo biên giới giữa Mexico và Hoa Kỳ, nhưng vẫn không đem lại hiệu quả khả quan nào như Hoa Kỳ mong muốn và có một vị luật sư đã từng tham chiến tại Việt-Nam kể cho chúng tôi nghe, để tiết kiệm tiền của dân đóng thuế, đã có một số người đưa ra ý kiến, là cứ đem chôn những quả mìn Claymore dọc theo biên giới với hàng chữ to tướng: Hãy coi chừng nếu bước qua đường ranh giới này, mìn sẽ nổ tung banh xác, thì bố bảo ai dám bước qua, ngay cả quân khủng bố cũng chẳng dám bước qua; nhưng Hoa Kỳ coi đó là một việc làm dã man và tàn bạo, chỉ có thể xảy ra ở những nước cộng sản hay ở trong thời kỳ chiến tranh mà thôi.

Để quay trở lại vấn đề thỏa hiệp vừa kể trên, theo lời khuyên của những vị luật sư này, là dù những người cư trú bất hợp pháp hay những thường trú nhân tội phạm nào đã nhận hoặc chưa nhận được án lệnh trục xuất nằm trong thỏa hiệp mới này, tốt hơn hết là nên tìm cách tham khảo với những vị luật sư tại địa phương, chuyên môn về luật hình sự (Criminal law) và về luật di trú (Immigration law), để nhận được giải thích một cách chính xác hay được bênh vực trước Tòa án, thì sẽ có hiệu quả hơn vì nội vụ mang tính cách chuyên biệt. Nên nhớ rằng bên phía Hoa Kỳ là bên trục xuất trả người về Việt-Nam, còn bên phía Việt-Nam là bên tiếp nhận người bị trục xuất. Nhưng trước khi Hoa Kỳ trục xuất người nào để trả về Việt-Nam, thì người bị trục xuất phải được xét xử từng tội trạng khác nhau trước Tòa Án Tiểu Bang, Tòa Án Liên Bang hay Tòa Án của sở Di Trú Hoa

Kỳ theo pháp luật hiện hành của Hoa Kỳ. Ngược lại, để tiếp nhận những người bị Hoa Kỳ trục xuất trả về nguyên quán là Việt-Nam, thì Việt-Nam cũng có toàn quyền bằng lòng tiếp nhận hay từ chối tiếp nhận từng trường hợp một, sau khi Việt-Nam đã xét duyệt hồ sơ cá nhân của những người bị Hoa Kỳ trả về nguyên quán. Nói tóm lại thỏa hiệp này không có nghĩa là hoàn toàn tất cả những người Việt-Nam vào Hoa Kỳ ngày 12 tháng 7 năm 1995, hoặc sau ngày này, để cư trú bất hợp pháp tại Hoa Kỳ và tất cả những thường trú nhân tội phạm trong thời gian này, đều sẽ bị Hoa-Kỳ trục xuất trả về Việt-Nam. Thỏa hiệp này cũng không có nghĩa là bất cứ những người Việt bị Hoa Kỳ trục xuất trả về Việt-Nam thì Việt-Nam bị bắt buộc phải tiếp nhận tất cả những người này. Sau đây chúng tôi xin kể lại 3 câu chuyện tiêu biểu cho những người cư trú bất hợp pháp tại Hoa Kỳ và có thể bị trục xuất trả về Việt-Nam:

1. Một cựu chiến binh Hoa Kỳ 55 tuổi, đã từng tham chiến ở Việt-Nam hơn 3 năm và nay ông ta quay trở về thăm Việt-Nam để được xem tận mắt những nơi trước kia ông đã từng đóng quân tại đó. Trong thời gian thăm viếng Việt-Nam 4 tuần lễ, ông tình cờ gặp một cô gái ở thôn quê mới 20 tuổi rất xinh đẹp, ăn nói dịu dàng dễ thương, và hai người yêu nhau thắm thiết. Sau khi ông trở về lại Hoa Kỳ, ông liền đệ nạp đơn bảo trợ cho cô ta đoàn tụ với ông theo diện hôn thê (Fiancee). Cô thiếu nữ này sang tới đây chưa đầy 1 tháng, chưa kịp làm giấy hôn thú vì thời gian vẫn còn hạn tới 62 ngày nữa để lập hôn thú, thì ông chết bất đắc kỳ tử (Heart attack), không kịp trăn trối một lời nào từ biệt với cô, thật đúng là hồng nhan bạc phận. 

Theo luật di trú Hoa Kỳ, không lập hôn thú trong vòng 90 ngày, quá thời gian này thì cô phải quay trở về Việt-Nam nếu người yêu của cô chưa lập hôn thú với cô. Sự việc thật đắng cay xảy ra bất ngờ, là người yêu của cô giờ đây đã nằm an nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất trong khi ông chưa kịp lập hôn thú với cô. Thế rồi sắp tới ngày phải lên đường trở về quê cũ, thì cô gặp một chàng trai Việt-Nam ở đây hơn cô có 3 tuổi, lại là một kỹ sư điện toán mới ra trường, anh này đã biết rõ tình trạng đáng thương của cô và anh tỏ lòng thương yêu cô hết mình hết sức trên hết mọi sự bằng cách dẫn cô đi lập hôn thú với anh ở Tòa án, chỉ trước một ngày chiếu khán của cô hết hạn được phép cư trú ở Hoa Kỳ. 

Cho dù cô đã lập hôn thú với anh Việt-Nam này đi chăng nữa, theo luật di trú, cô vẫn phải quay về quê cũ để chờ tới ngày được mời đi phỏng vấn tại Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Việt-Nam và phải được chấp thuận, thì cô mới có thể sum họp lại với chồng được. Khổ một nỗi tình yêu của hai người như keo sơn super glue, chặt không đứt dứt không ra, mỗi năm cô đều tặng chồng mình một tí nhau và cho đến nay hai vợ chồng đã có 2 đứa con trai kháu khỉnh, nhưng người vợ này vẫn ở trong tình trạng cư dân bất hợp pháp (Illegal alien) và căn cứ theo thỏa hiệp nêu trên thì cô phải trở về Việt-Nam để trở thành Ngưu Lang Chức Nữ, thật là men tình chưa cạn đã bị chia ly, chưa biết đến bao giờ mới được sum họp lại với chồng con. Vì cô này đến Hoa Kỳ sau ngày 12 tháng 7 năm 1995.

2. Một anh chàng Việt-Nam còn trẻ tuổi tài cao, mới 30 mùa xuân, lấy vợ người Việt sanh tại Hoa Kỳ chưa đầy một năm thì bị vợ đệ đơn ra Tòa xin ly dị chồng vì anh chồng mang tật mê tiền hơn mê gái, đếm lu nước mắm tính củ dưa hành. Có câu hát rằng chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi, đằng này lại chắt chiu tháng tháng cho vợ đi làm để mang tiền về nạp cho chồng. Sau khi ly dị được 6 tháng, anh này đi du lịch về Việt-Nam để kiếm một cô gái lấy về làm vợ, áp dụng đúng câu “Đàn ông ở một mình không tốt”. 

Qua kinh nghiệm đã một lần dang dở, thay vì có rất nhiều cô gái trẻ xinh đẹp ở Sàigòn, trông rất Mi Nhon thấy diện mạo của anh, các cô đều ao ước được anh ghé mắt chiếu cố, nhưng anh vẫn nhắm mắt làm ngơ, chẳng thèm để ý đến ai hết, vì sợ phải lòng cô nào, rồi nhỡ lấy nhầm phải cô chiêu đãi viên bán bia ôm hay bán cà phê ôm, thì làm hỏng cả cuộc đời xuân thì của một chàng trai tuổi trẻ tài cao như anh, suốt đời chỉ biết yêu tiền hơn yêu gái nên anh đã liều mình, nghĩ thầm trong bụng, dù lỡ có bị xe đò cán chết hay bị gãy chân thì cũng chẳng sao, miễn là tiết kiệm được đồng nào hay đồng ấy nên anh đã thuê xe Honda ôm đi từ Sàigòn về đến một thôn quê bé nhỏ hẻo lánh thuộc ngoại ô tỉnh Sóc Trăng.

Ở đây được vài ngày, anh đã chọn được một cô gái còn non dại, tính tình hiền lành chất phác, bảo sao nghe vậy, thua anh mới có 12 tuổi. Ngay khi quay trở về Hoa Kỳ, anh liền nạp đơn xin bảo lãnh người yêu theo diện hôn thê và chưa đầy 7 tháng sau, anh nhận được tin vui là người yêu của anh được chấp thuận vào Hoa Kỳ, anh liền vội vàng mua vé máy bay quay trở về Việt-Nam để chính bản thân anh sẽ hộ tống người yêu qua Hoa Kỳ cho chắc ăn một trăm phần trăm, vì anh đã có một người bạn thân bảo trợ người yêu sang Hoa Kỳ theo diện hôn thê như anh, nhưng tới ngày bạn anh ra phi trường đón người yêu của anh ta đến, bạn anh đã phải chờ đợi ở phi trường cho đến quá nửa đêm mà vẫn không thấy bóng dáng con chim uyên yêu dấu của anh ta xuất hiện. Sau này tìm hiểu nguyên do, mới vỡ lẽ ra là con chim uyên yêu dấu này đã đáp máy bay xuống phi trường San Francisco để sum họp với vị Hoàng Tử yêu quý nhất đời của nàng tại đây, vị Hoàng Tử này mới chỉ có thẻ thường trú không thể bảo lãnh nàng sang đây theo diện hôn thê được, còn nếu bảo lãnh theo diện vợ chồng thì phải đợi chờ ít nhất trên 2 năm mới có thể sum họp được.

Tới đây xin trở lại câu chuyện anh chàng trẻ tuổi tài cao bay về Việt-Nam đón người yêu, khi đã đưa được người yêu qua Hoa Kỳ rồi, ngày hôm sau anh đưa nàng đi lập hôn thú và liền nạp đơn với sở di trú xin đổi tình trạng hôn thê sang diện vợ chồng. Trong khi đang chờ đợi sở di trú gọi nàng đi phỏng vấn, nàng báo tin mừng cho chồng nàng biết là bác sĩ gia đình xác nhận nàng đã có thai được gần 5 tháng. Thay vì nghe được tin mừng này thì anh phải vui mừng mới đúng, ngược lại anh lại tỏ ra im lặng buồn bã và chờ đến tối khuya, anh đưa đề nghị với vợ anh là nàng phải phá thai, nại những lý do là anh sắp bị sở cho nghỉ việc, lấy tiền bạc đâu mà nuôi con, nuôi con ở bên này không đúng tiêu chuẩn pháp luật đã quy định, sẽ bị Bộ An Sinh Xã Hội lấy mất con đi cho chính phủ nuôi v.v… Lẽ dĩ nhiên nàng không bằng lòng lời đề nghị phá thai của chồng vì nàng là một con chiên ngoan đạo từ thuở còn thơ ấu, Cha Mẹ của nàng là những con chiên đạo gốc ngoan đạo. Nói tới đây chúng tôi nhớ tới một câu hát “Làm sao giết được người trong mộng” nhưng trong trường hợp này, anh chồng lại muốn giết người trong bụng vợ nên nàng không thể chấp nhận một hành động đồng lõa với chồng để giết em bé còn trong bụng mẹ, hành động như thế chẳng khác gì tự mình giết mình và còn giết thêm một đứa bé vô tội, có thể thoát khỏi tội giết người trước pháp luật nhưng không thể thoát tội giết người trước mặt Thiên Chúa được.

Thế rồi như đã dự tính trước, vào một hôm trong lúc chồng đi làm vắng nhà, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn gái quen thân từ Việt Nam ở một Tiểu Bang khác, cũng lấy chồng Việt kiều trước nàng đã sang đây hơn 2 năm, cả hai vợ chồng người bạn này tình nguyện lái xe đến đón nàng đưa đi trốn, không cho chồng nàng biết nàng đang ở đâu. Anh chồng đi làm về khuya, không thấy vợ mình đâu, liền báo cho cảnh sát biết và ngày hôm sau anh cũng báo tình trạng vợ bỏ nhà ra đi cho sở di trú biết, vì vợ anh mới tới đây chưa đủ một năm và cũng chưa được sở si trú phỏng vấn. Vậy kể cả hai trường hợp cô vợ anh và cô vợ của người bạn trai anh vừa kể ở phần trên, đều trở thành cư dân bất hợp pháp và nếu bị bắt giữ, sẽ có thể bị trục xuất về Việt-Nam theo thỏa hiệp đã nêu trên.

3. Người ta có câu hát “Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng” nhưng trong trường hợp sau đây thật là quái ác, anh đã thi đỗ từ lâu rồi mà vẫn chưa được động phòng. Thật vậy, có một chàng thanh niên đẹp trai, học giỏi, đậu tới 2 mảnh bằng BA và MA, có công ăn việc làm tốt lương rất cao, chưa bao giờ bồ bịch với cô nào, có nhiều cô Mỹ da trắng, Mỹ da vàng, Mễ lai Mỹ theo anh như đỉa đói, thế mà anh chẳng thèm ghé đôi mắt nâu của anh đến một ai hết, chỉ biết học và nghe lời Cha Mẹ dạy bảo, một mẫu người trai lý tưởng hiếm quý trên cõi đời này. 

Cách đây 2 năm, Cha Mẹ anh đã đưa anh về Việt Nam xem mắt cô dâu tương lai do Cha Mẹ chọn và vừa mới gặp mặt cô nàng là anh chịu liền tức khắc. Chưa đầy 7 tháng sau, cô dâu tương lai được phép sang Hoa Kỳ theo diện hôn thê. Ngày đầu tiên vừa đặt chân tới đây, cô nhỏ nhẹ thủ thỉ sát bên tai Mẹ anh, xin Mẹ cho phép con vào mỗi buổi tối được ngủ chung với Mẹ cho tới ngày đám cưới, thì tới lúc đó con mới dám động phòng với anh ấy, chứ chưa cưới hỏi chính thức mà ăn nằm với nhau thì phạm tội trọng trước mặt Chúa. 

Vừa nghe xong lời yêu cầu này của cô con dâu tương lai làm bà cảm thấy sung sướng muốn chảy nước mắt, tỏ lời khen lấy khen để, nào là con dâu tương lai của Mẹ đúng là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, gia đình hai bên chúng ta đều là những con chiên đạo gốc ngoan đạo có khác, con trai của bà cho đến giờ phút này chỉ có biết ăn học, đi làm việc, tan sở xong về thẳng nhà, cuối tuần đi Lễ với Cha Mẹ, không bồ bịch với ai hết. Giờ đây bà lại được người con dâu hiền lành đạo hạnh, biết giữ gìn tiết trinh với chồng trước khi chính thức làm vợ, đúng là Chúa thương trả công cho con trai bà và cho gia đình của bà nữa. Thánh Lễ Thành Hôn đã được dự tính có tới 3 Cha đồng tế Lễ tại Nhà Thờ Chánh Tòa và bữa tiệc cưới sẽ được tổ chức linh đình ở một nhà hàng rộng lớn sang trọng vào bậc nhất tại địa phương, đủ chỗ ngồi cho tới 400 quan khách đã xác nhận sẽ đến dự tiệc.

Than ôi! Như một trái bom nguyên tử đang nổ tung lên trời nhưng may mắn không ai bị thương hay chết, trước tiên nhà trai phải đến xin lỗi Cha Chánh Xứ được phép bãi bỏ Thánh Lễ Hôn Phối và sau đó phải gọi điện thoại thông báo tin động trời này đến từng gia đình quan khách đã gửi thiệp mời, để xin tha lỗi cho nhà trai vì chỉ còn lại 2 ngày nữa là tới ngày Lễ Thanh Hôn và tiệc cưới, thì không hiểu sao cô con dâu tương lai của bà tự nhiên biến mất. 

Thoạt đầu những người trong gia đình bà cứ cho rằng cô dâu bị bắt cóc, nhưng sau này vỡ lẽ ra là cô dâu đã tung cánh chim tìm về tổ ấm với người yêu dấu nhất đời của mình đang chờ đợi cô ở một Tiểu Bang khác mà hai người trước đây chỉ được nói chuyện với nhau trong điện thoại, không được gặp mặt nhau đã hơn một năm nay. Anh chàng này vì chưa có quốc tịch nên không thể bảo trợ cho cô này sang đây theo diện hôn thê được và nếu bảo trợ theo diện vợ chồng thì cũng phải chờ đợi ít nhất từ trên 2 năm cho tới 3 năm may ra mới sang đây được. Vậy cho dù sau này, cô này có làm hôn thú với người yêu dấu nhất đời của cô đi chăng nữa, thì cô vẫn ở trong tình trạng cư trú bất hợp pháp và có thể bị trục xuất theo thỏa hiệp nói trên nếu cô bị chính quyền bắt giữ. Nếu đừng có vụ 9/11 xảy ra, thì những nhân vật cư trú bất hợp pháp trong 3 câu chuyện kể trên đều có thể điều chỉnh tình trạng bất hợp pháp để trở thành hợp pháp.

Vì khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo dành cho mỗi bài viết, không cho phép chúng tôi đi sâu từng chi tiết là làm thế nào để điều chỉnh tình trạng cư trú bất hợp pháp của những nhân vật trong 3 câu chuyện. Tuy nhiên chúng tôi có thể trình bày cùng đọc giả sơ qua về thủ tục điều chỉnh như sau: Vị luật sư chuyên biệt về di trú sẽ xúc tiến các thủ tục với sở di trú để xin cho thân chủ được phỏng vấn với Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại một quốc gia đệ tam gần Hoa Kỳ nhất, chẳng hạn như Canada, Mexico v.v…, Ít lâu sau, luật sư của thân chủ sẽ nhận được giấy thông báo cho biết ngày giờ thân chủ của mình sẽ được phỏng vấn và vài ngày trước đó, vị luật sư này sẽ hộ tống thân chủ ra khỏi Hoa Kỳ để đến một quốc gia đệ tam để thân chủ của mình được phỏng vấn, rồi tùy theo từng trường hợp phải chờ đợi vài ngày hay vài tuần lễ ở quốc gia đó, để được Tòa Đại Sứ xác nhận sự chấp thuận cho phép thân chủ được vào Hoa Kỳ sum họp với người phối ngẫu. Nhưng từ khi có vụ 9/11 đến nay, vấn đề an ninh nội địa Hoa Kỳ, khi đi vào cũng như lúc đi ra Hoa Kỳ đều bị kiểm soát rất gắt gao, trước kia đi vào Hoa Kỳ không mấy khó khăn, còn đi ra thì rất dễ dàng, nhất là đi sang những quốc gia lân cận lại càng dễ dàng như đi chợ.

Nhưng bây giờ những thân chủ muốn điều chỉnh tình trạng như chúng tôi vừa đề cập, chưa kịp bước chân ra khỏi Hoa Kỳ, mới tới phi trường hay tới biên giới đã bị bắt giữ, để chờ lệnh tống xuất, hành động như thế chẳng khác nào Lạy Ông Tôi Ở Bụi Này. Chúng ta nên nhớ có rất nhiều loại cư trú bất hợp pháp ngoài những loại vừa kể trên, như loại sinh viên du học, loại du khách, loại đi tu nghiệp, loại buôn bán thương mại, loại giả mạo giấy tờ để chiếu khán vào Hoa-Kỳ, loại giả vờ lấy nhau, loại nhập cảnh để chữa bệnh v.v…, tất cả những người này hoặc giấy chiếu khán ở Hoa Kỳ đã hết hạn hoặc không đủ tiêu chuẩn để được ở lại Hoa Kỳ, còn những thường trú nhân phạm tội thì xin đọc lại ở trang có liệt kê những tội danh. Đó là lý do chính mà chính phủ Hoa Kỳ đã theo đuổi gần cả 10 năm nay để thuyết phục Việt-Nam đạt tới một thỏa hiệp như trên. Đợt trục xuất đầu tiên sẽ khởi sự vào cuối tháng 3 năm nay.

Trước khi tạm chấm dứt vấn đề này ở đây, chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa là những ai có liên quan đến thỏa hiệp này nên tham khảo sớm với những vị luật sư chuyên biệt về hình sự cũng như về di trú, để biết trước những điều gì mình cần phải chuẩn bị làm, trước khi mình có thể bị trục xuất trả về nguyên quán như người ta vẫn thường nói: Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Tóm lại theo quan điểm của những vị luật sư mà chúng tôi đã tham khảo, đều cho rằng thỏa hiệp này nhắm mục đích cảnh giác những thường trú nhân nào muốn ở lại Hoa Kỳ để vui hưởng quyền tự do, dân chủ thật sự và nhân quyền bao gồm quyền sống và quyền làm người ngay từ khi hài nhi bắt đầu thành hình trong lòng Mẹ tại quốc gia này, thì chớ có dại dột vi phạm những tội danh đã được quy định trong Đạo Luật Cải Cách về Di Trú Hoa Kỳ vào năm 1996 như đã được liệt kê trong bài viết này.

Phó Tế Nguyễn Mạnh San

(Trích từ Tuyển Tập I: Pháp Luật Hoa Kỳ Thực Dụng của Luật gia Nguyễn Mạnh San. Phó tế Giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ tại Oklahoma.)
ÔNG DONALD TRUMP VÀ BÀ KAMALA HARRIS, AI PHÁ HOẠI NỀN DÂN CHŨ MỸ ???

Tác Giả: Lê văn Hoàng Nguồn: Diễn Đàn PSXH 

Kính Thưa Quí Đồng Hương

Con người được sinh ra hình dạng đều tương đối giống nhau. Nhưng tại sao có người dù trẻ nhưng vẫn được mọi người tôn kính và nể phục gọi BẰNG ÔNG HAY BÀ, đó là do họ có một tư cách đàng hoàng và ăn nói CÓ LÝ LẺ RÕ RÀNG. Nhưng cũng có một số người dù già nhưng vẫn bị mọi người gọi là CON MỤ HAY THẰNG ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ, tại vì ăn nói hồ đồ ngang ngược, đổi trắng thay đen một cách LỐ BỊCH TRẮNG TRỢN VÀ NGANG NGƯỢC. Bây giờ chúng ta hãy nhìn những gì mà Bà Kamala Harris đã làm và nói để biết Bà ta thế nào và ai mới là người phá hoại nền Tự Do và Dân Chũ của Nước Mỹ ???

- Thứ 1 : Trong cuộc tranh luận giữa Ông Trump và Bà Harris. Người điều hành có hỏi Bà Harris là tại sao Chính Quyền Biden - Harris phải để cuộc rút quân khỏi Afghanistan thãm hại như vậy, thì Bà ta chỉ về Ông Trump và nói rằng : ĐÓ LÀ TẠI VÌ ÔNG TRUMP không để lại một kế hoạch rút quân rõ ràng. ỐI GIỜI ƠI LÀ GIỜI, không thể nào tưỡng tượng nổi Bà ta là một Luật Sư, lại là một Ứng Cử Viên Tổng Thống, thế mà lại ĂN NÓI ĐỖ THỪA MỘT CÁCH HỒ ĐỒ TRƠ TRẺN VÀ CHAI MẶT NHƯ VẬY. Trong khi lúc đó Biden là Tổng Tư Lệnh và Bà Harris là Phó Tổng Tư Lệnh Quân Đội Mỹ và đang nắm quyền lực trong tay. Ông Trump là dân thường thì quyền hành gì mà xía vào công việc của Chính Phủ Hoa Kỳ. Ăn nói hồ đồ như vậy thì có khi nào Huấn Luyện Viên một đội bóng khi đá thua, lại đỗ thừa cho HLV TRƯỚC KHÔNG ĐỂ LẠI MỘT KẾ HOẠCH HAY KHÔNG ??? Nếu có chắc bị khán giả cho ăn gạch đá nát thây liền !!!

-Thứ 2 : Người điều hành còn hỏi về vấn đề NHẬP CƯ LẬU. Lại một lần nữa Bà Harris lại đỗ thừa là do ÔNG TRUMP DUNG TÚNG CHO NHẬP CƯ LẬU và phá bỏ kế hoạch chận đứng di dân lậu của Bà ta. Không hiểu Bà ta là MỘT CON NGƯỜI HAY MỘT CON CHÓ mà muốn tru sủa lúc nào cũng được, những con chó khôn, NÓ SỦA ĐÚNG NƠI VÀ ĐÚNG NGƯỜI, chứ không bao giờ đụng đâu sủa đó như Mụ Harris đâu !!! Kể từ ngày Biden - Harris lên nắm quyền thì số người nhập cư lậu tràn vào Nước Mỹ trên 12 triệu. Việc nầy do ai gây ra ??? Cả Thế Giới và ngay cả đứa con nít cũng thấy. Thế mà Mụ ta lại HỒ ĐỒ TRƠ TRẺN KHÔNG BIẾT XẤU HỔ VÀ NHỤC NHÃ lại đỗ thừa cho ông Trump. Đúng là còn ngang ngược tệ lậu hơn những người HÀNG TÔM HÀNG CÁ NGOÀI CHỢ !!!

Chắc ai cũng biết Chính Quyền TB Texas cho DỰNG HÀNG RÀO KẼM GAI để ngăn di dân lậu. Thì Biden - Harris điều Vệ Binh Quốc Gia đến Texas ĐỂ PHÁ BỎ RA. Rõ ràng chưa Quí Vị??? Thế mà Mụ Harris lại hồ đồ ngang ngược đỗ thừa cho Ông Trump !!! Hơn nữa trách nhiệm của Mụ Harris là chịu trách nhiệm về Biên Giới mà người ta gọi là SA HOÀNG BIÊN GIỚI. Thế mà Mụ ta còn đỗ thừa. Hết thuốc chữa !!!

Và đây mới là HAI CÔNG VIỆC VÀ KẾ HOẠCH THẬT LÀ TUYỆT VỜI mà ông Trump đã để lại. Nhưng chính Biden - Harris khi lên nắm quyền ĐÃ CHẬN ĐỨNG VÀ PHÁ BỎ. Đó là bức tường biên giới đang xây dang dở, THAY VÌ TIẾP TỤC LÀM nhưng Biden và Harris cho chở vật tư ĐEM ĐI HẾT VÀ NGƯNG XÂY. Kế hoạch khoan dầu của Ông Trump, lúc đó Nước Mỹ DƯ XÀI VÀ CÒN BÁN RA NƯỚC NGOÀI, nhưng Biden - Harris cho ngưng tất cả, làm cho Nước Mỹ THIẾU DẦU TRẦM TRỌNG, đến nổi Bảy đần phải bay qua Saudi Arabia năn nỉ nước nầy tăng sản lượng khoan dầu. Nhưng bị từ chối, Biden vác mặt về không MỘT CÁCH NHỤC NHÃ Ê CHỀ !!!

-Thứ 3 : Nước Mỹ từ ngày Lập Quốc đến giờ là một Nước gương mẫu trong vấn đề TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ NHÂN QUYỀN. Luôn lên án những Nước vi phạm Nhân Quyền, nhưng kỳ hầu Tòa của Ông Trump vừa rồi, TÒA ÁN CẤM ÔNG TRUMP KHÔNG ĐƯỢC NÓI, còn độc tài chuyên chế hơn thời Phong Kiến. Rồi đây nếu Mụ Harris thắng, MỤ TA SẼ CHO MỞ TOANG CỬA BIÊN GIỚI cho dòng người nhập cư lậu tràn vào, tiếp theo CẤP QUYỀN CÔNG DÂN để họ được đi bầu. Lúc đó coi như tà quyền csDC nắm quyền cai trị Nước Mỹ vĩnh viễn.

Cho nên đây là CUỘC CHIẾN CUỐI CÙNG một mất một còn và cũng là CUỘC BẦU CỬ CUỐI CÙNG NẾU ÔNG TRUMP THUA Nước Mỹ sẽ độc tài và sụp đỗ. Cho nên bây giờ xin Quí Bà Con YÊU CHUỘNG TỰ DO VÀ DÂN CHŨ khắp nơi hãy chịu khó đi Bầu, mỗi lá phiếu của Qui Vị là một thành trì ngăn chặn sự áp đặt một CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI ĐẢNG TRỊ của bọn tà quyền csDC !!!

- Thứ 4 : Chắc quí Vị ai cũng đã nghe Ông Trump tuyên bố 2 câu. Nếu tôi là Tổng Thống thì tôi sẽ :

1- ĐỘC TÀI NGÀY ĐẦU TIÊN là xây bức tường Biên Giới để ngăn chặn nhập cư lậu và sẽ Khoan - Khoan - Và tiếp tục khoan dầu !!!

2- Sẽ tăng 200% thuế đối với xe Ôtô của Tàu cộng. Nếu không thì nghành công nghiệp xe Ôtô của Mỹ SẼ ĐỖ MÁU, Tức là Tàu sẽ bán phá giá và nghành sản xuất xe Ôtô của Mỹ sẽ ế ẫm và phá sản. Lúc đó mọi người sẽ thất nghiệp.

Chỉ có thế mà bọn truyền thông THỔ TẢ BẤT LƯƠNG cùng với đám truyền thông VIỆT GIAN CHÓ SĂN hùa nhau, không cần biết nội dung phía sau Ông Trump nói gì, mà liền chụp ngay hai từ ĐỘC TÀI VÀ ĐỔ MÁU để gán ghép cho Ông Trump là sẽ áp dụng CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI và sẽ trã thù ĐẪM MÁU. Quí Vị thấy những nhà báo như vậy có phải là BẤT LƯƠNG VÀ VÔ NHÂN TÍNH HAY KHÔNG ???

- Thứ 5 : Đây là những sự độc tài của bọn tà quyền csDC Biden - Harris không thua kém gì so với bọn cộng sản. Một Nhà Báo chuẫn bị đưa ra bằng chứng về sự THÔNG ĐỒNG VÀ ĐƯA RA CÂU HỎI TRƯỚC của ABC News cho Mụ Harris trong cuộc tranh luận giữa Ông Trump và Mụ Harris. Liền bị ám sát để bịt miệng một cách DÃ MAN HÈN HẠ VÀ VÔ NHÂN TÍNH. 


Lộ bằng chứng phạm TỘI ÁC TÀY TRỜI trong cuộc tranh luận Kamala Harris lệnh TH.Ủ TIÊU người tố giác

Trong thời gian Mụ Harris làm Thẫm Phán, Mụ có xử một anh Mỹ da màu, mặc dù có nhiều bằng chứng là anh vô tội. Nhưng Mụ Harris vẫn ra Phán quyết xử anh ta có tội và giam vào tù. Mới đây người ta xét lại thấy anh vô tội và được tha bổng với số tiền bồi thường cho anh ta là 3 triệu USD.

Qúi vị có thấy trên Thế giới có vụ án nào mà KHÔNG CÓ NGƯỜI BỊ HẠI HAY KHÔNG ??? Nhưng tại Mỹ, một Nước được mệnh danh là Tự Do và Dân Chũ nhất, thì lại có. Đó là vụ án của Ông Trump bị Tòa buộc tội là KHAI MAN TÀI SẢN ĐỂ VAY TIỀN, trong khi Ông Giám Đốc Ngân hàng thì tuyên bố là ÔNG TRUMP VAY HỢP LỆ. Mà có hợp lệ hay không hợp lệ, đó là sự thỏa thuận làm ăn giữa Ngân Hàng và Ông Trump, CÓ MẮC MỚ VÀ DÍNH DÁNG gì đến Chính Quyền và Tòa Án đâu mà đem ông ra Tòa ??? Vô lý hết sức, thế mà Nước Mỹ của Biden - Harris đang cai trị lại có !!! Có thể nói, đây là VỤ ÁN ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ mà từ xưa đến giờ mới có !!!

Tóm lại : Trên đây là những sự ĐỘC TÀI PHÁT XÍT của Mụ Harris. Đây là những việc điễn hình, ngoài ra còn rất nhiều nhưng không thể đưa ra hết. Còn những ai là TAY SAI CHO VIỆT CỘNG VÀ TÀU CỘNG hùa theo bọn tà quyền csDC chụp mũ ông Trump LÀ ĐỘC TÀI trong thời gian Ông làm Tổng Thống. Thì hãy đưa ra bằng chứng đi !!! Nếu không đưa ra được mà chỉ biết hùa tru sủa như Mụ Harris, đó là hạng người VÔ VĂN HÓA, VÔ GIÁO DỤC VÀ KHÔNG CÒN TÍNH NGƯỜI !!!

Xin Quí Bà Con hãy tin tưỡng CHÍNH NGHĨA LUÔN CHIẾN THẮNG BẠO TÀN !!!

Lê văn Hoàng

Why Did They Silence Nikola Tesla? The Shocking Truth




Đoạn Kết Câu Chuyện Cạm Bẫy Tình Yêu


Đoạn Kết Câu Chuyện Cạm Bẫy Tình Yêu

Phó Tế Nguyễn Mạnh San

Mới đây tác giả đã viết lại câu chuyện mối tình đầu tan vỡ của chị nữ tu Theresa mà đã được Nhà Dòng của chị ở VN cho phép chị ra ngoài lập gia đình với một người đàn ông độc thân ngoan đạo. Nhưng ông này thuộc hạng người keo kiệt, bủn xỉn, bần tiện đếm lu nước mắm tính củ dưa hành, chỉ biết yêu tiền trên hết mọi sự không biết thương yêu vợ.

Sau hơn 1 năm chung sống với nhau là vợ chồng, chị Theresa không thể nào chịu đựng nổi tình trạng chồng chị đối xử với chị như là một kẻ nô lệ tình dục cho chồng "Cơm No Bò Cưỡi" nên chị đành phải nhất quyết nạp đơn xin ly dị chồng trước tòa án và dù có bị chính quyền Hoa Kỳ trục xuất trả về nguyên quán VN đi chăng nữa, thì chị cũng sẵn lòng gánh chịu hậu quả không tốt đẹp này. Vì theo luật di trú Hoa Kỳ quy định nếu lấy nhau chưa đủ 2 năm chung sống với nhau, mà ly dị nhau mà một trong hai người không phải công dân Hoa Kỳ thì Có Thể bị trục xuất trả về nguyên quán vì Bị Coi là 2 người giả vờ (Pretend) lấy nhau để người vợ hay chồng không có quốc tịch được quyền ở lại Hoa Kỳ, chờ đợi tới thời gian vừa đủ 2 năm sẽ được cấp phát thẻ thường trú thực thụ 10 năm.

Nhưng quan trọng hơn thế nữa, đối với đời sống tâm linh theo đạo Công Giáo không cho phép ly dị, mà trong khi chị lại là nữ tu đã khấn trọn đời trung thành với Chúa, thì lại càng không nên ly dị chồng. Tuy nhiên chị tin tưởng Chúa là vị nhân từ nhân hậu vô cùng, Ngài sẽ tha thứ mọi tội lỗi của con người vì lòng yếu đuối dễ sa ngã tội lỗi trên thế gian này; nhưng miễn sao người phạm tội phải biết ăn năn sám hối, xin thề hứa sẽ không tái phạm tội lỗi nữa.

Thế rồi sau hơn một năm nạp đơn xin ly dị tại tòa, chị đã nhận được bản án ly dị của tòa án gửi tới và tiếp theo sau khi Sở Di Trú phỏng vấn chị, chị cũng được nơi đây cấp phát cho thẻ thường trú thực thụ 10 năm vì sau kết quả của cuộc điều tra của Sở Di Trú xác nhận đơn tố cáo của chồng chị để yêu cầu trục xuất chị trả về VN vì chị đã giả vờ lấy anh làm chồng, để được quyền ở lại Hoa Kỳ thì hoàn toàn sai sự thật 100%.

Nói tóm lại sau khi mọi thủ tục giấy tờ pháp lý đã được hoàn tất đầy đủ, chị liền gửi đơn xin nhập vào một Dòng Nữ Tu Kín Carmelite ở Hoa Kỳ và không đầy 4 tháng sau, chị nhận được thư báo tin cho biết đơn xin của chị được nhà dòng chấp thuận. Chị Theresa nhận được tin mừng này làm cho tâm hồn chị quá sung sướng đến nỗi vài ngày lẫn đêm chị chẳng cảm thấy đói bụng hay mệt mỏi thân xác tí nào và chị cũng không bao giờ có thể quên được chị đã phạm tội với Chúa 2 lần liên tiếp từ bỏ lời thề trọn đời với Chúa.

Lần thứ nhất chị đã không giữ trọn lời thề với Chúa sẽ là nữ tu trung thành đời đời với Chúa trong tu viện, nhưng chị đã cởi bỏ áo nữ tu ra ngoài đời lập gia đình. Lần thứ nhì chị cũng lại không giữ trọn lời thề trong Thánh Lễ hôn phối của chị trước mặt Chúa với chồng là: Em sẽ thương yêu anh đến suốt cuộc đời em. Nhưng bây giờ chị đã tự bỏ chồng. Thôi! còn có gì để mà nói nữa. Thế mà sau này Chúa vẫn tha thứ 2 lần phản bội lời thề với Chúa vừa kể trên đây, cho phép chị được quay trở về làm nữ tôi tớ của Ngài để tiếp tục phục vụ tha nhân như Ngài hằng mong muốn.

Hiện nay được biết chị đang phục vụ trong tu viện dòng kín Carmelite Convent này ở một tiểu bang Hoa Kỳ nhưng không được phép tiếp xúc với bất cứ một ai bên ngoài, dù là người họ hàng thân thuộc trong gia đình. Hàng ngày ngoài những giờ kinh nguyện tập thể trong tu viện, chị theresa đươc giao cho trọng trách phụ làm bánh bột mì mình thánh Chúa để giao cho các Nhà Thờ trong giáo phận, cộng thêm với đôi bàn tay khéo léo thủ công nghệ của chị, chị đã làm những món đồ chơi con nít (baby toy) trông rất đẹp, để giao cho 2 cửa tiệm bán đồ chơi con nít trong 2 trung tâm thương mại lớn trong thành phố. Do đó chị đã góp phần đem lại cho Nhà Dòng thêm một nguồn lợi tức hàng tháng đáng kể mà chị đang đảm nhiệm thêm công việc nay hàng ngày trong Nhà Dòng hiện nay.

Nhưng chị cảm thấy rất sung sướng tràn đầy niềm hạnh phúc trong tâm hồn vì được tiếp tục phục vụ Thiên Chúa qua một môi trường hoạt động hiện tại hoàn toàn khác biệt với môi trường hoạt động trước kia của chị tại tu viện cũ ở VN, là chỉ cần cố gắng ăn nói sao cho hấp dẫn trước công chúng để gây quỹ tài chánh cho Nhà Dòng được thành công tại quốc ngoại (Oversea Missionary Nun For Raising Fund) để đem về tài chánh cho Nhà Dòng tại quê nhà nuôi dưỡng các em nữ chủng sinh đang tu học ăn ở nội trú trong dòng. .

Mới cách đây vài tháng, vì tác giả bài viết đã từng hướng dẫn vấn đề pháp lý về luật di trú cho trường hợp của chị nữ tu Theresa với sở Di Trú Hoa Kỳ. Nên chị đã điện thoại báo tin cho tác giả biết hiện nay chị là một nữ tu chính thức đã khấn trọn đời thuộc một dòng tu kín Hoa Kỳ (Carmelite Convent). Chị đã được Mẹ Bề Trên dòng này tin cậy và được các chị em nữ tu trong dòng quý mến, nể phục chị như người chị cả trong một đại gia dình chị em nữ tu sống thuận hòa với nhau trong cùng một nhà. Rồi một hôm, Mẹ Bề Trên gọi chị vào một căn phòng riêng biệt gặp Mẹ Bề Trên để nghe Mẹ kể lại một sự việc mới xảy ra có liên hệ mật thiết với chị Theresa như sau.

Mới đây có một người khách lạ đến văn phòng nhà dòng, tự giới thiệu với nhân viên văn phòng tên ông là Thương nói là chồng cũ của nữ tu Theresa đang tu tại đây, xin cho phép được gặp mặt Mẹ Bề Trên nhà dòng, để thuật lại cho Mẹ Bề Trên ghe về một phép lạ (A Miracle) xảy ra cho ông sau khi ông được biết tin chị Theresa được chấp nhận quay trở về làm nữ tu tại nhà dòng Carmelite này. Vì hiểu rõ luật lệ dòng tu kín rất nghiêm khắc, không cho phép người bên ngoài được quyền gặp mặt các nữ tu, ngay cả những thân nhân trong gia đình của nữ tu cũng khó được gặp mặt ngoài lý do đặc biệt mới được phép gặp mặt. Nhưng trong trưòng hợp này, với một mục đích duy nhất là ông chỉ muốn xin được gặp Mẹ Bề Trên để ông được thuật lại câu chuyện phép lạ này cho Mẹ Bề Trên nghe, để yêu cầu Mẹ Bề Trên hãy thuật lại phép lạ này cho chị Theresa biết phép lạ này mà thôi, chứ trước mặt Chúa ông hoàn toàn không hề có một mưu đồ gì khác.

Tin cậy vào lời yêu cầu này của ông với lý do rõ rệt mà ông đã nói với nhân tiếp tân trong tu viện biết và trước khi chấp thuận lời yêu cầu này của ông, liền ngay sau đó Mẹ Bề Trên hỏi ý kiến với chị Theresa xem chị có đồng ý để Bà gặp ông Thương không? Chị Theresa hoàn toàn đồng ý. 

Một tuần lễ sau theo đúng hẹn, ông đến gặp Mẹ Bề Trên tại phòng khách và để mở đầu câu chuyện trước khi ông kể lại chi tiết cho Mẹ Bề Trên nghe phép lạ xảy ra với ông sau khi ông biết tin chị Therasa được phép chấp thuận trở về làm nữ tu kín trong Tu Viện Carmelite này, ông nhận thấy không cần thiết phải kể lại nguyên do tại sao chị Theresa ly dị ông vì sự đối xử quá sức tệ bạc làm chồng của ông với chị, mà chắc chắn Mẹ Bề Trên cũng đã biết hết rồi. 

Kể từ ngày chị Theresa trở lại là nữ tu của Chúa trong dòng Carmelite này đã làm cho những tính say mê tật xấu như ich kỷ, tham lam tiền bạc tài sản của ông trên hết mọi sự thì nay không còn nữa. Ông chỉ biết dốc hết thì giờ làm việc bác ái để giúp đỡ trực tiếp cho những người tàn tật, đau yếu, nghèo khổ ngoài xã hội đang cần sự giúp đỡ của mọi người, mà nay trong lòng ông mới cảm thấy thật sự sung sướng hạnh phúc biết bao. Vì ông nhận ra rằng chì vì quá mê say tiền bạc trước kia của ông mà chị Theresa đã phải ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng hết nổi nên chị đành phải ly dị ông. Do đó giờ đây ông chỉ biết tình nguyện đi làm những công tác từ thiện để đền bù vào những lỗi lầm trước kia của ông và xin Chúa tha tội cho ông. Nay ông mới hiểu rõ tiền rừng bạc biển cũng không thể nào đem lại hạnh phúc trường cửu cho con người trên thế gian này được.

Sau khi chị Theresa được nghe lại Mẹ Bề Trên kể lại chuyện ông Thương tâm sự cho Mẹ Bề Trên nghe, trong lòng chị Theresa không hề xao xuyến hay luyến tiếc cho mối tình đầu tan vỡ giữa chị với ông Thương xưa kia, trái lại chị lại cảm thấy rất biết ơn ông đã cho chị có dịp ăn năn sám hối tội lỗi của chị là đã từ bỏ 2 lần lời thề hứa trung thành với Chúa, thì nay Ngài đã tha tội cho chị để chị được phép quay trở về với Ngài, tiếp tục giúp đỡ tha nhân như Ngài hằng mong muốn và cũng vì hành vi của chị ly dị chồng là anh Thương, thì nay cũng gián tiếp giúp anh Thương biết từ bỏ nết hư tật xấu của anh để trở thành con cái yêu quý của Chúa.

Hơn thế nữa đối với riêng chị Theresa, giờ đây trong lòng chị mới cảm thấy thấm thía, thấu hiểu được câu nói ý nghĩa thâm sâu của các bậc tiền nhân để lại cho con cháu noi theo câu nói: Tu Là Cõi Phúc Tình Là Dây Oan.

Phó Tế Nguyễn Mạnh San
Cạm bẫy Tình Yêu (A Trap of Love)

Cạm bẫy Tình Yêu (A Trap of Love)

Phó Tế Nguyễn Mạnh San

Tôn Giáo, Luật Pháp và Tình Yêu con người để so sánh với Xã Hội Chủ Nghĩa Độc Tài Cộng Sản

Đã là loài người hay ngay cả loài vật được Thượng Đế hay Thiên Chúa tạo dựng trên trái đất này, đều ban cho loài người hay cho loài vật một trí óc biết yêu thương lẫn nhau, con người với con người, loài vật với loài vật hoặc con người với loài vật hay ngược lại loài vật với con người đều biết thương yêu nhau; ngoại trừ người cộng sản vô thần được tẩy não trí tuệ và được giáo dục từ lúc còn là những trẻ thơ vô tội, để sau này khi các em bé khôn lớn, các em chỉ biết yêu mến đảng trên hết mọi sự và được rèn luyện ý chí sắt đá là phục vụ cho một thể chế xã hội chủ nghĩa độc tài đảng trị.

Để nói có sách mách có chứng, nếu ai có người nhà hay bà con xa gần với những cựu tù nhân chính trị cộng sản hay còn được gọi biệt danh là cựu tù nhân HO, xin cứ hỏi các quý vị này, thì sẽ hiểu rõ thêm thế nào là người cộng sản và chỉ có người cộng sản là những đứa con yêu quý nhất đời của Bác Hồ mến yêu trên khắp đất nước Việt Nam hiện nay.

Mục đích chính yếu nội dung bài viết này, chúng tôi chỉ muốn trình bầy về tình yêu trai gái của người quốc gia, có lương tâm, có lòng nhân ái, có tình người, không phân biệt tôn giáo hay giai cấp trong một xã hội tự do dân chủ, và mọi người đều tin có Thượng Đế hay Thiên Chúa là đấng tối cao tạo dựng nên con người và vạn vật, để cho mọi người sống trong một xã hội loài người, biết thương yêu nhau, biết kính trọng nhau, biết điều nào thiện nên làm, biết điều nào ác nên tránh, nhưng vì sự tham lam và ích kỷ của thiểu số người vô lương tâm, sau khi thành vợ thành chồng, một bên thật tình yêu thương, còn một bên chỉ muốn lừa dối tình cảm, lợi dụng tình yêu chân thật của người yêu thương mình, kết quả đưa đến tình yêu tan vỡ, một bên trong hối hận, vì đã lỡ yêu lầm người và một bên hận thù vì lòng tham lam và sự ích kỷ của mình chưa đạt được sự thỏa mãn tối đa, không đáp ứng đầy đủ cho lòng vị kỷ mong đợi của mình, như câu chuyện tình yêu của một bên đáng thương tâm và một bên đáng bị khinh bỉ dưới đây.

Một nữ tu nhập Nhà Dòng tu từ lúc mới 15 tuổi và chị nữ tu này đã khấn trọn đời (taking her eternal vow) cho tới khi chị 24 tuổi. Chị nữ tu này là một người rất thông minh, tài giỏi lại có nhan sắc, tính tình hiền hòa, giọng nói dịu dàng ngọt ngào, nên bất cứ ai già, trẻ, lớn, bé nếu có dịp tiếp xúc với chị, đều rất quý mến chị, coi chị như người thân thương trong gia đình. Sau khi chị học xong bậc trung học, Mẹ Bề Trên Nhà Dòng gửi chị đi du học tại Hoa Kỳ và sau khi chị học xong 4 năm tại một đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ, chị thi đậu ưu hạng văn bằng Cử Nhân Xã Hội Học (Bachelor of Arts in Sociology) và nhà trường thấy chị học giỏi nên cấp cho chị học bổng toàn phần, mà chị chỉ cần học thêm 2 năm nữa để lấy văn bằng Cao Học Xã Hội Học (Master of Arts in Sociology).

Sau khi đã tốt nghiệp bằng Cao Học, chị quay trở về nước để phục vụ cho Nhà Dòng và những năm sau này chị được Mẹ Bề Trên tin cậy, trao cho chị nhiệm vụ tối quan trọng là làm kinh tài cho Nhà Dòng. Như đã nói trên đây, chị là một nữ tu tài giỏi, vừa có nhan sắc lại vừa có khoa ăn nói trước công chúng, nên Nhà Dòng đề cử chị sang Hoa Kỳ mỗi năm ít nhất 2 lần, để quyên tiền về cho Nhà Dòng có đủ lợi tức tiếp tục nuôi dưỡng các em nữ đệ tử tại Việt Nam và lần nào chị đi lạc quyên, đều đem về kết quả thành công mỹ mãn cho Nhà Dòng.

Nhưng lần này, chị sang Hoa Kỳ cách đây khoảng hơn 2 năm, cũng với mục đích lạc quyên gây quỹ cho Nhà Dòng như mọi lần, thì chẳng may có một biến chuyển được coi là điều bất hạnh to tát nhất, như một trái bom khủng bố nổ tung trong Nhà Dòng và làm cho sự tin cậy của Nhà Dòng hoàn toàn phó thác trách nhiệm từ bao nhiêu năm trước đây cho chị, Mẹ Bề Trên đành phải chấm dứt nhiệm vụ của chị, cùng lúc uy tín cá nhân của chị cũng tan thành mây khói, không những đối với tất cả các nữ tu trong Nhà Dòng, mà còn đối cả với những người bạn bè thân thuộc từng hâm mộ tài năng của chị nữa; chỉ vì lần này chị sang Hoa Kỳ, chẳng khác gì như con nai vàng ngơ ngác, bị rơi vào cạm bẫy tình yêu lần đầu chị mới biết yêu và cũng là lần cuối chị bị tan nát cõi lòng trinh trắng, vướng mắc bụi đời ô uế trần tục, mà đã biết bao nhiêu năm chị được coi là đóa hoa trinh nữ hương thơm ngát, nay chỉ còn là bông hoa lòng tàn tạ theo tháng ngày.

Ngay lập tức, chị quyết định phải xa lánh tình yêu gian dối này bằng mọi cách mọi giá, trong những ngày còn lại của cuộc đời chị trên thế gian đen bạc này và đây cùng là lần cuối duy nhất chị cương quyết sẽ tiếp tục cuộc sống tu trì ngoài đời hay vào tu trong bất cứ Dòng nữ tu nào nhận chị, vì chị tiên đoán rằng, không thể nào chị được phép quay trở về lại Nhà Dòng cũ của chị trước đây nữa, mà chị đã hết lòng trân quý, ôm ấp trong lòng chị mấy chục năm qua, để nay tự mình bị tình yêu trai gái cám dỗ, bội ước lời thề dâng mình cho Chúa, nên chị phải ôm lấy vết thương lòng sầu tủi, trong niềm ân hận vô biên, biết đến bao giờ mới có thể hồi phục lại được tâm hồn bình an và niềm hạnh phúc tràn trề trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa như trước đây, mà chị đã trải qua liên tục nhiều năm tháng dài, khi chị còn là nữ tu trong Nhà Dòng ở Việt Nam.

Người ta thường nói: Ma đưa lối quỷ đưa đường, cứ tìm những nỗi đoạn trường mà đi.

Nhưng thực ra câu nói này hoàn toàn không thể đem áp dụng vào hoàn cảnh của chị được. Vì trong tất cả những lần chị sang Hoa Kỳ, để thực thi công tác do Mẹ Bề Trên Nhà Dòng giao phó cho chị, như đã kể trên đây, chị luôn luôn hoàn thành công tác hết sức tốt đẹp, trong nhiệm vụ kinh tài đã được Nhà Dòng tin cậy giao phó trong bao nhiêu năm qua. Chị hồi tưởng lại, cứ mỗi lần chị sang Hoa Kỳ gây quỹ cho Nhà Dòng, đều có sẵn một số các anh chị em tình nguyện viên cho Nhà Dòng tại từng địa phương, sẵn sàng đứng ra tổ chức các buổi họp mặt bà con bạn bè đến nghe chị thuyết trình, về mục đích chính của buổi gây quỹ tài chánh cho Nhà Dòng ngày.

Nhờ vào tài ăn nói hoạt bát và giọng nói ngọt ngào dễ thương của chị, nên mỗi lần hội họp các bà con cô bác đến nghe chị thuyết trình, đều quy tụ được rất đông người đến tham dự; còn về phương tiện giúp chị di chuyển từ nơi tạm trú của chị, cho đến nơi chị thuyết trình hoặc ngược lại, thì cứ mỗi lần như thế, ít nhất có từ hai cho đến ba người tình nguyện ngồi chung một xe đến đưa đón chị. Nên mọi chuyện đều êm xuôi tốt đẹp, không hề có chuyện gì dính líu đến vấn đề tình cảm đáng tiếc xảy ra cho chị.

Nhưng riêng lần này, trong số những tham dự viên, chị được Ban Tổ Chức buổi họp giới thiệu với chị một người đàn ông tên Thương, chạc 60 tuổi còn độc thân, ăn nói rất lịch thiệp, tỏ ra ông thuộc hàng trí thức. ông cho chị biết ông quen rất nhiều thương gia ở địa phương này và để chứng tỏ những lời ông nói với chị là đúng sự thật, ít ngày sau ông tình nguyện lái xe đến đón chị để giới thiệu cho chị gặp vài vị thương gia quen biết ông và nhận thấy chị làm việc bác ái cho một Dòng Nữ Tu ở Việt Nam, nên họ sẵn lòng ủng hộ chương trình gây quỹ tài chánh của chị cho Nhà Dòng, bằng cách cùng nhau hợp tác, gom góp tiền bạc theo thiện chí và khả năng tài chánh của mỗi người, hàng năm gửi tặng cho Nhà Dòng một số tiền khá lớn, được Nhà Dòng tri ân là những vị mạnh thường quân thường trực của Nhà Dòng.

Vì thế, đã nhiều lần ông lái xe một mình đến đưa đón chị đi giới thiệu với bạn bè của ông, để xin ủng hộ tài chánh cho Nhà Dòng đều không có chuyện gì khác thường xẩy ra hết, nên chị không thắc mắc lo lắng cho bản thân chị đi một mình trên xe với ông. Rồi một lần ông đến đón chị với mục đích đưa chị đi quyên tiền như mọi lần, nhưng lần này ông lợi dụng thời cơ chỉ có 2 người trong xe, ông liền ngỏ lời yêu thương chị và rất ước ao được cưới chị làm vợ, vì nhiều năm nay ông không tìm thấy ai hợp tính tình với ông như chị, nhất là chị vừa đẹp cả người lẫn nết mà lại có trình độ văn hóa cao, đó là mẫu người lý tưởng mà ông đã cố công tìm kiếm nhiều năm không thấy ai như chị, để xe duyên kết tóc với ông thành vợ chồng, thì nay chị bất thình lình xuất hiện trước mặt ông, làm cho cuộc đời ông cảm thấy sung sướng như chết đi sống lại.

Người ta thường nói: Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, quả thật đúng như thế. Chị nữ tu này sinh sống mấy chục năm trong Nhà Dòng, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện chung hàng ngày hàng đêm với các nữ tu trong Dòng, xin cho các nữ tu giữ vững niềm tin cậy vào Thiên Chúa và biết yêu thương người nghèo khổ, săn sóc người bệnh tật.

Do đó trong đời chị nay đã gần 40 tuổi đầu, chưa bao giờ chị để ý hay nghe bên tai thỏ thẻ những lời êm ái, ngọt ngào, thắm thiết tình tứ của một người nam, tỏ bày tình yêu với chị như thế này bao giờ đâu. Đúng là tiếng sét ái tình đầu tiên đánh trúng vào con tim của chị, tiếng nói yêu thương dịu ngọt phát ra từ con người bằng da bằng thịt mang tên Thương lần đầu tiên trong đời chị, làm chị quá bất ngờ xúc động, không sao cưỡng lại được những lời yêu đương của ông, đang thì thầm bên tai chị.

Nhưng chị đâu có biết rằng, ông Thương là người đã từng trải, lặn lội trong bể tình ái nhiều lần và đã làm đau khổ cho một số cô gái yêu ông. Vậy biết đâu một ngày kia, có thể chị cũng sẽ trở thành nạn nhân của ông, mà chị không hay biết gì về quá khứ của ông Thương.

Sau khi được nghe những lời đằm thắm ngọt ngào lần đầu tiên của ông Thương tỏ tình yêu chị, làm tâm hồn chị cảm thấy rung động vì chưa bao giờ chị được nghe ai tỏ tình yêu chị như thế này, nên chỉ ít lâu sau chị tỏ ý chấp nhận lời cầu hôn của ông Thương ngay.

Thế rồi chỉ vài tuần lễ sau, chị viết đơn gửi về Nhà Dòng, trước tiên là chị xin Mẹ Bề Trên hãy tha thứ những lỗi lầm của chị đã vi phạm kỷ luật nghiêm minh của một nữ tu, đã thề khấn trọn đời hy sinh, trung thành dâng mình lên Thiên Chúa; sau nữa là để giãi bày tâm sự về những nguyên do tình cảm riêng tư của chị dành cho người yêu thương chị là ông Thương, để xin Mẹ Bề Trên hãy rộng lòng chấp thuận đơn xin bãi nhiệm thiên chức thiêng liêng nữ tu của chị, mà chị đã thề khấn trọn đời dâng mình cho Chúa, thì nay xin Mẹ Bề Trên cho phép chị ra khỏi Nhà Dòng, để sống cuộc đời thường dân lập gia đình với người chị thương yêu.

Hơn 2 tháng sau chị nhận được thư của Nhà Dòng thông báo đơn xin của chị đã được Mẹ Bề Trên cứu xét và chấp thuận vô điều kiện.

Thế rồi 6 tháng sau, một Thánh Lễ Hôn Phối được cử hành cho ông Thương và chị cựu nữ tu sĩ này trở thành đôi vợ chồng trước mặt Chúa. Thánh Lễ được cử hành rất đơn sơ và trang nghiêm, chỉ có Cô Dâu và Chú Rể nhưng không có Phù Dâu và Phù Rể, do một vị Linh Mục Tuyên Úy Hoa Kỳ của trường đại học chủ tế Lễ hôn phối, trong một Nhà Nguyện nhỏ của trường đại học danh tiếng, mà Cô Dâu đã ra trường tại đại học này cách đây nhiều năm.

Có lẽ một phần vì Chú Rể và Cô Dâu đã lớn tuổi, nhất là Cô Dâu lại là cựu nữ tu sĩ, nên rất ít quan khách được mời đến dự bữa tiệc mừng ngày thành hôn của 2 người, các vị quan khách hiện diện trong bữa tiệc cưới đều là bạn bè thân thiết nhất của Cô Dâu và Chú Rể. Quả thật y như rằng, chuyện gì đến rồi cũng sẽ phải đến, có cháy nhà mới lòi ra mặt chuột, hai vợ chồng ăn ở với nhau mới được 5 tháng, thì nay chị mới hiểu là tại sao ông Thương đã sống độc thân cho đến nay 60 tuổi mới lấy vợ, vì có vài người nói cho chị biết quá khứ của chồng chị, là ông Thương đã làm khổ nhiều cô đã trót dại lỡ yêu lầm ông, chỉ vì ông có phong cách bề ngoài là một người rất lịch thiệp, trí thức và nói năng nhã nhặn, hoạt bát, lôi cuốn bất cứ ai nghe ông nói chuyện, kể cả đàn ông lẫn đàn bà đều say mê giọng nói hấp dẫn của ông.

Cũng chính vì thế, chị đã âm thầm chấp nhận lời tỏ tình yêu của ông với chị, ngay buổi ban đầu khi ông ngỏ ý muốn cưới chị làm vợ. Nhưng nếu ai có dịp ở gần ông như đôi tình nhân lâu ngày hay sống gần ông như vợ chồng rồi, thì mới biết ông là người yêu tiền hơn yêu đàn bà con gái. Chính vì không biết ông thuộc loại người như thế, nên chị đã bị mắc vào cạm bẫy tình yêu với ông Thương ngay từ lúc lần đầu, khi ông bày tỏ tình yêu ngọt ngào với chị, làm chị say mê đắm đuối như đang được nghe tiếng chim sơn ca hót líu lo trên cành vào buổi bình minh. Bây giờ đã lỡ lấy ông làm chồng rồi, chị mới hiểu ý nghĩa sâu xa của câu nói: Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra.

Tuy nhiên trong hoàn cảnh này của chị, để tự mình an ủi mình một chút, chị nhớ lại 4 câu thơ nói về tình yêu của nhà thơ Xuân Diệu, khi chị còn đang theo học ở bậc trung học, đó là: 

Yêu là chết ở trong lòng một ít, Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu: Người ta phụ, hoặc thờ ơ chẳng biết”. 

Chị không thể nào ngờ một con người trí thức, phong cách sang trọng lịch thiệp như ông Thương, chồng của chị lại có thể là một người đàn ông bần tiện, mủn xỉn, đếm lu nước mắm tính củ dưa hành, đến nỗi bao nhiêu tiền lương của chị lãnh về 2 tuần một lần, ông đều ép buộc chị phải bỏ vào trương mục chung (joint checking account) cùng với ông ở ngân hàng, nhưng cứ mỗi lần như thế, chỉ vài ngày sau, ông lại tự động rút ra một số tiền từ chương mục chung của 2 người, chuyển vào quỹ tiết kiệm (personal saving account) riêng của ông mà không có tên chị, đã thế ông chỉ cho phép chị đi chợ mua thức ăn cho 2 tuần lễ một lần, mỗi lần chỉ được quyền chi tiêu tối đa là $200 đồng, nếu tiêu quá số tiền đó một chút, về nhà thể nào cũng bị ông cằn nhằn, khiển trách chị là người hoang phí, không biết tiết kiệm tiền bạc để phòng khi đau ốm nặng, không có đủ tiền trả cho bác sĩ nhà thương và tiền nợ mua nhà, trong khi tổng số tiền chi tiêu đi chợ mua đồ nấu ăn hàng tháng cho 2 người, chồng chị và chị, chỉ tốn hết có một phần tư tổng số tiền lương hàng tháng chị kiếm được, mang về nhà nạp cho chồng, đó là chưa kể tiền lương của chồng kiếm được bao nhiêu, chị không hể biết đến từ khi chị về làm vợ ông.

Lắm lúc chị cảm thấy quá đau buồn tủi nhục, lấy phải người chồng mang tên Thương rất đáng yêu rất ý nghĩa, nhưng khổ một nỗi ông chỉ biết thương yêu tiền, chứ không biết thương yêu vợ và quả đúng như một vài người đã từng là nhân tình của ông Thương trước kia, kể lại cho chị nghe người yêu duy nhất của ông Thương là tiền, vợ chỉ là món đồ chơi cho ông thỏa mãn tình dục đòi hỏi của ông trong giây lát mà thôi hoặc cao đẹp hơn chút nữa vợ là kẻ hầu hạ ông hàng ngày hàng đêm miễn phí. Cuộc sống vợ chồng của chị với ông Thương kéo dài được hơn một năm, thì chị đành phải quyết định chia tay với ông vì chị chịu đựng hết nổi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thể kéo dài đến thế thôi, dù chị biết rằng đạo Công Giáo không cho phép vợ chồng được quyền ly dị nhau, hơn thế nữa chị còn là cựu nữ tu sĩ, đã một lần bội ước lời thề sẽ sống hy sinh trọn cuộc đời mình cho Chúa.

Nhưng thử hỏi đời sống làm vợ như thế này, thì chẳng khác gì chị đang sống trong lửa luyện tội, mà thà rằng nếu có phải sống trong lửa luyện tội ở đời sau vì tội ly dị chồng đời này, nhưng vẫn còn niềm hy vọng một thời gian sau ở lửa luyện tội, Chúa sẽ rộng lòng tha tội cho chị được hưởng hạnh phúc trên nước Thiên Đàng; đằng này biết đến bao giờ chồng chị mới có thể thay đổi tính tình biết yêu người hơn yêu tiền, vì bản tính quái dị này đã ăn sâu vào trong máu trong tim của ông mấy chục năm nay rồi, làm sao thay đổi được, nên chị không thể nào tiếp tục kiên nhẫn để chịu đựng nổi bản tính keo kiệt, hà tiện bủn xỉn của ông, chỉ biết yêu tiền hơn yêu người, như chị đã trình bày ở phần trên đây.

Rồi chuyện gì đến cũng phải đến, một hôm chị mạnh dạn nói cho chồng chị biết, là chị sẽ nhờ một luật sư nộp đơn xin ly dị ông và chị sẵn sàng chấp nhận nếu sau khi ly dị, chị có bị Sở Di Trú Hoa Kỳ trục xuất chị trả về nguyên quán, thì chị cũng đành lòng chấp nhận tuân theo luật định. Ông biết chị nói như thế không phải là chị muốn đe dọa ông đâu, mà chị sẽ làm thật, nên ông vội cất giấu thẻ Thường Trú tạm 2 năm điều kiện ở lại Hoa Kỳ của chị, nhờ vào tư cách pháp nhân chị là vợ ông (Conditional Permanent Resident Card of 2 years as his legal spouse) nên Sở Di Trú Hoa Kỳ cấp cho chị, sau khi đơn bảo trợ của chồng chị đã được đệ nộp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ cứu xét, để xin chuyển diện du lịch của chị trước kia, trở thành diện hôn thê chính thức, để được ở lại Hoa Kỳ.

Nhưng giờ đây chưa đủ 2 năm sống chung với nhau là vợ chồng, mà chị đã đòi ly dị ông, nếu thế ông sẽ tố cáo với sở di trú là chị giả vờ lấy ông làm chồng (fraud marriage), để được ở lại Hoa Kỳ hợp pháp và ông sẽ yêu cầu Sở Di Trú Hoa Kỳ trục xuất chị về VN, nếu chị vẫn còn muốn ly dị ông. Vì cái cảnh cơm no bò cưỡi của ông, lại còn được vợ tài trợ cho ông thêm tiền hàng tháng, ai mà dại dột điên khùng chấp nhận vợ ly dị. 

Nhưng thực ra chồng chị đã lầm to, ông quên rằng trước khi chị bị ông dụ dỗ vào cạm bẫy tình yêu, nghe lời đường mật của ông để bằng lòng lấy ông làm chồng, thì chị đang là một nữ tu sĩ tài giỏi của Nhà Dòng ở VN, mỗi năm chị được Mẹ Bề Trên Nhà Dòng sai đi công tác đến Hoa Kỳ ít nhất mỗi năm 2 lần, để gây quỹ lạc quyên tài chánh cho Nhà Dòng nên chị đâu có cần phải ở lại Hoa Kỳ làm gì? Nhưng nếu chị muốn ở lại Hoa Kỳ, chị vẫn có thể nạp đơn xin giấy chiếu khán (entry visa) vào Hoa Kỳ hợp pháp theo diện làm việc cho cơ quan tôn giáo (religious worker category) hay xin đi theo diện truyền giáo (religious missionary category) không có gì khó khăn hết.

Hơn thế nữa, chồng chị đã quên đi mất một điều, vợ ông là cựu sinh viên du học xuất sắc tại một trường đại học danh tiếng tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp văn bằng Cao Học (MA), vợ ông có thể nói tiếng Mỹ không lưu loát bằng ông, vì ông là cựu sinh viên du học tại đại học Hoa Kỳ đã 10 năm trước Tháng Tư Đen 1975, nhưng so sánh về bằng cấp, ông chỉ có bằng Cử nhân còn kém vợ một bậc, nên lời đe dọa này của ông, vợ ông coi như ông đem ma dọa con nít, trong khi vợ ông đâu có phải là con nít mà sợ ma.

Điều này lại càng làm cho chị bực tức thêm, đã thế chị nhất quyết đi gặp luật sư để lấy lại thẻ thường trú tạm, mà chồng chị đã cất giấu đi và đồng thời chị sẽ nhờ luật sư xúc tiến việc nộp đơn xin ly dị sớm chừng nào tốt chừng ấy. Sau khi chị đi gặp vị luật sư để trình bày tất cả chi tiết về những sự việc bất đồng giữa vợ chồng chị hơn một năm nay và chỉ còn 3 tháng nữa là đến ngày chị được Sở Di Trú Hoa Kỳ mời đi phỏng vấn, để cứu xét hồ sơ xin đổi lại thẻ thường trú tạm 2 năm của chị thành thẻ thường trú 10 năm thực thụ, thì nay chồng chị biết chắc là chị sẽ đi nhờ luật sư nộp đơn xin ly dị ông, nên ông đã cất giấu thẻ của thường trú tạm của chị. Nghe chị trình bày diễn tiến sự việc của vợ chồng chị xong, vị luật sư cho biết nếu chị đồng ý, chi phí lấy lại thẻ thường trú tạm cho chị và đến ngày chị phải đi trình diện sở di trú để cứu xét xem chị có thể đủ điều kiện đổi lấy thẻ thường trú thực thụ 10 năm hay không, luật sư sẽ là nhân chứng đi cùng chị đến sở di trú, để giúp chị trả lời những câu hỏi nào của vị Giám Khảo Di Trú (Immigration Examiner) chất vấn chị, mà chị không hiểu rõ câu hỏi, luật sư sẽ giúp chị trả lời.

Luật sư cho chị biết tổng số tiền chi phí di trú pháp lý cho vấn đề của chị sẽ là $6000 đồng, không bao gồm tiền chi phí pháp lý cho vấn đề ly dị. Chị đồng ý và nói cho luật sư biết chị chưa thể nào nạp số tiền này cho luật sư ngay bây giờ được, vì từ khi chị đi làm đến nay, tiền lương của chị lãnh 2 tuần một lần đem về, đều phải bỏ vào chương mục ngân hàng chung với chồng, nhưng tiền trong chương mục chung bao giờ cũng chỉ còn lại khoảng $600 đồng, đủ tiền để chị đi chợ mua thức ăn cho 2 tuần lễ và tiền đổ xăng cho xe chị 2 tuần một lần. Vì sau đó ít ngày, chồng chị chuyển tiền lương của ông và của chị từ chương mục chung với nhau vào chương mục riêng của ông, như đã trình bày phần trên đây.

Vậy để có đủ số tiền trả chi phí cho luật sư lo giấy tờ di trú cho chị, chị đã ngỏ lời vay mượn tiền của một số ông bà chị em trong xứ đạo quen biết chị từ bấy lâu nay, nhưng người nào cũng từ chối khéo léo không muốn cho chị mượn tiền và sau đó chị được nghe vài người nói lại cho chị biết, là sở dĩ họ không muốn cho chị mượn để trả tiền luật sư, không phải vì họ lo sợ chị không đủ tiền trả nợ cho họ sau này, nhưng vì họ trách móc chị, cho rằng chị đã là một nữ tu sĩ, khấn trong Dòng dâng mình cho Chúa chọn đời, đã ăn cơm Nhà Chúa mấy chục năm miễn phí, nay chỉ vì vấn đề tình dục đòi hỏi, chị đã bội ước lời hứa trung thành suốt đời với Chúa để đi lấy chồng, Chúa phạt cho đáng kiếp, ai mà thương được những kẻ tội lỗi như thế.

Cuối cùng chị đành phải vào gặp Cha Chánh Xứ trình bày sự việc xảy ra giữa vợ chồng chị, với hy vọng Ngài là kẻ chân tu, sẽ hiểu rõ được thế nào là tình yêu trong trắng lúc ban đầu và tình dục chỉ là phương tiện đến sau tình yêu, để hỗ trợ làm tăng thêm tình yêu giữa vợ chồng với nhau mỗi ngày mỗi trở nên khắng khít hơn, bền chặt hơn; chứ đâu phải tình yêu nào cùng là nguồn khởi thủy của tình dục như nhiều người nghĩ đâu.

Khi Cha Chánh Xứ nghe xong sự trình bày của chị, Ngài nói rất thông cảm hoàn cảnh của chị như con nai vàng ngơ ngác, bị rơi vào cạm bẫy tình yêu và số tiền chị muốn mượn Ngài, thực ra không có gì là to tát, vượt quá khả năng tài chánh của Ngài, nhưng chị nên hiểu rằng trong tư thế là một Chánh Xứ của một Xứ Đạo VN, Ngài không thể cho chị mượn tiền được, vì tai vách mạch rừng, nếu có những ai không ưa thích Ngài, mà biết được việc Ngài cho chị mượn tiền, thì chắc chắn họ sẽ dựng chuyện không tốt để bôi nhọ uy tín Ngài, mà việc này đã xảy ra vài lần trong xứ đạo VN cách đây mấy năm.

Tuy nhiên vấn đề của chị, tôi vẫn có thể giúp chị một cách gián tiếp để giới thiệu cho chị một Phó Tế Vĩnh Viễn (Permanent Deacon) đã có trên 32 năm kinh nghiệm về Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ (US Immigration & Naturalization) cho Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ (US District Court), sẽ tư vấn hoàn toàn miễn phí cho chị. Ngay sau đó, chị liên lạc với chúng tôi, nhờ chúng tôi tư vấn cho chị trong vấn đề chị gặp rắc rối với chồng của chị về vấn đề di trú Hoa Kỳ. Sau khi chúng tôi nghe chị trình bày câu chuyện xảy ra cho chị, đúng như các chi tiết đã được kể lại theo thứ tự từng đoạn trên đây trong bài viết này, chúng tôi giải thích cho chị hiểu rõ vài điều luật tổng quát về bộ luật hình sự Hoa Kỳ, có liên quan đến trường hợp của chị như sau:

* Theo luật hình sự Hoa Kỳ của liên bang hay của tiểu bang, đều cấm bất cứ ai không được ép buộc (Coercion) người này phải bỏ tiền của mình vào chung với chương mục ngân hàng của người khác (Compelling someone to deposit her or his money into someone’s joint account), hăm dọa đòi trục xuất người ta về nguyên quán của họ (Threaten anyone to be deported to her or his original country), cất giấu bất cứ giấy tờ hợp pháp như thẻ thường trú (Hiding any legal papers as conditional permanent resident card) của người khác làm cho người ta bị mất tinh thần, lo sợ đều có thể bị truy tố ra tòa theo tội hình sự (Criminal), hoặc lạm dụng sức lao động của người khác làm kẻ hầu hạ mình như đầy tớ trong nhà (Labor abuse to someone for a servant at home).

* Theo những điều khoản vi phạm được liệt kê trên đây, có liên hệ đến tình trạng của chị như chị đã trình bày cho chúng tôi nghe, chúng tôi khuyên chị hãy lấy hẹn trên online càng sớm càng tốt với Sở Di Trú Hoa Kỳ, để xin gặp vị Giám Khảo Di Trú Hoa Kỳ (US Immigration Examiner) và trình bày minh bạch tất cả mọi sự việc xảy ra cho họ nghe, chúng tôi tin chắc sự việc của chị sẽ được vị Giám Khảo giải quyết tốt đẹp mà chị không cần phải nhờ đến luật sư, vì chị có thừa khả năng Anh Ngữ để nói chuyện trực tiếp với vị giám khảo.

* Rất nhiều người có thẻ thường trú được phép cư trú hợp pháp tạm thời 2 năm tại Hoa Kỳ và khi thời gian tạm trú đủ 2 năm, thì có quyền nộp đơn với Sở Di Trú Hoa Kỳ, để xin cứu xét đổi thẻ tạm trú 2 năm thành thẻ thường trú thực thụ 10 năm. Nhưng nếu vì lý do gì bất hòa giữa vợ chồng, nộp đơn xin ly dị chồng hay vợ trước thời gian 2 năm tạm trú, thì người vợ hay người chồng đó tin rằng sẽ bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ để bị trả về nguyên quán. Điều này hoàn toàn không đúng trên thực tế, vì chiếu theo các điều khoản đã ghi rõ trong bản nội quy pháp luật của tiểu bang Oklahoma nói riêng (under a Human Trafficking Procecution, Oklahoma Statutes Citationized, Title 21. Crimes and Punishments, Section 748) và các điều khoản nội qui tương tự như vậy đối với Luật Liên Bang (Federal Law) hay các tiểu bang khác cùng thế (Human Trafficking, also kown as trafficking in persons “TIP”, is a modern-day form of slavery. It is a crime under federal and international law; it is also a crime in every state in the United States.) Vì nếu một trong 2 người phối ngẫu đó là nạn nhân của nô lệ tình dục (victim of sexual slave), nạn nhân của bạo hành trong gia đình (victim of family violence), nạn nhân của nô lệ lao động (victim of labor slavery) v.v.., như đã đề cập trên đây, đều được pháp luật Hoa Kỳ bảo vệ tuyệt đối quyền sống bình đẳng của con người trước pháp luật, không thể nào bị trục xuất trả về nguyên quán, nếu nạn nhân có bằng chứng hiển nhiên trước phiên tòa xử án.

Đúng như chúng tôi dự đoán, 2 tuần lễ sau, chị báo cho chúng tôi biết, chị đã đến Sở Di Trú Hoa Kỳ để gặp vị Giám Khảo Di Trú, như chúng tôi đã tư vấn chị. Trong buổi gặp gỡ vị Giám Khảo, chị đã trình bày minh bạch mọi chi tiết sự việc xảy ra cho ông ta nghe. Ông cho chị biết mặc dầu tất cả những điều chị nói cho ông nghe, cá nhân ông hoàn toàn tin vào những gì chị nói là đúng sự thật, vì chị là cựu nữ tu sĩ, nhưng ông vẫn phải thi hành theo đúng thủ tục hành chánh pháp lý, là ông phải chuyển những lời khai của chị hôm nay cho Ban Điều Tra (Investigation Section), để nơi đây họ sẽ điều tra lại xem những gì chị nói với ông có đúng sự thật như thế không? Nếu đúng sự thật như thế, tới ngày chị được mời đến phỏng vấn, để đổi lấy thẻ thường trú thực thụ 10 năm, thì lúc đó cho dù chị đã ly dị chồng hay chưa ly dị và chồng chị có mặt hay không có mặt trong buổi phỏng vấn chị, thì sẽ không có điều gì trở ngại và chị vẫn được cứu xét để được Sở Di Trú chấp thuận cấp thẻ thường trú thực thụ 10 năm cho chị.

Vì những chứng cớ hiển nhiên sau khi Sở Di Trú đã điều tra, cho thấy chồng chị đã vi phạm những điều luật hình sự đối với vợ mình, như chúng tôi đã nêu trên đây cho chị biết trước, nên chị mới can đảm một mình dám đến trình diện Sở Di Trú, mà không cần phải mướn luật sư bênh vực cho chị. Hơn thế nữa, trong khi Sở Di Trú gửi thư yêu cầu chồng chị phải gửi trả lại thẻ di trú tạm thời 2 năm vẫn còn thời hạn của chị về Sở Di Trú, mà chồng chị đã cất giấu và trong khi chị chờ đợi nhận lại thẻ này, thì chị được cấp một thẻ thường trú thay thế tạm, chứng nhận chị là một cư dân hợp pháp tạm thời trong 3 tháng (temporarily legal alien for 3 months), thay thế thẻ cũ chưa hết hạn.

Ba tháng sau, chị đến báo tin cho chúng tôi biết, sau khi kết quả cuộc điều tra của Sở Di Trú xác nhận những điều chị khai với vị giám khảo đều đúng sự thật và tới ngày hết hạn 2 năm thường trú tạm của chị, chị nhận được giấy mời chị đến Sở Di Trú để tái phỏng vấn và để hoàn tất thủ tục đổi lấy thẻ thường trú thực thụ 10 năm cho chị; dù trong buổi phỏng vấn này, không có sự hiện diện của chồng chị vì chị đã ly dị chồng rồi. Ít lâu sau chị nhận được thẻ thường trú 10 năm do Sở Di Trú Hoa Kỳ gửi tới. Như đã đề cập ở phần đầu, chị nói đây là mối tình đầu mà cũng là mối tình cuối của cuộc đời chị và chị biết trước thế nào Nhà Dòng ở Việt Nam trước kia chị là nữ tu mấy chụ năm trong Nhà Dòng này, sẽ từ chối, không chấp nhận cho phép chị được quay trở về đời sống nữ tu trong Nhà Dòng như trước kia nữa, quả đúng như vậy.

Nhưng chị rất vui mừng là ý nguyện của chị muốn được trở về lại đời sống tu hành, để chị dành những ngày còn lại của cuộc đời chị trên thế gian này, được sống âm thầm cầu nguyện, sám hối tội bội ước lời thề trung thành dâng mình đời đời cho Chúa của chị khi chị còn là nữ tu khấn trọn đời trong Nhà Dòng, thì nay chính thức chị là thường trú nhân thực thụ tại Hoa Kỳ, đồng thời chị đã nạp đơn xin tu vào một Nhà Dòng Nữ Tu Hoa kỳ tại đây và đơn xin nhập dòng của chị đã được chấp nhận.

Trước khi chị lên đường nhập dòng tu tại Hoa Kỳ, chị muốn được ngỏ lời hết lòng cám ơn chúng tôi, về những lời tư vấn của chúng tôi, đã giúp chị đạt được kết quả tốt đẹp mỹ mãn mà không phải tốn tiền thuê luật sư, ngoài sự mong ước của chị và chị hứa sẽ cầu nguyện hàng ngày trong dòng tu, xin Thiên Chúa ban cho chúng tôi dồi dào sức khỏe, để chúng tôi tiếp tục phục vụ tha nhân theo Thánh Ý Ngài muốn.

Để tạm kết thúc câu chuyện Cạm Bẫy Tình Yêu hay còn gọi là Tình Đầu Dang Dở và Cũng Là Tình Cuối của chị cựu nữ tu sĩ này, chúng tôi nhận thấy cuộc đời của chị cựu nữ tu này, đúng như ý nghĩa của câu nói ngoài đời là “Hồng Nhan Bạc Phận”. Tuy nhiên cũng có câu nói khác ngoài đời, mang một ý nghĩa thiêng liêng cao cả hơn, thích hợp đúng với hoàn cảnh thực tế hiện tại của chị nữ tu này mong muốn, đó là “Tu Là Cõi Phúc, Tình Là Dây Oan” mà chị lại nhận được ân sủng đặc biệt của Chúa ban xuống cho chị, Ngài soi đường dẫn lối cho chị quay trở về con đường tu hành tích đức, để chị sẽ đi cho đến hết đoạn đường tu hành cuối cùng trong cuộc đời của chị trên trần gian này.

PT. Nguyễn Mạnh San


Blog Archive