Saturday, April 27, 2019

Nghĩa trang Quân đội Biên hòa, niềm đau còn đó

Hồ Thanh Nhã

Cuối tháng 11 năm 1967, Đại đội 17 - khóa  25 Sinh viên sĩ quan trừ bị Thủ Đức chúng tôi được vinh dự làm Đại đội dàn chào khánh thành Trung Dũng đài của Nghĩa trang quân đội Biên hòa vừa được Công binh xây dựng. Trung tướng Trần văn Trung, Tổng cục Chiến tranh chánh trị thay mặt Tổng thống VNCH khánh thành. Toàn Đại đội sinh viên chúng tôi trong quân phục vàng, đứng dàn chào 2 hàng từ ngoài đường dưới chân bức tượng Thương Tiếc. dài vào tới chân đài Tử Sĩ. Hàng quân chắc dài hơn 200 mét. Trên bậc thang đi lên đài Tử Sĩ thì tay trái mỗi sinh viên đều cầm thêm bó đuốc đang cháy. Quang cảnh buổi lễ vô cùng trang nghiêm lắng đọng.       

Sau khi Trung Tướng Trung đọc xong diễn văn, thì có tiếng ai đó đọc sang sảng bài văn tế dài hơn 30 phút. chen lẫn trong từng đoạn là tiếng tiêu ai oán gọi hồn núi sông. Có khi lại là tiếng trống trận bừng bừng khí thế. . Khi thì nhạc Chiêu hồn tử sĩ trổi lên nhè nhẹ hòa trong bài văn tế.

Toàn thể khu đồi nghĩa trang vang lên nhiều âm thanh lẫn lộn : khi nhặt khi khoan, có lúc hùng dũng, khi lại nhẹ nhàng làm mọi người lúc như khi say, khi tỉnh. Ai cũng cảm thấy rợn người, cảm giác như có hàng ngàn oan hồn đâu đó đang tụ tập trên khoảng trống đồi thấp nầy. Tiếng trống rộn ràng như thúc dục, tiếng tiêu nhè nhẹ nhặt khoan :

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dỏi dỏi soi. ..

Buổi lễ kéo dài hơn 2 giờ mà dư âm hình như còn đọng trong lòng mọi người quá nhiều nỗi xót xa ngậm ngùi. Lúc đó vì mới xây dựng nên Nghĩa trang chỉ  có chừng vài trăm ngôi mô. Sau này chiến sự leo thang, tốc độ mai táng cáng ngày càng gia tăng. Nhất là khi cuộc chiến leo cao đến chót dỉnh vào Mùa hè đỏ lửa năm 1972. Số tử sĩ đưa về càng nhiều thì lực lượng quân nhân cơ hửu của Nghĩa trang ban đầu chỉ có 1 trung đội, sau phải gia tăng thành 1 đại đội. Thành phần nầy chuyên trách các công việc tắm rửa, tẩn liệm, đào huyệt. ..
                     
Song song đó Công binh cũng tiếp tục đào đấp, xây cất thêm các công trình khác theo sơ đồ ban đầu; đường xá, bức tường Vành Khăn Tang. Vào trong nghĩa trang còn có Đài Tử Sĩ  được xây trên ngọn đồi thấp, Trước đài có cổng Tam quan. Giữa Nghĩa trang là một tháp xi măng cao 43 m gọi là Nghĩa Dũng Đài và 1 bức tường hình tròn quanh Nghĩa Dũng Đài gọi là Vành Khăn Tang. Không biết ai đặt tên cho bức tường nầy là Vành Khăn Tang? Sao mà nghe ai oán thê lương  làm sao cho những thân nhân còn ở lại. Và người về với đất thì im lìm nằm thẳng hàng, bình đẳng, hàng hàng lớp dài mút mắt đến cuối chân đồi.

Ngày khánh thành Nghĩa Dũng Đài có chúng tôi tham dự thì mộ phần chỉ có khoảng chừng vài trăm ngôi mộ. Thế mà khi dứt cuộc chiến vào ngày 30 tháng 4 năm 1975  thì số mộ phần ở đây là lên gần tới 16 ngàn rồi. Đó là chưa kể có nhiều tử sĩ được thân nhân mang về mai táng đất gia tộc mà con số nầy thì không thể biết nổi. Tại Nghĩa trang nầy có chừng hơn mười ông Tướng nằm chung với thuộc cấp của mình, trong đó có Đại tướng Đỗ Cao Trí. Bình đảng và Huynh đệ chi binh!
 
Theo đồ án dự trù thì quanh bức tường Vành Khăn Tang nầy, sẽ là những công trình điêu khắc nghệ thuật ghi lại những chiến tích của quân dân Việt ta qua các triều đại từ thuở vua Hùng mỡ nước cho đến ngày nay. Việc xây dựng chưa xong thì xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Còn Nghĩa Dũng Đài thì chánh quyền Cộng Sản phá hết 10m trên đầu, đem di đâu mất. Bức tượng Thương Tiếc chắc cũng chở đi đem nấu ra đồng.

Đứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Đài nhìn xuống, ta thấy cả cánh đồng mộ chí, trùng trùng điệp điệp kéo dài mút mắt. Một quang cảnh tiêu điều hoang vu nhưng có giá trị lịch sử, trong một thời gian điêu tàn vận nước :

                     Chợt nghe từng đáy hồn thương tích
                    Vẵng tiếng kèn truy điệu. ..mộng xưa.
                                       Thanh Nam.

Đại đội 17 - khóa 25 Sinh viên sĩ quan trừ bị Thủ Đức của chúng tôi vào tháng 11 năm 1967, là những nhân chứng tận mắt ngày xây dựng Nghĩa trang quân đội Biên Hòa và đến 8 năm sau, tức ngày 30 tháng 4 năm 1975  số người sống sót sau cuộc chiến của toán dàn chào nầy, cùng toàn dân miền Nam cũng cùng chứng kiến sự kết thúc của Nghĩa trang đó. 

Xin anh hồn của 16 ngàn tử sĩ được chôn cất ở đây cùng độ trì cho Nghĩa trang không bị tàn phá tiếp. Xin hỏi núi cao, hỏi sông dài, hỏi đứa bé lên ba, hỏi bà già tám chục thì chắc sông núi, toàn dân đều một lòng muốn bảo vệ Nghĩa trang yêu dấu nầy. Lúc nào họ cũng nuôi nấng trong lòng một kỷ niệm thương yêu trìu mến của cả một giống nòi, trân quí những người đã nằm xuống, những người đã đem máu đào, bảo vệ từng tấc đất ngọn rau. Mà than ôi ! Kết quả khác chi dã tràng se cát. Xin đọc bài Thơ dưới đây :  

Nghĩa trang
              .
Ở đây lớp lớp mồ vô chủ
Nào có ai dành một nén hương
Ở đây tối tối hồn oan khóc
Tiếng dế đêm sâu não nuột buồn

Bao nhiêu mộ chí nằm nghiêng đổ
Bạn với trâu bò mỗi giấc trưa
Lối nhỏ hoang tàn gai mắc cở
Nào ai thăm viếng lúc sang mùa

Người từ tuyến lửa chở về đây
Tử sĩ Bình Long ngăn đá đầy
Từng dãy Poncho về bãi H
Trực thăng lên xuống bụi mù bay

Về đây rũ sạch trần duyên cũ
Lặng lẽ đi về cõi tịch liêu
Về đây hoàn tất phần chung sự
Đồi thấp thiên thu lộng gió chiều

Ở đây bình đẳng nằm thanh thản
Kẻ trước người sau…những dãy mồ
Ở đây tất cả là huynh đệ
Mật thiết nhau từ mảnh vải sô

Đồi vắng chiều hôm ai đứng đó
Bàng hoàng lịch sử đã sang trang
Xa xa Châu Thới xanh màu núi
Thánh giá nghiêng xiêu lệ mấy hàng

Người sống hôm nay còn thẹn mặt
Với hồn tử sĩ với trăng sao
Ngoài kia pho tượng …đi đâu mất
Chiếc bệ còn nguyên nỗi nghẹn ngào

Ở đây tháng Bảy mùa ân xá
Luống những điêu tàn chẳng khói hương
Ai thỉnh cho hồi chuông siêu độ?
Giải oan hồn phách lạc mười phương

Bao nhiêu suối lệ bao nhiêu máu?
Rồi cũng ô hô kiếp dã tràng
Một sớm Xuân về nghe bão tới
Sơn hà xao xuyến lệ dầm chan

Từ đấy miền Nam …thành khánh tận
Sạch trơn bờ cõi trắng tay chung
Nổi trôi vận nước bèo mây dạt
Xí xóa cho rồi cuộc phế hưng

Tủi thân người lính nằm trong mộ
Nợ máu xương nầy biết hỏi ai?
Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm
Vật vờ ghềnh bãi … ánh ma trơi

Nhân chứng là đây..từng dãy mộ
Đoạn trường chi lắm núi sông ơi!
Có nghe tiếng quốc buồn bi thiết
Hòa tiếng mưa rơi cuối …cuối trời

Hồ Thanh Nhã
   

No comments:

Blog Archive