Wednesday, December 3, 2025

HỒ CON RÙA - MỘT THIẾT KẾ TÁO BẠO VÀ LÃNG MẠN CỦA SÀI GÒN.. 

Cái hồ nhỏ ấy nằm buồn hiu dù nằm giữa một "khung trời đại học" lãng mạn, khi lúc ấy xung quanh nó là một số trường đại học như Luật, Y, Kiến trúc... và "con đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) cây dài bóng mát".

Cho đến giữa thập niên 1960, khu vực này bỗng như bừng tỉnh với thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Thiết kế được chọn trong cuộc thi quy hoạch mới cho một công trường rộng gần 1 ha nhưng nằm buồn hiu giữa Sài Gòn này.

Nhưng thật sự khu công trường này trở nên sống động và thành kỷ niệm khó quên của bao thế hệ người trẻ Sài Gòn khi xa thành phố là cuộc trùng tu, tôn tạo từ năm 1972.

Cụ thể là việc dựng thêm giữa hồ các cột bêtông cao vút. Trên mỗi cột là năm bàn tay xòe ra đón đỡ một nhụy hoa bêtông nhỏ và thanh mảnh bên trong.

Bên ngoài là vòng xoay giao thông, bên trong hồ cũng là một hệ thống đường đi bêtông xoắn ốc theo vòng xoay, hướng tới các trụ bêtông và một bia Bêtông ghi tên những nước công nhận Việt Nam Cộng hòa lúc ấy.

Bia ghi tên được thiết kế đặt trên một con rùa lớn bằng hợp kim đồng mà đám học trò chúng tôi khi đến đây đều leo lên cỡi và nghịch phá.

Nhiều người khi đến đây chơi cũng tranh thủ chụp hình với con rùa này.

Thế là hồ Con Rùa ra đời, dù tên gọi chính thức của nó cho đến nay vẫn là Công trường Quốc Tế. Thậm chí khi con rùa đồng không còn sau một vụ phá hoại sau năm 1975, người ta vẫn gọi đó là hồ Con Rùa - dù hồ không hề có con rùa thật lẫn rùa đồng nào.

Thỉnh thoảng cũng có bạn trẻ tinh nghịch thả rùa phóng sinh vô đó, nhưng làm sao những chú rùa tội nghiệp này có thể sống trong một cái hồ toàn bêtông và thường được làm vệ sinh.

Xin không nói những huyền thoại hư hư thực thực về long mạch, về trấn yểm của tổng thống Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, có thể nói hồ Con Rùa mà những bạn trẻ tìm đến hiện nay có một thiết kế rất táo bạo.

Trong đó ngay khi vừa ra đời 1972, công trình này từng bị la hoảng khi những con đường đi trên hồ uốn lượn mà không hề có lan can phòng chống... té hồ.

Thế nhưng từ khi đưa vào sử dụng năm 1972 đến nay, chuyện té hồ hình như chưa bao giờ là vấn nạn cần phải xem xét, dù có thể thỉnh thoảng cũng có ai đó hụt chân té xuống cái hồ... cạn sợt này.

Cùng chúng tôi đi trên các con đường bêtông nổi lát đá rửa (để bám chân - được làm rất chắc chắn, giờ vẫn vững chắc sau gần nửa thế kỷ trên mặt hồ và đội mưa nắng), kiến trúc sư trẻ Đậu Việt Đức (Công ty CP nhà Hưng An, Q.Bình Thạnh) nhận định: "Vị kiến trúc sư thiết kế nơi đây đã khéo léo dẫn dắt tầm nhìn của người đi trên các con đường xoắn ốc trên hồ đến khu trung tâm (các cột bêtông và bia rùa) nên đã ít nhiều hạn chế tai nạn té hồ".

Theo anh, "đây là thiết kế đơn giản nhưng lãng mạn một cách rất táo bạo - giữa một Sài Gòn ít nhiều chú trọng công năng, hình khối lúc ấy; nhất là thực hiện ở một khu vực dành cho bao người qua lại hằng ngày".

Và nét lãng mạn ấy với thử thách của thời gian đã được xác nhận bởi bao thế hệ bạn trẻ, học trò, người dân Sài Gòn tìm đến, nhớ về; như một trong những địa điểm đáng yêu nhất Sài Gòn.

...Như buổi sáng cuối tuần bình thường 29-10, khi chúng tôi đến đây, hàng trăm bạn trẻ đang ngồi bên nhau xung quanh và bên trong. Một gia đình trẻ cùng hai con nhỏ tung tăng bước vô. Rồi một cặp bạn trẻ đôi mắt ngời hạnh phúc bước lên khối cầu thang trên hồ chụp hình đám cưới...

Cù Mai Công ( Tác giả )

Tuesday, December 2, 2025

CẢNH BÁO ĐẶC BIỆT GỬI CÁC BẠN NỮ – ĐỌC NGAY KẺO QUÁ MUỘN


Ngoài kia đang có những câu chuyện… nghe như phim kinh dị nhưng xảy ra giữa đời thật.

Người mất tích không tìm thấy. Người sống sót trở về trong trạng thái đờ đẫn – vô thức – hoảng loạn.

Và điểm chung của họ: tất cả đều THIẾU 3 GIÂY TỈNH TÁO.

NGƯỜI LẠ BẮT CHUYỆN – NẠN NHÂN “ĐI” CHỈ VÌ 1 CÂU HỎI?
Giữa trạm bus đông người, bỗng có kẻ lạ tiến tới:
“Em ơi cho anh hỏi đường chút được không?”
Chỉ 3 giây dừng lại.
3 giây tiếp xúc hơi thở hoặc thứ gì đó trên khăn giấy, trên áo hắn.
Và bạn sẽ:
— Mắt lờ đờ
— Ý thức trượt đi
— Tay đưa ví mà không biết
— Miệng khai mọi thứ hắn hỏi
Scopolamine – loại thuốc đánh sập ý thức, khiến bạn thành con rối ngoan ngoãn. Người dính phải, tỉnh dậy không nhớ mình đã làm gì, đi đâu, gặp ai.
Ngoài đời giờ không còn “câu chuyện dọa nhau”, nó là THỰC TẾ.

“BỎ QUÊN ĐIỆN THOẠI TRONG ATM” – CÁI BẪY 3 GIÂY KHIẾN BẠN NGẤT GỤC
Kẻ xấu đứng trong buồng ATM, bấm bấm.
Thấy bạn bước vào ⇒ giả vờ hốt hoảng chạy ra:
“Anh quên điện thoại!”
Bạn tốt bụng cầm điện thoại chạy theo.
Vừa đưa tới tay là…
BÙM!
Đầu choáng váng. Chân mềm nhũn. Mọi thứ tối sầm.
Điện thoại đã được tẩm thuốc mê qua lớp vỏ — ai chạm mạnh đều hít phải.
Bạn bất tỉnh.
Hắn quay lại kéo bạn vào góc khuất, lột sạch túi ví, trang sức, xe máy.
Camera cũng có nhưng chẳng ai xem đúng lúc để cứu bạn.

ĐỨA BÉ LẠC – KỊCH BẢN BẮT CÓC NGƯỢC CỰC KỲ THÂM
Một đứa bé đeo cặp, khóc nức nở:
“Cô ơi con lạc đường…”
Bạn thương ⇒ dắt đi theo địa chỉ trên giấy.
Đang đi thì một nhóm người lao ra:
— “Mày cướp con tao à?”
— “Đồ bắt cóc!”
Họ đánh, xô, la hét.
Người xung quanh thấy cảnh phụ huynh khóc gào thì tin ngay — không ai cứu bạn.
Khi bạn còn đang ú ớ thanh minh thì…
Ví, điện thoại, cả vàng trên người đều biến mất.
Kẻ xấu phối hợp quá trơn tru, bạn không có cơ hội nào để giải thích.

VA QUẸT GIAO THÔNG – XIN LỖI, ĐÂY KHÔNG PHẢI PHIM NGÔN TÌNH
Một cú quẹt nhẹ.
Tên thanh niên mặt mũi sáng sủa, nói năng nhã nhặn:
“Để anh dẫn em ra chỗ quen sửa xe cho rẻ.”
Nghe tử tế phải không?
Nhưng cái “tử tế” đó đã đưa quá nhiều cô gái vào đường cùng.
Bạn ngồi chờ sửa xe…
Quán vắng.
Có ly nước mời “cho đỡ khát”.
Chỉ một ngụm.
Ý thức chìm xuống.
Tỉnh lại hoặc bị lột đồ, hoặc bị tấn công, hoặc không còn thứ gì trong túi.
Nhiều người còn chẳng nhớ được mình bị đưa đi đâu.

SHARE XE – ĐI NHỜ – ĐI CHUNG: CHƠI CỜ VỚI SỐ PHẬN
Một chiếc xe hơi sạch sẽ.
Tài xế ăn mặc lịch sự.
Có thêm vài hành khách nữa.
Bạn nghĩ: “Chắc an toàn.”
Nhưng chỉ cần họ là một nhóm…
Cánh cửa khóa lại, điện thoại bị giật khỏi tay, xe đánh lái khỏi tuyến đường.
Bạn không nhảy được, không kêu cứu được.
1 chuyến xe sai lầm đã biến nhiều người mất tích không dấu vết.

CON GÁI XA QUÊ – TÂM LÝ CÔ ĐƠN LÀ MỒI NGON CHO KẺ SĂN MỒI
Bạn đi làm, đi học xa nhà. Mỏi mệt, áp lực.
Một người lịch sự, dễ thương tiếp cận:
— Hỏi thăm
— Tặng đồ ăn
— Hứa giới thiệu việc nhẹ lương cao
— Nói chuyện rất tâm lý
Bạn dễ tin vì “ảnh cũng đàng hoàng mà”.
Nhưng chỉ cần đi theo 1 lần…
Không biết bạn sẽ trở về nhà, hay trở thành tin tức trên báo-

TRAI ĐẸP THANH TOÁN GIÚP – ĐỒNG TIỀN KHÔNG BAO GIỜ MIỄN PHÍ
Bạn ngồi ăn với bạn bè.
Có anh chàng bảnh bao ngồi bàn bên, ánh mắt biết cười.
Ăn xong phục vụ đưa mảnh giấy:
“Anh bàn kia gửi cho chị.”
Có khi còn để thêm bông hồng cho giống phim.
Bạn thấy rung rinh — và đó là lúc nguy hiểm nhất.
Một cuộc gặp tiếp theo là đủ để bạn tèo

GẶP BẠN TRAI MỚI QUEN – 100% CHỦ ĐỘNG CHỌN ĐỊA ĐIỂM
Dù nói hay đến đâu, dù lịch sự tới mức nào, bạn phải là người chọn chỗ.
Không uống lại ly nước đã rời mắt dù chỉ 30 giây.
Hàng trăm vụ xảy ra chỉ vì một khoảnh khắc sơ hở đó.

CHUNG CƯ BAN ĐÊM – THANG MÁY = NƠI NGUY HIỂM NHẤT
Bạn đi làm về lúc 11–12h đêm.
Trong thang máy chỉ có bạn và 1–2 người đàn ông lạ.
Đừng im lặng. Đừng cúi mặt.
Hãy giả vờ gọi điện thật lớn:
“Alo ba hả? Con vào thang máy rồi, chuẩn bị lên tới. Ba đứng trước cửa đón con nha!”
Kẻ xấu sợ bị nhận diện + sợ gặp người, chúng sẽ né ngay.
Đừng trông chờ camera. Khi chuyện xảy ra, không ai kịp cứu bạn.

SỰ THẬT LÀ: KẺ XẤU KHÔNG ĐEO MẶT NẠ. CHÚNG GIỐNG NGƯỜI TỐT NHIỀU ĐẾN MỨC KHÔNG AI PHÂN BIỆT ĐƯỢC.

Là phụ nữ, phải tỉnh táo hơn, lạnh lùng hơn, phòng thủ hơn.




THỨ QUYẾT ĐỊNH TUỔI THỌ DÀI NGẮN CỦA CON NGƯỜI NẰM Ở 4 CHỮ

Sức khỏe và tuổi thọ luôn là điều được mọi người theo đuổi nghiên cứu. Có nghiên cứu chỉ ra rằng vấn đề ‘cân bằng tâm lý’ chiếm tới 50% yếu tố ảnh hưởng tới tuổi thọ. Vì sao lại như vậy? Chúng ta cùng tìm hiểu bài viết dưới đây nhé!

Elizabeth Blackburn, người từng đoạt giải Nobel về Tâm lý học, nội dung nghiên cứu của bà có đề cập đến điểm đáng để mọi người chú ý. Đó chính là: Cân bằng tâm lý. Báo cáo nghiên cứu đã chỉ ra: Người muốn sống trăm tuổi, ăn uống hợp lý chiếm 25%, những cái khác chiếm 25%, cân bằng tâm lý chiếm 50%. Vậy vì sao nhân tố “cân bằng tâm lý” lại chiếm một nửa yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thọ? Chúng ta nên làm thế nào để đạt được điều này?

Bởi vì “hormone căng thẳng” có khả năng gây tổn hại cho cơ thể, vì vậy trước khi trị bệnh cần chữa lành “trái tim”. Nghiên cứu tâm lý đã phát hiện ra rằng khi một người tức giận thì cơ thể sản sinh ra lượng hormone gây căng thẳng đủ để giết chết chuột. Vì vậy “hormone căng thẳng” còn được gọi là “hormone độc ​​hại”.

Khi con người hạnh phúc, não của họ sẽ tiết ra những “hormone có lợi”. Các hormone có lợi sẽ làm cho con người thư giãn và cảm thấy vui vẻ, đó là trạng thái thoải mái về cả thể chất lẫn tinh thần, từ đó điều phối và cân bằng các chức năng khác nhau trong cơ thể con người và tăng cường sức khỏe.

Vậy chúng ta áp dụng nó vào thực tế như thế nào để tăng cường sức khỏe thể chất lẫn tinh thần và giúp con người sống lâu hơn? Y học hiện đại đã phát hiện ra rằng 65% đến 90% các bệnh ở con người như xơ cứng động mạch, tăng huyết áp, loét dạ dày, kinh nguyệt không đều, v.v. đều liên quan đến tâm lý cảm xúc bị đè nén. Do đó, những bệnh như vậy được gọi là bệnh tâm thân. Nếu một người cả ngày sống trong nôn nóng bất an, tức giận, căng thẳng… mức độ hormone căng thẳng duy trì ở mức cao trong thời gian dài, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ bị ức chế và phá hủy, hệ thống tim mạch cũng sẽ trở nên đặc biệt yếu đuối do phải làm việc quá sức trong thời gian dài.

Các mối quan hệ có thể còn quan trọng hơn việc bổ sung rau quả cũng như tập thể dục và kiểm tra sức khỏe thường xuyên.

“Nhân tế quan hệ” (mối quan hệ giữa người với người) là yếu tố số một quyết định tuổi thọ

Có người nói rằng, một phụ nữ nông dân ở Georgia đã sống được 132 năm 91 ngày. Khi ở tuổi 130, phóng viên từng hỏi bà bí quyết sống lâu, bà đã trả lời rằng: “Đầu tiên là gia đình hòa thuận…” Hai giáo sư tâm lý học ở Mỹ đã tiến hành nghiên cứu suốt 20 năm và phát hiện ra rằng, trong số những nhân tố quyết định ảnh hưởng đến tuổi thọ, yếu tố số một là “Mối quan hệ giữa người với người”. Họ nói rằng các mối quan hệ có thể còn quan trọng hơn việc bổ sung trái cây và rau củ cũng như tập thể dục và kiểm tra sức khỏe thường xuyên. Bốn chữ này – nhân tế quan hệ, mới là chìa khóa quyết định tuổi thọ của một người.

Con người là một quần thể sinh mệnh, tồn tại chính là sống trong mối quan hệ giữa người và người. Nhà tâm lý học Maslow đã tóm tắt 5 loại nhu cầu cuộc sống từ thấp đến cao như thế này: “nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu thể hiện bản thân”. Ngoài nhu cầu sinh lý ra, những nhu cầu còn lại đều liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Khi “nhu cầu” được thỏa mãn, con người mới có được cảm giác vui sướng hạnh phúc!

“Mục tiêu” có thể kích thích lực sống của sinh mệnh

Nghiên cứu mới cho thấy “ý thức mạnh mẽ về mục tiêu” rất tốt cho sức khỏe, bởi vì trong cuộc sống này, việc có hay không có sự truy cầu sẽ quyết định trạng thái tâm lý của một người, cuối cùng là quyết định đến tình trạng sinh lý của người đó.

Mạch máu não của những người siêng năng suy nghĩ thường ở trạng thái căng ra, từ đó duy trì khả năng hoạt động của tế bào não và ngăn chặn tình trạng não bị lão hóa sớm. Các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng khi não luôn hoạt động sẽ làm cho lượng đường glucose gửi đến những nơi cần thiết nhất trong não được nhiều hơn.

Khi nghỉ ngơi, tỷ lệ sử dụng glucose trong não của người già thấp hơn so với người trẻ, nhưng khi não được sử dụng, lượng đường glucose thu được ở những phần hoạt động mạnh nhất của não không thấp hơn so với người trẻ.

Vì vậy, hoạt động não bộ cũng có thể thúc đẩy quá trình trao đổi chất và trì hoãn lão hóa của não.
Đối xử tốt với người khác và thường xuyên làm những việc tốt giúp đỡ người sẽ sinh ra một cảm giác vui mừng, tự hào khó tả trong lòng, từ đó giảm khả năng sản sinh hormone căng thẳng và thúc đẩy tiết ra những “hormone có lợi”.

“Giúp đỡ mọi người” là liều thuốc chữa trầm cảm

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng giúp đỡ về mặt “vật chất” cho người khác có thể làm giảm tỷ suất tử vong xuống 42%; hỗ trợ tinh thần cho người khác có thể giảm tỷ suất tử vong xuống 30%.

Tại sao giúp đỡ người khác lại có tác dụng chữa bệnh? Bởi vì đối xử tốt với người khác và thường xuyên làm những việc tốt giúp đỡ người sẽ sinh ra một cảm giác vui mừng, tự hào khó tả trong lòng, từ đó giảm khả năng sản sinh hormone căng thẳng và thúc đẩy tiết ra những “hormone có lợi”.

Chuyên gia bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần cho rằng, việc dưỡng thành thói quen lấy việc giúp đỡ người khác làm vui là liều thuốc tốt nhất điều trị và ngăn ngừa bệnh trầm cảm.

“Cho đi thiện lương” là “nhận về lương thiện”

Như đã đề cập ở trên: “Mối quan hệ giữa các cá nhân là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến tuổi thọ”. Vậy chúng ta làm thế nào để tạo dựng mối quan hệ hài hòa giữa các cá nhân?

Quản Trọng nói: “Thiện khí nghênh nhân, thân như huynh đệ; ác khí nghênh nhân, hại vu qua binh”. Ý tứ rằng, mang theo thiện ý đón tiếp người thì mối quan hệ đó sẽ thân thiết như anh em, còn mang theo ác ý đón tiếp người thì mối quan hệ tiếp theo sẽ là thù địch. Mối quan hệ giữa người với người tốt hay không tốt dựa trên thiện tâm hay ác tâm. Người thiện tâm thì lời nói thiện lành. Người ác tâm thì lời nói ra chứa toàn ác ý.

Sự “cho đi thiện tâm” sẽ giúp mối quan hệ giữa người với người trở nên hài hòa hơn, như: khen ngợi, hài hước, mỉm cười, tôn trọng, lịch sự, hiền hòa, bao dung, tha thứ, quan tâm, cảm thông, trung thành, lắng nghe, v.v. Hãy luôn nhớ rằng: “Tâm trạng vui vẻ” mới là bí quyết để nâng cao tuổi thọ.

San San biên dịch
Nhạc sĩ Văn Giảng

Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương

Đây có phải lời thì thầm nhớ thương của Lạc Long Quân nhớ Âu Cơ chăng?

Quả thực đây là lý do khi nghe bài hát này lòng tôi thổn thức vì mối tình bi tráng của hai cụ Tổ ở tuổi thanh xuân khi gác tình riêng mà chia tay ra đi mở mang bời cõi…


Trân trọng cám ơn nhạc sĩ Văn Giảng

Lạc Việt

Văn Giảng và “Ai về sông Tương” 

Nhạc sĩ Văn Giảng (tức Thông Đạt, Nguyên Thông, Nguyên Đàm & Tiến Tài, Anh Phương & Nguyên Diệu) của “Ai về sông Tương”, “Hoa cài mái tóc”, “Lục quân Việt Nam”, “Mừng ngày Đản sanh”… tên là Ngô Văn Giảng, sinh năm 1924, kém ba tôi bốn tuổi. Nhưng không chỉ nhà tôi, cả xóm đều kính trọng gọi là “bác Giảng” dù khi cả nhà dọn về ở cạnh nhà tôi từ năm 1969, bác mới 45 tuổi. Ba tôi quý mến, thỉnh thoảng nói mẹ tôi sang mời bác dùng cơm trưa. Bác cười nhẹ nhàng nhận lời và ăn uống chừng mực, rất thanh nhã, điềm đạm.

1/

Chưa tới 50, tóc bác đã khá lơ thơ, nhưng da dẻ, khuôn mặt bác hồng hào đẹp lắm; cười và ăn nói luôn nhỏ nhẹ và chậm rãi, đúng một vị giáo sư khuôn mẫu. Khi ở cạnh nhà tôi, bác là giáo sư dạy nhạc ở trường Quốc gia Âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn (nay là Nhạc viện TP.HCM), hoạt động ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình Sài Gòn và soạn hòa âm cho hai hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc.

Bộ Văn hóa – Giáo dục và Thanh niên Việt Nam Cộng Hòa bổ nhiệm nhạc sĩ Văn Giảng làm trưởng Phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, phụ trách học vấn các trường âm nhạc ở Sài Gòn, Huế và Cao đẳng Mỹ thuật. Trước đó, ông là giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.

Mậu Thân 1968 nổ ra, nhiều người Huế thiệt mạng, trong đó có bạn thân của ông là Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa. Dù yêu Huế đến thắt ruột thắt gan, ông và gia đình như một số gia đình Huế khác vẫn đành phải cắn răng chia tay Huế, chia tay “Từ Đàm quê hương tôi” vô Sài Gòn.

Nói cắn răng là thật, vì trước đó, Sài Gòn từng là nơi ông tìm đến thi tú tài và tốt nghiệp cử nhân. Sau khi thi đậu Anh văn ở Hội Việt Mỹ, ông tu nghiệp âm nhạc ở Hawaii và Bloomington (Mỹ). Tốt nghiệp xuất sắc, ông được học bổng để tiếp tục nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó, về Việt Nam, ông vẫn quay trở về với Huế của mình chứ không ở Sài Gòn.

Huế vốn là nơi ông từng là giáo sư âm nhạc ở trường Hàm Nghi, Quốc học và trường sư phạm tiểu học. Khi ấy, ông mới ngoài 30 tuổi; chạy xe máy Zunndapp của Đức nổ bịch bịch, vang cả sân trường vốn yên tĩnh. Tu nghiệp về, ông được bổ nhiệm giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.

Ở Huế, ông có núi Ngự, có sông Hương, con sông mà có lần ông chia sẻ với một học trò khi nghe hỏi nghịch ngợm trên con đò Thừa Phủ: “Thưa thầy, đã có ai về sông Tương chưa ạ?”. “Đối với tôi, sông Tương là sông Hương”.

“Ai về sông Tương” của ông làm năm 1949 với cung La trưởng, uyển chuyển tha thướt như tà áo dài tím Huế mà có lẽ thanh niên nam nữ Việt cả nước thập niên 1950-1960 không ai không biết với lời nhạc ngay từ đầu đã vang lên mượt mà: “Ai có về bên bến sông Tương – Nhắn người duyên dáng tôi thương – Bao ngày ôm mối tơ vương…”.

Sáng tác xong, nhạc sĩ chép một bản gởi ra đài phát thanh toàn quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Chỉ vài hôm sau, nhạc phẩm này vang lên tha thiết trên đài Pháp Á Hà Nội qua giọng ca của nhạc sĩ-ca sĩ Mạnh Phát. Ngay lập tức, rúng động tơ lòng cả nước. “Ai về sông Tương” lập kỷ lục tái bản thời đó với sáu lần in thêm chỉ trong tháng đầu tiên; được thính giả Đài Phát thanh Pháp Á chọn là bài nhạc Việt hay nhất năm 1949.

Nhạc sĩ Lê Dinh kể:

“Trong những thập niên 1940, 1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa Huế (xin đừng lẫn lộn với nhà xuất bản Tinh Hoa miền Nam ở Sài Gòn do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc phẩm ít oi của thời đó. Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt vì một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý bảo rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng.

Nghe vậy hay vậy, không cần phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài “Ai Về sông Tương”, không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó.

(…) Sau nhiều lần được nghe bài “Ai Về Sông Tương” quá hay trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài “Ai về sông Tương” là ai không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm này nhưng Văn Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai.

Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tình cờ đến nhà Văn Giảng chơi và thấy bản thảo bài “Ai Về Sông Tương” với tuồng chữ và lối chép nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc trên bàn viết nên nói cho ông Tăng Duyệt biết.

Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng và vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể điệu Blues tha thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ những khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó”. Nhạc sĩ Văn Giảng

Nói cho ngay, tình khúc để đời này không vô tình xuất hiện đâu. Mười năm sau, 1959, ông kể với học trò Hàm Nghi của mình: Thời trai trẻ, ông ở Thành nội và yêu một cô gái ở Kim Long, vùng đất “có gái mỹ miều – Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi”. Duyên không thành vì gia đình nho phong của nàng không thiện cảm với nghệ sĩ âm nhạc, xướng ca…

Một hôm, chàng đi xem xinê ở rạp Tân Tân, gần cầu Trường Tiền, bất ngờ hàng ghế trước có một cô bé tóc dài vóc dáng, mùi hương tóc thoang thoảng mùi hoa ngâu, gợi nhớ cô bạn Kim Long xưa. Chàng bỏ suất chiếu, đạp chiếc xe đạp Dura Mercier dọc bờ sông Hương về nhà ở Thành Nội.

Dòng sông Hương như dòng sông Tương trong bài thơ “Trường tương tư” chàng vốn thuộc lòng: “Quân tại Tương giang đầu – Thiếp tại Tương giang vĩ…” (Anh ở đầu sông Tương – Em ở cuối sông Tương…). Về tới nhà, nhạc phẩm “Ai về sông Tương được chàng viết xong chỉ trong mười lăm phút.

Chàng nhạc sĩ Huế ấy lãng mạn đến như vậy đó.

2/

Trước khi quyết định mua nhà khu trung tâm Ông Tạ cạnh nhà tôi, gia đình bác Giảng mướn nhà trong một con hẻm ở đường Trương Minh Ký gần đó, vùng ven Ông Tạ, vừa ở vừa dạy nhạc. Về nhà mới, bác cũng mở lớp dạy nhiều loại đàn, luyện ca và sáng tác.

Gia đình bác Giảng có ba con trai tên (gọi ở nhà) là anh Thức (tên thật là Ngô Văn Cảnh), Hùng (bằng tuổi tôi – Ngô Văn Thành), Lộc (sau tôi hai, ba tuổi – tên thật là Ngô Văn Tài); và bốn gái: chị Oanh, chị Hoa, chị Thư, chị Trang.

Cả nhà đều mộ đạo, Phật tử rất thuần thành. Tối tối, nhà bác khép cửa. Vang nhẹ ra ngoài tiếng gõ mõ tụng kinh của hai bác ở gian phòng trong, cách gian ngoài một tấm màn. Có lần, tôi lén nhìn qua cửa sắt để tìm thằng Hùng, con bác, cùng lứa chơi đùa với tôi, thấy cả nhà bác mặc áo lam Phật tử, nghiêm cẩn tụng kinh gõ mõ thỉnh chuông, nghe như hát, hay và bình yên lắm.

Nhà bác Giảng có thể nói là nề nếp, gia phong nhất xóm Đại Lợi của tôi. Hàng xóm hiếm khi nghe ai trong nhà lớn giọng. Ai cũng ăn nói nhỏ nhẻ, chậm rãi, đi lại nhẹ nhàng. Các anh chị đều chí thú học hành. Chỉ hai thằng con trai của bác cùng lứa với trẻ con trong xóm là Hùng và Lộc hay mò ra ngoài chơi đủ trò với đám trẻ con Ông Tạ xóm tôi: đánh cù, “dích” (vít) hình, tạt lon, đá dế… Đi chơi quá giờ, bác Giảng trai vốn gương mặt hồng hào, khi giận càng hồng hơn. Nhưng cũng chỉ nghiêm mặt, nghiêm giọng gọi về.

Chị Thư học Y, sắp ra trường và lấy chồng mà có lỗi vẫn bị bác Giảng trai bắt quỳ trước cửa. Tôi he hé nhìn sang thấy chị răm rắp tuân theo, đầu cúi, mắt rân rấn nước. Sau 1975, chị Thư ra trường, là bác sĩ, mở phòng mạch ở nhà. Chị Oanh xuất gia đầu Phật, làm ni. Anh Thức chả hề bi da, cà phê cà pháo, tán láo như nhiều đám trai trong xóm…

Bác Giảng gái nhỏ thó, gương mặt hiền ơi là hiền, hay cười và cười rất lành, trang nhã. Khi nào bác trai nghiêm mặt, lớn giọng xíu là lo lo cho con, nói khe khẽ với hai con trai: “Về nhanh, ba giận”. Vậy thôi. Có lần nghe bác Giảng hơi lớn tiếng một chút, mẹ tôi bảo chúng tôi nho nhỏ: “Chúng mày chơi vừa thôi. Đừng có mà rủ rê thằng Hùng, thằng Lộc hư hỏng đầu đường xó chợ như chúng mày”.

Khi ở đây, tôi thấy bác đi làm, về nhà rất đúng giờ. Về hơn một năm, một lần, thấy bác vắng nhà khá lâu, hàng xóm hơi lạ. Mãi về sau mới biết bác là chỉ huy Đoàn Văn nghệ Việt Nam Cộng Hòa với cả trăm nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ (ban Vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban Vũ cổ truyền Đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế EXPO 70 tại Osaka, Nhật).

Tôi chơi thân với Hùng do bằng tuổi tôi, chân chất, cũng suyễn như tôi mà nặng hơn. Có lúc uống thuốc gì đó, cả người nó phù lên; bấm vô tay chân, da thịt nó lõm vô một hồi mới trồi ra lại. Lộc kém tuổi tôi, hơi láu cá, chơi bắn bi, đánh cù… mà không cảnh giác là nó… qua mắt. Chơi với nó, đố đứa nào ăn gian được.

Bà con trong xóm ai cũng biết bác là tác giả bài “Hoa cài mái tóc” rôm rả cả miền Nam lúc ấy: “Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quắc – Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình…”. Và chỉ biết vậy chứ nhà bác chẳng bao giờ nói đến. Ai khen, hai bác chỉ cười nhẹ, mắt nheo nheo gật đầu cảm ơn.

Khi bác đã về ở Ông Tạ và tuy có chức có danh nhưng kinh tế gia đình có vẻ eo hẹp. Mua nhà xong, cơ bản căn nhà một trệt một gác gỗ cũ cũng không sửa sang gì mấy, nhỏ bé và lọt thỏm trong xóm. Vô nhà bác chơi, tôi thấy đồ đạc không có gì nhiều, quý giá nhất có lẽ là chiếc tủ gỗ đặt bên một cạnh tường nhà, trên là bàn thờ Phật.

Ngôi nhà hơi hẹp, chủ cũ xây chung tường với nhà tôi. Bác về đây vài tháng, năm 1969 đúng lúc nhà tôi đập bỏ ngôi nhà ngói Tây, một trệt một gác gỗ cũ để xây nhà bê tông; bỏ tường chung, xây một tường riêng mới. Nhà tôi xây xong, bác sang bảo với ba tôi, rụt rè xin đập tường chung, nhờ tường mới của nhà tôi.

Nhà tôi vốn chiều ngang ban đầu gần năm mét, hai nhà hai bên, trong đó có nhà bác chỉ chừng hơn hai mét rưỡi. Ba tôi vốn quý bác, gật đầu liền. Thế là nhà bác rộng thêm hai tấc (20 cm). Tờ giấy cam đoan viết tay xin nhờ tường này của bác hiện tôi vẫn còn giữ.

Cảnh nhà bác thanh bạch. Khu Ông Tạ vốn buôn bán sầm uất, nhà ai cũng mở cửa tiệm buôn bán nhưng bác chỉ chuyên tâm dạy nhạc cho nhà nước, lương ba cọc ba đồng. Sau giờ làm nhà việc, về nhà, tối bác dạy nhạc, treo tấm bảng nhỏ xíu, vài học trò, thu nhập thêm chắc cũng chẳng bao nhiêu. Cũng có người tiếc nhà bác mặt tiền, không buôn bán uổng. Bác chỉ gật gật đầu, nheo nheo mắt cười vui.

Vậy nên khi bác viết trong “Hoa cài mái tóc”, với câu “Tình mình nghèo người đời khen chê – Ta thương nhau giữ trọn tình quê”, là viết thật đó, dù trước đó, khi rời Huế vô Đô thành Sài Gòn, hẳn gia đình cũng ít nhiều hy vọng: “Về Thành đô anh mua áo cưới – Ta thương nhau xây dựng ngày mai”.

Nhưng cả nhà không bao giờ than thở, cứ thanh bần vậy mà sạch. Một hôm, nhạc sĩ nổi tiếng Châu Kỳ, cũng người Huế, hơn bác một tuổi ghé chơi, cám cảnh, bày cho bác cách… kiếm tiền ở Sài Gòn: sáng tác những ca khúc đáp ứng thị hiếu đa số khán giả bình thường. Gu dân Sài Gòn vốn không phức tạp. Thế là “Hoa cài mái tóc”, “Tình em biển rộng sông dài”, “Thư người chiến binh”, “Có thế thôi”… ra mắt.

Nhạc của một nhạc sĩ Huế vang khắp hang cùng ngõ hẻm, ấn hành hàng vạn bản. Tên tuổi Thông Đạt ai ai cũng biết. Hai ca sĩ Ông Tạ là Giang Tử, Duy Khánh lúc ấy cũng hát vang trên đài, trên sân khấu. Sau này, một ca sĩ Ông Tạ khác là Đàm Vĩnh Hưng cũng thể hiện nhạc phẩm này khá sôi động.

Riêng đám trẻ con trong xóm thì lén gào lên: “Mẹ Việt Nam mắt lồi mắt toét…”. Có lần nghe tôi gào lên như vậy, ba tôi trừng mắt, giơ roi. Bác nghe, chỉ cười đôn hậu, có vẻ… vui vui. Hẳn bác biết trẻ con là vậy. Chả là hồi làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường sư phạm tiểu học, bác từng sáng tác, in cả một tập nhạc thiếu nhi tên “Hát mà học” với mười ca khúc: Đến trường, Chơi ná, Chê trò xấu nết, Mèo chuột, Tham mồi, Gương sáng Lê Lai, Quang Trung hùng ca, Trăng Trung thu, Chúc xuân và Tạm biệt.

Hai bác vốn yêu trẻ con, không bao giờ gọi trẻ con là thằng này đứa nọ. Có lần cúng xong, bác đứng ở cửa nhà mình, vẫy tay gọi tôi: “Công ơi, lại đây…” và cho tôi mấy trái chuối ngự cau Huế, trái nhỏ đều, ngọt và rất thơm, vỏ vàng xanh rất đẹp. Chắc ai đó từ Huế gởi vô biếu bác.

3/

Cả nhà bác Huế lắm và chắc chắn yêu Huế vô cùng, tận cùng thuần thành với Phật và vô cùng lãng mạn với nhạc. Năm 18 tuổi, chàng thanh niên Văn Giảng đã tập hòa nhạc với các bạn Huế của mình, sau này đều là các nhạc sĩ nổi tiếng: Nguyễn Văn Thương, Lê Quang Nhạc. 20 tuổi, chàng trai ấy cùng nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba khởi xướng và phát triển nền Phật nhạc tại Huế.

Lớn lao như vậy mà sau 1975, khi biết tôi có vài bài thơ thiếu nhi đăng báo, bác khuyến khích: “Công giỏi quá. Hồi bằng tuổi Công, bác không được như vậy đâu”. Bác Giảng của xóm tôi như vậy đó, nghệ sĩ lớn một cách sang trọng, rất Huế.

Bác sang trọng, nghệ sĩ từ máu thịt khi nhà bác vốn dòng dõi trung lưu, có truyền thống về âm nhạc tại Huế. Ông nội của bác là một nhạc sĩ cổ nhạc. Từ nhỏ, cậu bé Văn Giảng đã mê nhạc, tập chơi mandolin, guitar… Có lần, vô nhà bác, tôi thấy có cả khung đàn tranh của các chị…

Tuy nhiên, nhận xét của ông Tăng Duyệt: “Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi” không phải không có sự thực khi phần lớn những nhạc phẩm ban đầu của ông thuộc thể loại hùng ca như “Thúc quân” (1949), “Đêm Mê Linh” (1951), “Quân hành ca” (1951)… Riêng bài “Lục quân Việt Nam” (1950) thì lính tráng thời Quốc gia Việt Nam lẫn Việt Nam Cộng Hòa không ai không thuộc nhạc phẩm rộn rã này, ít nhất là lời mở đầu:

Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn,
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang,
Đi đi đi lời thề nguyền tung gươm thiêng thi gan tài.
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi…”.

Thời thanh niên ai chẳng sôi nổi nên cũng không lạ, dù tâm tính, cõi lòng của vị nhạc sĩ uyên thâm Phật học này thật sự thuộc về nhà Phật. Biệt danh của ông cũng thể hiện điều này, như Thông Đạt từ việc ghép pháp danh Nguyên Thông của bác và Tâm Đạt của bác gái. Nhạc phẩm “Mừng ngày Đản Sanh” của bác đến giờ vẫn là ca khúc chính thức cho lễ Phật đản Việt Nam.

Lãng mạn, tình cảm, đạo pháp nên gia đình bác sống hiền hòa, nhẫn nhịn. Sau 1975, bác mang bỏ trước cửa hàng chục khuôn in nhạc của bác, đúc chì gắn trên đế gỗ dày gần chục phân (cm). Có cả bản in “Ai về sông Tương”, “Hoa cài mái tóc”… Tôi tiếc, lén ra ôm về nhà giấu trong gầm cầu thang. Sau phường soát văn hóa phẩm đồi trụy, tàn dư chế độ cũ dữ quá, ba tôi sợ, mang ra chẻ củi (giờ mà còn, hẳn nhiều người chèo kéo mua lại chứ chẳng chơi).

4/

Sau 1975, gia đình bác càng im lặng. Giữa những tiếng đọc kinh tối của xóm đạo Ông Tạ, tiếng tụng kinh gõ mõ nhẹ như ru của gia đình bác vẫn thoảng nhẹ, êm ả hàng đêm. Chỉ hai thằng con trai cuối của bác là Hùng với Lộc là đi sinh hoạt thiếu nhi với tôi. Bốn, năm giờ sáng, đám trẻ con khu tôi réo từng nhà “Hùng ơi, Lộc ơi, tập thể dục…”. Bác gái xịch cửa sắt cho con ra, cười vui với đám trẻ. Các anh chị vẫn học hành bình thường, có chị học Y, quen một anh cùng trường. Thỉnh thoảng anh ấy ghé nhà, xem ra cũng hiền lành, chơn chất.

Năm 1980, Hùng vào một trường cao đẳng. Học đâu chưa xong năm nhất, bỗng một hôm, cả xóm không thấy bác trai và Hùng đâu. Mẹ tôi bảo: “Khéo bác ấy đi vượt biên”. Thời buổi ấy, vượt biên không phải là chuyện lạ và từ kính trọng của hàng xóm với gia đình bác, không ai nói gì.

Vài năm sau, bác bảo lãnh bác gái và các anh chị đi Úc. Riêng cô chị là ni sư một chùa nào đó ở Sài Gòn mà tôi không rõ ở lại thì được nhà nước giải quyết cho ở ngôi nhà ấy với tư cách thuê của nhà nước. Thỉnh thoảng gia đình bên Úc gởi quà về cho cô con gái là ni sư này. Trong đó, bác nói con gái mang sang biếu mẹ tôi vài chai dầu xanh Con Ó.

Có một chị họ hàng với một quan chức trong thành phố biết chuyện, hồi năm 2000, 2001 gì đó tôi không nhớ, bảo tôi: “Anh Công xin sang lại hợp đồng thuê nhà ấy đi, rồi từ từ, tụi em sẽ đề nghị hóa giá nhà cho anh”. Mẹ tôi bảo: “Nhà bác Giảng, ai muốn sang thì sang; nhà mình với nhà bác xóm giềng với nhau, không được làm vậy”.

5/

Khi định cư ở Úc, bác vẫn dạy nhạc và sáng tác như hồi ở cạnh nhà tôi, chủ yếu Phật nhạc. Hai vợ chồng yêu thương nhau cả đời. Bác Giảng mất ngày 9 Tháng Năm 2013 ở thành phố Footscray, bang Victoria, Úc. Tám ngày sau, 17 Tháng Năm 2013, bác Giảng gái đau tim sau khi rải cốt tro bác trai trên biển, đưa vào bệnh viện thì mất. Tro cốt bác gái cũng được rải xuống biển. Tình của hai bác hệt như lời nhạc bác viết: “Tình em biển rộng sông dài”.

Chỉ buồn một điều, có lẽ cũng là tâm nguyện của hai bác: giá mà tro cốt hai bác được hòa vô dòng sông Hương quê nhà, lững lờ chảy êm đềm bên chùa Từ Đàm quê xưa của bác…

“Ai có về bên bến sông Tương – Nhắn người duyên dáng tôi thương – Bao ngày ôm mối tơ vương…”.

CÙ MAI CÔNG
EM VẪN DỄ THƯƠNG

Từ ngày ông Tâm mất và Vân, người con gái duy nhất lấy chồng thì bà Tâm sống ở căn nhà ba phòng ngủ, hai phòng tắm rưỡi này có một mình. Ngày đêm ra vào thui thủi, cả những bữa ăn cũng lặng lẽ âm thầm. Thấy thế, Vân thương mẹ lắm. Đã mấy lần Vân và chồng mời bà về ở chung để Vân tiện bề săn sóc và để mẹ đỡ quạnh hiu nhưng lần nào bà Tâm cũng lấy cớ là bà còn rất khoẻ để từ chối.

Thực ra, sau khi ông Tâm mất, bà Tâm chỉ còn Vân là nguồn vui. Khi Vân lấy chồng, bà Tâm thấy hụt hẫng và cô đơn. Nhưng vì định cư ở Mỹ đã gần nửa thế kỷ, tiếp xúc và sống với nền văn hóa và phong tục nước Mỹ, bà nhận thấy rằng cha mẹ không nên sống chung với con khi chúng đã có gia đình mà chỉ thăm nhau vào cuối tuần hay họp mặt trong những ngày lễ, tết là đủ. Bà cho rằng với cuộc sống tất bật, sau một ngày làm việc vất vả, ai ai cũng muốn có một không gian riêng biệt để yên tĩnh nghỉ ngơi và vợ chồng nào cũng cần có những giờ phút riêng tư.

Phong tục người Việt Nam mình thì cha mẹ ông bà thường quây quần gắn bó với con cháu. Vân là con duy nhất trong khi ông Tâm lại không còn thì đương nhiên, bà Tâm phải gắn bó với Vân gấp bội. Vài người bạn của bà Tâm thấy bà sống một mình thì khuyên:

- Bà Tâm à, tôi nghĩ bà nên dọn về ở với vợ chồng cháu Vân đi cho vui chứ sống một mình thế này lúc khoẻ thì không sao, lúc đau yếu thì làm sao mà tự lo cho mình được.

Bà Tâm chậm rãi trả lời:

- Vâng, cảm ơn bà, bà nói rất phải, nhưng tôi nghĩ đó là khi xưa, thế hệ chúng mình và ở VN kia, còn sang đây văn hóa phong tục nó khác. Tôi thấy có đôi người vì thương con quá, ở chung với con, quên rằng con đã trưởng thành. Vì chung đụng, họ đi quá sâu vào đời sống riêng tư của con, rồi chúng nó không làm theo ý mình thì lại giận, cho là con nghe lời vợ, lời chồng, coi thường cha mẹ. Thế là gia đình không những mất hết hoà khí mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc của chúng nó nữa cơ. Thôi, nhờ Trời, tôi khoẻ ngày nào hay ngày nấy, lúc nào bịnh thì sẽ tính sau bà ạ.

Vắng con tuy buồn nhưng bà Tâm vẫn nghĩ hạnh phúc của Vân là quan trọng hơn cả. Bà Tâm luôn tự nhủ rằng Vân và chồng đi làm cả ngày, tối về, họ cần có vùng trời riêng tư. Họ lại chưa có con, thời gian này là thời gian trăng mật, tối cần thiết cho vợ chồng trẻ để họ khám phá những khuyết điểm của nhau, để hiểu nhau, để dung hoà, chấp nhận và bổ khuyết cho nhau mà xây hạnh phúc. Nếu có người thứ ba trong gia đình, dù cha mẹ anh em bên chồng hay bên vợ ở chung cũng làm cản trở, chi phối ít nhiều những tiến trình quan trọng xây đắp đầu tiên của đôi vợ chồng son trẻ. Bà nhớ đến phong tục tập quán khá khắt khe của người Việt Nam thế hệ trước bà và của bà, đã một thời làm vợ chồng bà mệt mỏi và ngày nay, bà không muốn điều đó xảy ra với Vân. Chính bà từng chứng kiến có những cha mẹ đã đặt trách nhiệm, hạnh phúc và kỳ vọng của mình hay của cả một gia đình lên vai con cái và đã tạo ra bao nhiêu nghịch cảnh đau lòng và đáng tiếc. Riêng bà, bà càng không muốn lệ thuộc vào Vân và rể. Bà muốn tránh tất cả những chuyện khó xử do chung đụng hằng ngày. Bà thấy khi sống riêng, cha mẹ vừa giữ được những tình cảm tốt đẹp với con cũng như với dâu, với rể, vừa được hoàn toàn tự do làm chủ những sinh hoạt và thói quen trong đời sống của mình. Này nhé, lúc mệt bà nghỉ, lúc khoẻ bà trồng hoa, đọc sách, nghe nhạc, nấu ăn hay đi chùa, đi chợ, đi chơi thăm bằng hữu mà không phiền hà trở ngại đến giờ giấc hay sự yên tĩnh của ai.

Dù quyết định sống riêng như thế nhưng đôi lúc bà Tâm cũng chạnh lòng khi cảm thấy quá cô đơn, nhất là những lúc nhớ ông Tâm và con gái.

Một hôm bà Hạnh, bạn bà, gọi điện thoại nói với bà về một người cháu họ đang tìm một phòng để thuê cho mẹ ở. Bà Hạnh nói sơ về hoàn cảnh của gia đình người cháu trai bà và kết luận:

- Tội nghiệp lắm bà Tâm ạ, họ là những người nền nếp, tử tế nhưng vì hai thế hệ, hai nền văn hóa khác nhau, mẹ chồng và con dâu không ai hiểu được ai nên họ đã làm đau lòng và khổ tâm một người đàn ông mà cả hai đều yêu qúy nhất. Tiếc là nhà tôi không dư phòng nên tôi mới hỏi bà. Tôi biết bà chẳng cần dăm trăm bạc mỗi tháng đâu, nhưng bà dư tới hai phòng ngủ, cho bà Mẫn thuê một phòng thì vừa giúp cho gia đình họ giải quyết êm thấm, vừa có bạn mà trò chuyện cho vui.

Thấy lời bà Hạnh có lý và cũng muốn có người ở chung cho vui nên bà Tâm cho bà Mẫn mướn một phòng. Từ ngày có bà Mẫn, bà Tâm vui vì vừa giúp cho gia đình Tài yên ổn, vừa có người bầu bạn, lại mỗi tháng có thêm ít trăm tiêu vặt.

Hơn hai năm trước bà Mẫn sang đây theo diện đoàn tụ gia đình do con trai bảo lãnh. Mới đầu, bà Mẫn ở với con trai và dâu, sau, càng ngày càng có chuyện bất hoà, đầu tiên còn nhỏ, sau thành lớn và đến một ngày bà và con dâu chút gì cũng thành chuyện, khi thì nặng nhẹ lời qua tiếng lại, khi thì không ai nói với ai nửa lời làm không khí gia đình vô cùng nặng nề, khó thở. Con trai bà tự nhiên thành một quan tòa bất đắc dĩ và ở trong tình huống khổ tâm và khó xử giữa mẹ và vợ. Tài rất thương mẹ và cũng rất thương vợ, thương con, nhất là anh không muốn tiểu gia đình của mình tan vỡ vì những chuyện không đáng chuyện. 

Vì thế, một trưa chủ nhật, khi Thu đưa hai con về thăm ngoại thì Tài nói với mẹ là anh đã tìm được cho bà một nơi ở mới yên tĩnh rồi anh phụ mẹ dọn quần áo ra xe, đưa mẹ đến nhà bà Tâm và đặt vào tay mẹ hai ngàn đồng. Bà Mẫn thấy con dọn cho đồ cho mình, đưa mình đi, nghĩ rằng con trai vì binh vợ mà đuổi mình thì tủi thân lắm. Bà vừa khóc vừa đòi về VN và vất tiền trả lại cho Tài. Nhìn nét mặt đau khổ của người con và những giọt nước mắt giận hờn của người mẹ, bà Tâm cũng buồn lây với họ và chí tình phân giải với bà Mẫn như tâm tình với người bạn thân, một lúc lâu sau bà Mẫn mới nguôi ngoai, nín khóc, cầm tiền cất vào túi. Tài cảm ơn bà Tâm và nhẹ nhàng nói với mẹ:

- Mẹ à, bác Tâm quen thân với dì Hạnh đấy, bác vui tính và tốt lắm. Vùng này rất an ninh và yên tĩnh, mẹ cứ tạm ở với bác Tâm cho có bạn và khuây nguôi rồi từ từ con sẽ tính. Mẹ biết mà, chuyện đời luôn luôn thay đổi, ngày mai sẽ không như ngày hôm nay đâu mẹ ạ.

Tài quay sang bà Tâm thiết tha gởi gấm:

- Thưa bác, con cảm ơn bác vô cùng. Bác cho con gởi mẹ con ở đây với bác một thời gian để con lo thu xếp chuyện nhà. Con cảm ơn bác đã cứu con khỏi cảnh đau lòng và khó xử. Mẹ con mới sang có vài năm, lại ít đi ra ngoài nên còn rất lạ lẫm với lối sống ở đây. Con tin rằng ở với bác một thời gian, mẹ con sẽ thấy rõ những khác biệt giữa Đông và Tây, mới và cũ và mẹ con sẽ thông cảm và hiểu chúng con hơn. Thỉnh thoảng, con sẽ đến thăm mẹ con và bác.

Thì ra bà Mẫn cũng chỉ có mình Tài. Bà Mẫn tâm sự với bà Tâm, ông Mẫn ngày xưa trong quân đội, năm 1973, khi Tài được 2 tuổi thì ông Mẫn mất tích trong một cuộc giao tranh với VC ở Phước Long. Thân sinh bà Tâm có lò bánh mì nhỏ ở Biên Hoà, giao cho bà Tâm làm nguồn sống sau khi ông Tâm mất tích. Trông coi lò bánh mì được hơn mười năm, giá bột ngày càng cao, tiền nhân công ngày càng đắt, bà bán lại cho người khác sau khi gởi Tài đi vượt biên với người anh họ của bà. Bố mất tích, được mẹ gởi đi vượt biên, 13 tuổi, Tài đã biết thân phận của mình. Đến Mỹ, ở với gia đình người bác họ, Tài chăm chỉ học hành. Đậu được mảnh bằng kỹ sư điện toán, Tài có việc làm tốt và bảo lãnh mẹ. Rồi Tài yêu Thu, cưới Thu, cô bạn học từ ngày đầu vào đại học. Mọi việc tiến hành như ý Tài mong ước. Duy chỉ có điều là Tài và Thu đều trưởng thành ở Mỹ. Thu yêu chồng và mẹ Tài cũng hết lòng yêu người con trai duy nhất theo cách yêu con của những bà mẹ VN nên khi chung đụng, hai người đã có nhiều xung đột.

Trong mấy tuần đầu, bà Tâm giúp bà Mẫn đi xin tiền trợ cấp cho người già, đổi lại địa chỉ cho phiếu sức khỏe. Thấy bà Mẫn hiền lành, bà Tâm đem lòng quí mến, mỗi khi bà Mẫn buồn và khóc thì bà Tâm lại tận tình an ủi. Trong lúc tâm tình, bà Tâm khéo léo giải thích về những phức tạp, cách suy nghĩ và lối sống của những người trẻ VN trưởng thành tại Mỹ cho bà Mẫn nghe, bà Mẫn dần dà thấu hiểu và nguôi ngoai, chấp nhận cảnh đời sống mới. Hai người đàn bà cô đơn thân nhau mau chóng, họ cùng đi chợ, nấu ăn và cùng đi tiệc tùng, lễ lạc. Chiều đến, họ thường đi bộ và nói chuyện, vui cười với nhau ở cái công viên gần nhà. Từ ngày có bà Mẫn ở chung, bà Tâm vui hằn lên. Vợ chồng Vân về chơi thăm mẹ, thấy mẹ vui vì có bạn nên cũng an lòng và xem bà Mẫn như người nhà, lúc nào mua gì biếu mẹ hay mời mẹ đi ăn, vợ chồng Vân cũng không quên bà Mẫn.

Ngày giỗ ông Tâm rơi vào ngày Thứ Bảy. Sáng hôm ấy bà Tâm và bà Mẫn ngồi uống trà chờ vợ chồng Vân đến cùng đi thăm mộ ông Tâm rồi đi ăn trưa. Buổi chiều hai bà đi shopping vì Macy đang giảm giá. Bà Tâm muốn thay mấy tấm màn cửa và bà Mẫn muốn mua ít quần áo để làm quà tết cho hai thằng cháu nội.

Cả ngày đi như thế chắc mệt nên tối về bà Mẫn đi ngủ sớm. Bà Tâm trằn trọc, nằm hồi tưởng lại những ngày ông Tâm còn sống, những giờ phút ngồi bên mộ chồng và ngày giỗ năm nay, lại có thêm bà Mẫn cùng đi thăm mộ. Rồi hình ảnh ngày Vân còn bé hiện ra, những ngày sóng gió và những ngày hạnh phúc xen lẫn những nụ cười thơ ngây, những chiếc nơ cài tóc và những chiếc áo đầm xinh xắn. Rồi những ngày giờ kinh hoàng, hoảng hốt cũng hiện ra, những đau thương của cuộc di tản vội vàng vào ngày 27/4/1975, chỉ vài ngày trước ngày Dương Văn Minh giao miền Nam cho VC. Rồi đến những ngày đầu lạ lẫm ở xứ người, hai vợ chồng chơ vơ, không thân bằng quyến thuộc, vừa đau đớn nhớ Việt Nam, nhớ bà con lối xóm, vừa lo lắng cho tương lai. Cứ thế, chuyện này kéo sang chuyện kia như những khúc phim, ráp nối không thứ tự, lớp lang. Rồi bà Tâm lại nhớ đến cảnh chiều nay, khi nhìn bà Mẫn vui vẻ chọn áo, chọn màu, hai tay cầm từng chiếc áo giơ lên ngắm nghía và luôn miệng hỏi:

- Chị Tâm xem này, cái áo này họ may khéo quá nhỉ? Cái này chị thấy có vừa thằng lớn nhà nó không? Màu này thằng nhỏ mặc chắc đẹp ha chị ha ?

Bà Tâm hết gật gật lại cười cười vì bà vui với cái vui của bà Mẫn. Nhìn bà Mẫn say sưa chọn quần áo cho cháu nội, bà Tâm biết bà Mẫn đã hết giận con dâu và con trai. Hơn nửa năm sống chung dưới một mái nhà, bà Mẫn đã bị ảnh hưởng cách sống độc lập của bà Tâm. Bà Mẫn đã tự tìm nguồn vui cho mình chớ không còn lệ thuộc vào con, không chờ niềm vui con đem đến thì mới vui và cho thế là con mới thương mình. Bà Mẫn mau chóng thích nghi với cách sống mới. Bà đã chấp nhận rằng dù là máu thịt của mình đó nhưng khi có gia đình thì con trai cũng như con gái, có đời sống riêng và cha mẹ nên tôn trọng và chấp nhận rằng người thân yêu gần gũi nhất của con mình bây giờ chính là vợ chồng con cái của họ, là những thành viên trong gia đình riêng của họ, còn cha mẹ thì bước lên vị trí thứ hai. Như vậy, bà cần giúp con trai và con dâu chu toàn bổn phận và trách nhiệm của họ như khi xưa bà đã làm bổn phận và trách nhiệm của bà. Bà Mẫn còn hiểu xa hơn nữa là nếu người con nào lơ là bổn phận và tổ ấm của họ mà quá gần gũi với cha mẹ, với bạn bè là dấu hiệu của sự bất thường.

Nghĩ đến sự tiến bộ của bà Mẫn trong nửa năm qua, bà Tâm mỉm cười đúng lúc bà nghe tiếng ngáy của bà Mẫn ở phòng bên vọng sang. Ban ngày, bà Mẫn nói năng nhỏ nhẹ nhưng ban đêm thì có lúc bà Mẫn ngáy to lắm. Nghe tiếng ngáy trầm bổng như tiếng đàn của bà Mẫn, bà Tâm phì cười và không mấy chốc, bà Tâm cũng chìm vào giấc ngủ.

Sáng hôm nay bà Tâm dậy muộn, xỏ chân vào đôi dép đi vào phòng rửa mặt, chợt nhìn thấy trong bếp, trên mặt bàn ăn có một chậu hoa thược dược tươi tắn, bà Tâm nói vọng vào phòng bà Mẫn:

- Hoa thược dược đẹp qúa chị Mẫn ơi ! Mới sáng mà chị đi mua hoa sớm thế !

Bà Mẫn từ trong phòng chạy ra cười tươi không kém gì hoa:

- Ấy, tôi có mua đâu. Hoa của vợ chồng cháu Tài đấy. Nó bảo rằng hôm nay là ngày sinh nhật của tôi, lại gần Tết, biết tôi thích hoa thược dược nên trước khi đi làm, vợ chồng cháu đem hoa tặng tôi đó. Thấy chị còn ngủ, cháu gởi lời chào chị và nói tối nay, năm giờ chiều, vợ chồng nó đến đón chị em mình đi chợ Tết và mời chị em mình ăn cơm mừng tôi thêm tuổi đấy bà chị ạ.

Bà Tâm cười tươi không thua bà Mẫn và nói đùa:

- Ồ tin vui. Sinh nhật chị gần Tết à ? Hèn chi, đồng hương VN của chúng ta cũng rộn ràng mừng sinh nhật chị đấy! Mừng cho chị. Vậy thì trưa nay ta không nấu gì hết, tôi mời chị đi ăn. Chị em mình ăn cái gì nhè nhẹ thôi, chờ bữa ăn mừng sinh nhật vào buổi tối nha chị.

Bà Mẫn cười nhìn bà Tâm, nụ cười dạt dào hạnh phúc. Bà Tâm cảm thấy vui vì chưa bao giờ bà thấy bà Mẫn vui đến thế.

Ngày cuối năm, mấy dãy phố của người Việt tấp nập hẳn lên. Các cửa hàng không thiếu một món quốc hồn quốc tuý nào. Những gian hàng, những cửa tiệm Việt Nam đèn nến sáng trưng và người đông như hội. Các loại bánh tét, bánh chưng, giò chả, mứt kẹo ê hề... Bà Mẫn hai tay dắt hai đứa cháu nội vừa cười vừa nhìn vào một xấp bánh chưng có dán chữ phúc bằng giấy điều quay sang nói với bà Tâm:

- Cứ y như ở Việt Nam ta ngày xưa ấy, vui quá chị nhỉ.

Ngồi trong bàn ăn, bên cạnh hai đứa cháu nội, bà Mẫn luôn miệng hỏi chuyện và gắp đồ ăn cho cháu. Hai thằng nhỏ vừa ăn, vừa thích thú líu lo khoe bà đủ chuyện. Ăn uống xong, khi nhà hàng bưng ra cái bánh sinh nhật đặt trước mặt bà Mẫn, chờ bà Mẫn thổi nến, Thu cắt bánh mời mẹ chồng, mời bà Tâm và mọi người xong, nhìn chồng, Thu vui vẻ:
- Anh chúc tuổi mẹ đi.

Chờ chồng chúc tuổi mẹ xong, Thu nhìn bà Mẫn dịu dàng:

- Thưa Mẹ, hôm nay là ngày sinh nhật mẹ, vợ chồng chúng con và các cháu có lời kính chúc mẹ được mạnh khoẻ, sống lâu trăm tuổi và mọi sự như ý.

Rồi Thu quay sang các con:
- Ba mẹ vừa chúc tuổi bà nội rồi, hai con cũng chúc bà sống lâu và khoẻ mạnh đi.

- Con chúc tuổi bà nội.

- Con chúc bà nội khỏe.

Bà Mẫn xoa đầu hai đứa cháu cười sung sướng:
- Bà nội cảm ơn. Các cháu của bà ngoan quá.

Thu quay sang đưa tay cầm tay mẹ chồng, nhìn bà và mỉm cười, nàng từ tốn:

- Thưa mẹ, năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, con chân thành có lời xin lỗi mẹ về những hành vi và lời nói nông nổi, thiếu suy nghĩ của con đã làm mẹ buồn. Trong những ngày vắng mẹ, con suy nghĩ nhiều lắm. Mẹ tuy không sanh ra con nhưng mẹ sanh ra chồng con và là bà nội của các con con. Con yêu chồng con của con thì con phải biết ơn người sinh ra chồng con, phải quí và kính nể mẹ. Hôm nay, với lòng biết lỗi, con xin mẹ bỏ lỗi cho con. Trưa ngày 30, chúng con sang đón mẹ và mời bác Tâm về cúng giao thừa và ăn tết với chúng con ngày mồng Một. Và từ nay – Thu quay sang nhìn chồng – anh nhỉ, mỗi tháng, mẹ cho chúng con gởi bác Tâm tiền nhà của mẹ, mẹ nhé.

Thật là một bất ngờ khiến bà Mẫn và Tài không nói được gì. Qua làn nước mắt xúc động và hạnh phúc, bà Mẫn cười rất tươi. Rồi bà một tay vòng ôm lưng hai đứa cháu, một tay bà đưa ra, choàng ôm lấy vai Thu. Cùng lúc, Tài, chớp nhanh mắt, cảm động cầm tay vợ đưa lên môi hôn. Chàng ghé tai Thu thầm thì:

- Em vẫn dễ thương như ngày mới cưới. Anh và các con cảm ơn em.

Giao thừa và ngày một Tết năm đó, không nói, quí vị cũng tưởng tượng được rằng tất cả mọi thành viên trong mái gia đình VN tỵ nạn bé nhỏ kia và cả bà Tâm nữa, đã có một cái tết đầm ấm vui vẻ và hạnh phúc vô cùng chỉ vì trong mái gia đình ấy có một người con dâu, một người vợ trẻ tuy trưởng thành tại Mỹ, sống với văn hóa và phong tục bản xứ nhưng có một nền móng giáo dục gia đình của VN và nhất là có trái tim biết đạo lý, biết suy nghĩ, yêu thương và chia sẻ.


Cuba cá đầy biển, ngư dân vẫn đói: Khi thiên nhiên hào phóng nhưng thể chế “thắt nút cổ chai”

Cuba nằm giữa trái tim biển Caribe, nước xanh đến mức người ta ví như nước súc miệng, cá nhiều tới độ chỉ thiếu điều tự nhảy lên bờ xin… chụp hình lưu niệm. Vùng biển quanh đảo được xếp vào hàng giàu hải sản nhất thế giới, tiềm năng nuôi sống hàng triệu con người và nuôi béo một ngành thủy sản. Thế nhưng thực tế, nghề cá Cuba lại èo uột, ngư dân thắt lưng buộc bụng, còn trên bàn ăn người dân trong nước nhiều khi cũng chẳng thấy mấy bóng dáng cá biển. Câu hỏi nghe rất đơn giản: “Tại sao Cuba giàu cá mà ngư dân thì nghèo?” Nhưng câu trả lời thì… “khó đỡ hơn mùi cá ươn”.


1. Tàu cá tư nhân bị cấm vì… chạy nhanh quá, khó kiểm soát
Vấn đề không phải là Cuba không có tàu cá, mà là dân không được đụng tới tàu ra hồn. Chính quyền luôn ám ảnh nỗi lo: ngư dân ra khơi một đường, “tiện thể” ghé luôn Miami một nẻo. Thế là câu chuyện làng chài biến thành câu chuyện an ninh biên giới. Tàu cá tư nhân cỡ lớn gần như bị cấm cửa, muốn sở hữu chỉ có 3 con đường: nằm mơ, đọc truyện viễn tưởng, hoặc nộp đơn rồi… nhận quyết định từ chối rất đỗi lạnh lùng. Khi người dân bị khóa tay ngay từ chiếc tàu, thì chuyện phát triển nghề cá chỉ còn là khẩu hiệu treo trên bến cảng.


2. Tàu quốc doanh: di sản Liên Xô và trò “tàu chìm roulette”
Tàu tư nhân bị bóp nghẹt, sân khấu để lại cho đội tàu nhà nước – mà phần lớn là “di sản thời Liên Xô để lại”. Động cơ nổ như người bị hen, la bàn quay như chong chóng đồ chơi, GPS thỉnh thoảng báo vị trí đâu đó gần… sa mạc Sahara. Mỗi chuyến ra khơi là một lần chơi trò “tàu chìm roulette”: hên thì cập bến, xui thì chính con tàu trở thành… nguồn hải sản mới cho đại dương. Trong cơ chế quốc doanh, trách nhiệm chìm theo sóng, hiệu quả chìm theo nhiên liệu, và cuối cùng là động lực cũng chìm luôn dưới đáy biển.


3. Cá bắt được nhưng chuỗi lạnh thì… “nguội ngắt”
Đánh bắt được cá mới chỉ là hiệp một. Hiệp hai là phải giữ cho cá tươi đến được bờ. Nhưng ở Cuba, hạ tầng kho lạnh lại… lạnh theo nghĩa khác: không máy móc, không bảo trì, không vận hành. Cá vừa kéo lên boong, nếu không xử lý nhanh chỉ có hai khả năng: hoặc để ươn rồi nấu cháo tập thể, hoặc nhẹ nhàng “trả lại cho biển” coi như tạ ơn mẹ thiên nhiên. Nghề cá ở đây đôi khi giống như trò đố mẹo: “Bắt xem có kịp ăn không”, chứ chưa nói đến chuyện chế biến, xuất khẩu, xây dựng thương hiệu.


4. Cấm vận Mỹ: mua con ốc vít cũng như thi hoa hậu, rớt từ vòng gửi xe
Câu chuyện sẽ không trọn vẹn nếu bỏ qua yếu tố cấm vận. Muốn mua tàu mới? Không được. Muốn nhập radar, thiết bị hàng hải? Không được. Muốn mua hệ thống lạnh giữ cá khỏi thối? Thôi khỏi hỏi cho đỡ đau lòng. Cuba đứng giữa biển, xung quanh là nước và cá, nhưng lại thiếu đủ thứ từ máy móc, phụ tùng đến công nghệ. Đến cái ốc vít thay cho con tàu cũ nhiều khi cũng là bài toán đau đầu. Khi cánh cửa thương mại với Mỹ và nhiều đối tác khác bị khóa chặt, bất cứ nỗ lực hiện đại hóa nghề cá nào cũng vướng phải bức tường vô hình của cấm vận.


5. Nhà nước lo du lịch, còn cá để dành cho… buffet khách sạn
Trong bài toán sinh tồn của nền kinh tế Cuba, du lịch là nguồn ngoại tệ quý hơn vàng. Khách sạn, resort, tour biển, bãi cát trắng mới là “con gà đẻ trứng đô la”. Cá, đối với chiến lược vĩ mô, trước hết là nguyên liệu trang trí những bàn buffet sang trọng phục vụ du khách. Hệ quả là tài nguyên biển được ưu tiên chảy vào các kênh mang lại ngoại tệ, còn thị trường nội địa thì phải xoay xở bằng tem phiếu, khẩu phần, hoặc hàng nhập. Ngư dân không phải là mắt xích được ưu tiên trong chuỗi đó; họ giống người đứng ngoài cửa, nhìn tài nguyên quê mình bơi thẳng vào bếp của các khu nghỉ dưỡng.


6. Xin phép ra khơi: từ lúc nộp hồ sơ đến lúc được duyệt thì… cá đã “lên lão”
Ở những nơi khác, ngư dân chỉ cần xem thời tiết, sửa tàu, chuẩn bị ngư lưới cụ rồi ra khơi. Còn ở Cuba, trước khi nhìn trời phải… nhìn giấy phép. Quy trình xin xuất bến nhiều khi dài hơn chiều rộng vịnh Caribe: nộp đơn, chờ duyệt, bổ sung hồ sơ, chờ duyệt tiếp, đúng lúc cán bộ… đi nghỉ mát, lại chờ tiếp, đến khi quay lại thì trời mưa bão, không cho ra khơi nữa. Cả quá trình khiến nhiều ngư dân nản lòng. Biển vẫn đó, cá vẫn bơi, nhưng con dấu và thủ tục mới là thứ quyết định được ra khơi hay không.


Biển cứ giàu, còn khai thác thì… “từ từ tính”
Cuba đang nắm trong tay một kho báu thiên nhiên đáng mơ ước: vùng biển Caribe trù phú, hệ sinh thái đa dạng, nguồn hải sản phong phú. Thế nhưng, sự kết hợp của kiểm soát quá chặt, cơ chế quốc doanh trì trệ, cấm vận bên ngoài và ưu tiên lệch về du lịch đã biến một ngành có thể là trụ cột kinh tế thành một nghề bấp bênh. Ngư dân nghèo, tàu thuyền cũ nát, hạ tầng yếu kém, thủ tục rườm rà – tất cả gói lại trong một nghịch lý: “Cuba giàu cá, nhưng người đánh cá thì nghèo.”

Nếu phải tóm gọn câu chuyện nghề cá ở Cuba bằng một khẩu hiệu châm biếm, có lẽ sẽ là:

“Biển cứ giàu, còn khai thác thì… từ từ tính.”

Và trong lúc người ta “từ từ tính”, cá vẫn đầy ngoài khơi, còn nhiều ngư dân thì vẫn loay hoay với chiếc thuyền cũ, những tờ giấy phép và một tương lai… không biết bao giờ mới khá lên.

VIETBF

Blog Archive