Thursday, August 31, 2017


Chuyện cảm động về 8 chú chó trung thành nhất thế giới 

Có những chú chó nổi tiếng khắp thế giới về lòng trung thành tuyệt đối của mình đối với con người.

Trong thế giới tự nhiên, quan hệ “cho và nhận” giữa các loài là hình thức quan hệ phổ biến, đôi bên cùng có lợi, vì nó giúp các loài khác nhau trở nên mạnh hơn để đối chọi với thử thách khắc nghiệt khi ở cạnh nhau. Biểu tượng cho mối quan hệ này chính là giữa loài người và loài chó, loài vật nổi tiếng là người bạn trung thành nhất của con người.

Không phải ngẫu nhiên mà loài chó được ban tặng danh hiệu như vậy. Đã có rất nhiều trường hợp chúng ta xúc động và ngưỡng mộ trước lòng trung thành mà những người bạn chó dành cho con người, và sau đây là những tình bạn người-chó nổi tiếng nhất.

1. Chú chó của Lao Pan.
Lao Pan là một người đàn ông độc thân có cuộc sống bình thường, không có gì nổi bật ở Trung Hoa dân quốc(*). Ông ta không giàu có, không có địa vị xã hội cao, cũng không có gia đình và nhiều bạn bè.

Tuy nhiên điều khiến ông nổi tiếng chính là tình yêu mà chú chó trung thành dành cho ông được cả nước biết đến.


Chú chó trung thành canh mộ của Lao Pan

Chú chó của Lao Pan đã sống cùng ông trong suốt nhiều năm trời, và khi ông qua đời ở tuổi 68 vào năm 2011, chú chó này đã ở bên ông cho đến giây phút cuối cùng. Khi Lao Pan được chôn cất tại nghĩa trang ở làng Panjiatun, chú chó này đã phủ phục canh bên một chủ suốt nhiều ngày trời mà không chịu ăn uống gì.

Sau khi phát hiện ra chú chó gầy gò xơ xác vì canh bên mộ chủ trong thời gian dài, dân làng đã dùng thức ăn để dụ nó về nhà, nhưng chú chó vẫn kiên quyết không rời khỏi mộ chủ. Cuối cùng, họ phải mang thức ăn và nước uống đến nghĩa trang để chú chó sống sót, và xây cho chú một nơi trú ẩn ở ngay cạnh mộ của Lao Pan.

2. Chú chó Hawkye.
Hawkeye là một chú chó quân đội có mối quan hệ vô cùng thân thiết với người chủ kiêm huấn luyện viên Jon Tomlinson. Tomlinson là một thành viên đội đặc nhiệm SEAL của hải quân Mỹ, và anh thiệt mạng khi chiếc trực thăng Chinook chở đội đặc nhiệm bị bắn rơi năm 2011.


Hawkeye nằm phủ phục cạnh quan tài của chủ nhân.

Chú chó Hawkeye trở nên nổi tiếng toàn thế giới khi một bức ảnh chụp trong đám tang Tomlinson được lan truyền trên mạng. Giữa lễ tang, chú chó Hawkeye bước tới gần quan tài của Tomlinson và gục xuống, trút ra tiếng thở dài rầu rĩ bên cạnh xác người chủ thân yêu.

Cả thế giới đã chứng kiến tình cảm gắn bó keo sơn và lòng trung thành tuyệt đối mà Hawkeye dành cho người chủ của mình, ngay cả khi anh đã ra đi. Rất may là sau đó Hawkeye đã được một người bạn của Tomlinson nhận nuôi và được sống trong một mái nhà đầy tình thương.

3. Greyfriars Bobby.
Bobby là một chú chó ở Edinburgh (Anh) đã túc trực bên mộ người chủ quá cố của mình trong suốt 14 năm trời cho đến khi chú chó này cũng qua đời vào năm 1872.


Tượng đài của Greyfriars Bobby được dựng lên ở Edinburgh, Anh.

Chú chó Bobby được đặt tên đầy đủ là “Greyfriars Bobby”, theo tên của nghĩa trang Greyfriars Kirk, nơi chú đã túc trực suốt 14 năm trời để canh chừng ngôi mộ của chủ. Câu chuyện đầy cảm động của Bobby đã được lan truyền khắp vùng Edinburgh, và khi chú chó trung thành này qua đời, chú đã trở thành một nhân vật nổi tiếng đối với người dân địa phương.

Người dân vùng Edinburgh đã dựng một bức tượng của Bobby ngay tại nơi chú chó đã đứng canh gác mộ chủ nhân cách đây hơn 130 năm.

4. Chú chó Theo.
“Theo” là một chú chó quân đội được triển khai tới Afghanistan cùng với người chủ, người đồng đội là hạ sĩ Liam Tasker. Tasker là một lính bắn tỉa trong quân đội Anh, trong khi Theo là chú chó chuyên đánh hơi phát hiện bom mìn.

Khi Tasker hy sinh trong lúc chiến đấu vào tháng 3/2011, chú chó Theo đã gần như sụp đổ. Lúc đồng đội đưa được thi thể của Tasker và chú chó Theo trở về căn cứ, chú chó này đã trải qua một cơn tai biến và cũng qua đời.


Chú chó Theo và hạ sĩ Tasker.

Bác sĩ quân y kết luận cơn tai biến bất ngờ mà Theo gặp phải là do chú chó quá đau buồn trước cái chết của chủ. Cả hạ sĩ và Tasker và chú chó Theo đều lập kỷ lục về số bom tìm thấy và tháo gỡ trong thời kỳ phục vụ ở Afghanistan.

Sau khi chú chó Theo chết, quân đội Anh đã truy tặng cho chú huân chương Dickin, tương đương với huy hiệu Victoria trong quân đội Hoàng gia Anh.

5. Chú chó Capitan .
Capitan là một chú chó bec-giê Đức được ông Manuel Guzman người Argentina nuôi dưỡng. Khi ông Guzman qua đời vào năm 2006, gia đình ông phát hiện rằng chú chó Capitan cũng biến mất.


Chú chó Capitan tại nghĩa trang nơi chôn cất ông chủ.

Vài tuần sau tang lễ, họ đến thăm mộ của ông Guzman và rất bất ngờ khi nhìn thấy Capitan đang đứng đó chờ họ. Điều đáng ngạc nhiên là họ chưa từng mang chú chó này tới nghĩa trang, và cũng không thể hiểu nổi làm cách nào Capitan có thể lần tới đây và tìm ra chính xác ngôi mộ của chủ nhân.

Kể từ đó, Capitan thường xuyên đi đi về về từ nhà đến nghĩa trang và sống nhờ vào thức ăn thừa mà người quản trang mang cho. Cứ đêm đến, chú chó trung thành này lại quay trở lại ngôi mộ của ông Guzman, để chủ nhân không phải ngủ một mình.

6. Chú chó Dorado.Ngày 11/9/2001, ông lão mù Omar Eduardo Rivera bị mắc kẹt vào một trong những tình huống nguy hiểm nhất trên thế giới. Ông Rivera làm việc trên tầng 71 của tòa tháp Trung tâm Thương mại Thế giới, và đến đây cùng chú chó Dorado của mình như thường lệ vào buổi sáng định mệnh đó.


Dorado đã quay lại cứu chủ nhân bị mù đang gặp nạn.

Khi chiếc máy bay đầu tiên do bọn khủng bố điều khiển đâm vào tòa tháp, ông Rivera biết rằng mình đang lâm vào vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Ông nghĩ rằng một ông lão mù như mình không thể nào chạy thoát được, thế nên ông đã tháo dây cho chú chó Dorado và ra lệnh cho chú chạy ra ngoài để sống sót.

Ban đầu chú chó này nghe theo mệnh lệnh của chủ nhân, nhưng 10 phút sau, ông Rivera cảm nhận thấy chú chó trung thành đang cọ vào chân ông. Dorado đã quay trở lại cùng với chủ nhân đang gặp nạn, và với sự trợ giúp của một đồng nghiệp của Rivera hướng dẫn ông mò mẫm đi xuống cầu thang thoát hiểm.

Họ phải mất hơn một giờ đồng hồ mới đi hết được 72 tầng cầu thang bộ và thoát ra ngoài an toàn. Ngay khi họ vừa thoát ra, cả tòa tháp đổ ập xuống với hàng ngàn người mắc kẹt bên trong. Ông Rivera khẳng định rằng chính chú chó trung thành Dorado đã cứu mạng ông.

7. Chú chó Fido.
Lòng trung thành vô hạn với chủ nhân đã biến Fido trở thành một nhân vật nổi tiếng trong thập niên 1940-1950. Fido là một chú chó hoang trên đường phố Luco di Mugello, một thị trấn nhỏ ở Florence, Ý.

Năm 1941, ông Carlo Soriani tìm thấy Fido bị thương đang nằm bên đường và quyết định đưa chú chó về nhà để chăm sóc và nhận nuôi. Kể từ đó, mỗi khi Soriani đi xe bus từ nhà máy về nhà, Fido luôn đứng sẵn tại trạm xe bus để chờ ông.


Chú chó Fido.

Suốt 2 năm trời, không ngày nào là Fido không đứng chờ Soriani ở trạm xe bus, sau đó cả hai cùng đi bộ về nhà. Một ngày nọ, nhà máy nơi Soriani làm việc bị trúng bom của phe Đồng minh, và ông cùng nhiều công nhân khác thiệt mạng.

Đêm hôm đó, khi Soriani không trở về, chú chó Fido lặng lẽ từ bến xe bus về nhà. Nhưng đến hôm sau, chú lại tiếp tục trở lại bến xe để chờ chủ. Cứ thế, trong suốt 15 năm ròng rã, ngày nào Fido cũng kiên nhẫn đứng ở bến xe chờ đợi người chủ không bao giờ trở về.

Sự trung thành của Fido đã khiến chú trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Florence, và khi chú qua đời vào năm 1958, chú được chôn cất ngay cạnh mộ của ông chủ Soriani.

8. Chú chó Hachiko .
Chú chó Hachiko đã trở thành một “báu vật quốc gia” của Nhật Bản nhờ vào lòng trung thành tuyệt đối với chủ nhân. Chủ của Hachiko là một giáo sư tại Đại học Tokyo, người hàng ngày đều đón tàu đi làm.

Cứ mỗi tối, Hachiko lại đến ga tàu để đón chủ nhân trở về. Một ngày nọ, vị giáo sư kia bất ngờ bị xuất huyết não trên giảng đường và không bao giờ trở về nữa, nhưng Hachiko vẫn ngày ngày đều đặn tới ga tàu để chờ đón ông.


Chú chó Hachiko đứng đợi chủ nhân ở ga tàu trong suốt nhiều năm trời

7 năm sau, câu chuyện về chú chó trung thành ngày ngày ngóng đợi chủ ở ga tàu suốt những năm tháng qua đã được kể lại trong bài báo tưởng niệm vị giáo sư đáng kính. Hachiko trở nên nổi tiếng và được coi là một “báu vật quốc gia” của Nhật Bản, và người dân xứ sở hoa anh đào ca ngợi chú chó này như một biểu tượng của lòng trung thành đối với gia đình và tổ quốc.

Khi Hachiko qua đời vào năm 1934, tin tức về cái chết của chú được lan truyền trên khắp cả nước. Và tới tận 60 năm sau, hàng triệu người Nhật vẫn xếp hàng để được nghe một đoạn băng ghi lại tiếng sủa của chú chó “báu vật quốc gia” này.

Theo Trí Dũng (24h.com).
Cái Đêm Hôm Đó "Đêm Gì"?
Mà Ai Nhớ Laị, Cũng Còn Hãi Kinh
 
MƯỜNG GIANG 
        
Theo sử liệu và các nhân chứng, thì không có giai đoạn nào khiến cho người Việt phải chịu nhiều khổ đau và nhục nhã, từ khi bọn thục dân Pháp vì quyền lợi nên cho quân Nhật vào Đông Dương. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của đám âm binh cộng sản đệ tam quốc tế, đang núp bóng trong "Mặt trận Việt Minh" và bọn quan lại xôi thịt của triều đình bù nhìn Huế. Người dân lúc đó, một cổ phải chịu "bốn tròng",sưu cao thuế nặng, đói cơm rách áo, mạng sống và nhân phẩm con người bị chà đạp thãm thê, đâu có thua gì hoàn cảnh tận tuyệt của cả nước Việt, hiện đang ngoi ngóp trong "địa ngục xã nghĩa"..

Tại Bình Thuận, Phan Thiết nhiều biến cố hãi hùng đã xảy ra trong thời gian này. Đó là tai ương chiến tranh do Nhật mang tới, khi hiện diện tại đây. Khắp nơi, nhất là những thị trấn sát biển như Long Hương, Phan Rí, Mũi Né, Phú Hài, La Gi và Phan Thiết, vừa lãnh bom đạn oanh tạc từ các phóng pháo cơ của Đồng Minh, lại chịu thêm hải pháo của Hạm đội Hoa Kỳ từ biển Đông, nhắm vào quân Nhật.

Vì vậy lúc nào trong thị xã, cũng có tiếng còi báo động đặt từ lầu nước và hầu như gia đình nào cũng có hầm tránh đạn trong nhà. Dân chúng rất khổ sở vì không làm ăn gì được. Một số chạy về các vùng quê kế cận để tản cư. Giới trí thức lại càng đau khổ hơn vì sự giằng co, níu kéo giữa các thế lực chính trị, theo bên nào cũng đều chuốc lấy nguy hiểm cho bản thân, gia đình. Vì vậy, các gia đình có tiền đều gởi con cái họ vào Sài Gòn, để vừa học hành lại có bảo đãm cho sinh mạng trước cảnh "tối sáng" diển ra hằng ngày ở Bình Thuận.

Lợi dụng hoàn cảnh gần như "bỏ ngỏ" Phan Thiết của các lực lương Pháp, Nhật. Cộng Sản địa phương hoạt động trở lại, sau thời gian trốn lánh ví thất bại trong cuộc làm loạn của cái gọi là " phong trào Sô Viết" vừa qua. Cũng từ đó, nhiều thanh niên nam nữ tại nông thôn và các gia đình nghèo, làm biển ở các vùng xôi đậu ven thị xã như Đức Long, Phú Tài, động Làng Thiềng, xóm đầm Hưng Long, xóm động cát Bình Hưng..vì nhẹ da, ít học nên bị cán bộ cs tuyên truyền dụ dỗ, qua các lời mật ngọt phỉnh lừa, nên đã lọt vào bẫy rập của Cộng Sản, trong đó có nhiều trí thức thuộc các gia đình hàm hộ giàu có trong tỉnh.. Cũng may có một số lớn, sớm giác ngộ nên đã quay về vùng Quốc gia mà không chịu đi tập kết năm 1954, dù Hàm Tân và Bình Thạnh là một trong những địa điểm tại Bình Thuận, để các lực lương cộng sản xuống tàu ra Bắc Việt.
          
Vì quân Nhật lúc đó đang trám chân Pháp, trấn đóng khắp nơi trong thị xã Phan Thiết, lại đưọc lệnh ở tại chỗ "bất động" từ ngày 17/8/1945. Cộng sản đệ tam quốc tế lúc đó đang núp dưới chiêu bài "Việt Minh" nên chộp lấy "thời cơ" trên, để "ăn cướp" chính quyền lúc đó đang bỏ ngõ. Trường hợp này cũng tương tự như trưa ngày 30-4-1975, vì Quân Lực VNCH theo lệnh tổng thống Dương Văn Minh, bò ngõ Sài Gòn, nên csBắc Việt mới có cơ hội vào cưởng đoạt một thành phố bị bỏ trống để "cướp giựt " chính quyền VNCH, qua sự đồng thuận của tay sai nằm vùng.

Đám "âm binh" cộng sản quốc tế, do Nguyễn sắc Kim, Nguyễn Diên, Lê ngọc Châu, Trần văn Tây, Nguyễn văn Tường.. cầm đầu lúc đó, thực chất chỉ là một đám nông dân tự phát, đa số từ các làng quê xội đậu ven ô, kéo về thị xã làm loạn trong cảnh "một mình, một chợ", không thấy bóng dáng thằng Tây, thằng Nhật hay bất cứ thằng nào của chính quyền. Đây là cơ hội vàng ròng ngàn năm có một, đám dân đen có dịp làm chủ, cứ tha hồ treo biểu ngử, dán bích chương, phất cờ liềm búa và to giọng đòi "Pháp, Nhật" phải giao chánh quyền cho cọng sản, để đảng đại diện  dân "làm chủ".

Theo lời kể của các vị cao niên đã chứng kiến và may mắn còn sống sót (người viết đêm đó cung là một nhân chứng tuy mới ba tuổi), Tất cả đều không biết phải gọi cái "đêm đó", cái đêm 23 rạng ngày 24/8/1945 là "cái đêm gì ? mà bất cứ ai nhớ lại, vẫn còn hãi hùng kinh sợ". Riêng báo chí, đảng đài Việt Cộng thì gọi là "cách mạng tháng tám" Nhưng đối với người dân thì đó là một "đêm kinh hoàng nhất" trong đời người Bình Thuận. Lịch sử lại tái diễn, qua ba lần VC từ rừng kéo về tấn công Phan Thiết trong dịp Tết Mậu Thân (1968) và đêm "trả thù" những quân công các cảnh VNCH bị kẹt lại tại Phan Thiết vào đêm 18-4-1975.

Trong cái đêm "tang tóc, điêu linh", ,nói là để "cướp chánh quyền", nhưng đồn Tây, đồn Nhật kể cả đồn lính tập, thì Việt Minh không dám xéo tới vì sợ "lãnh đạn, toi mạng". Nên trong đêm đó, đám hung thần chỉ đốt nhà dân, giết người tay không vô tội. Hầu hết các nạn nhân chết oan khiên, tức tữi, phần lớn do thù hằn cá nhân, bị vu  tội là Việt gian. Thảm cảnh xãy ra quá tàn khốc bất nhân, đâu khác những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968 tại Huế  khiến cho nhiều người đang trong hàng ngủ Việt Minh lúc đó, vừa đốt nhà, vừa giết người mà nước mắt rưng rưng, vì thương tiếc công trình của tổ tiên đã gầy dựng qua ba trăm năm đẵm đầy máu lệ. Nay bỗng dưng bị "hủy hoại" do chính bàn tay mình, làm theo sự sai khiến của một đám giặc cỏ mang tên cộng sản quốc tế.

Trong đêm "kinh hoàng trên", cái gọi là "lực lượng tự vệ" của Việt Minh, do Nguyễn Nhơn và Nguyễn Chúc cầm đầu, lợi dụng sự bỏ ngõ tại địa phương, nên suốt đêm đó,lùng xục khắp hang cùng ngõ hẹp trong thị xã, theo sự chỉ điểm của nằm vùng, để tìm bắt những người bị tình nghi hay đã được lên án là việt gian, vì làm việc hay có liên quan với Pháp, Nhật.

Đêm đó, đoàn âm binh tự vệ đốt phá nhiều cơ sở của Chính quyền Quốc gia như nhà làng Đức Nghĩa, nằm ngay ngã tư Minh Mạng - Tự Đức, hội quán công ty Liên Thành trên đường Duy Tân, gần Việt Nam Thương Tín ngày nay. Nhưng bi thảm nhất là đốt nhà hàng Ngọc Lâm, kế bên Lầu Ông Hoàng, vì chủ nhân là một người Pháp có tên Guéri.

Trương gia kỳ Sanh (Trúc Viên), cũng bị tự vệ vay bắt vào đêm 22/8/1945 vì tội đã tổ chức nhiều buổi diễn thuyết ca tụng chính sách Đại đông Á của Nhật. Nhưng nhờ cha là Trương gia Mô quen biết với Huỳnh thúc Kháng và Hồ chí Minh (Nguyễn Tất Thành), nên Trúc Viên không bị thủ tiêu tại chỗ như nhiều nạn nhân khác nhưng bị nhốt tại trại tù Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Tới năm 1946. Huỳnh thúc Kháng lúc đó đang giữ chức Phó Chủ Tịch nhà nước kiêm Bộ Trưởng Nội Vụ trong Chính phủ liên hiệp, biết tin nên đã ký sắc lệnh số 40/BNV phóng thích Trúc Viên và cho về lại Phan Thiết.

Bắt đầu từ ngày 6-9-1945, quân Anh-Ấn đã tiến vào Sài Gòn để giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, theo quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Trà trộn trong đoàn quân này, theo sự đồng thuận của Chính phủ Anh, có nhiều đơn vị Pháp. Và cuộc chiến tranh "Pháp Việt" đã bùng nổ trở lại ngay tại Sài Gòn, rồi lan dần ra khắp các tỉnh miền sông Tiền, sông Hậu.

Tại Phan Thiết dù đang trong tình trạng bị giải giới, quân Nhật vẫn tiếp tục đổ bộ chiếm giữ bãi Thương Chánh ở tả ngạn cửa sông Cà Ty, cho tới ngày 12-12-1945 mới chịu xuống tàu về nước.

Lịch sử vốn là công lý, nên cho dù có bị bóp méo, thêm thắt như mấy chục năm qua tại xã nghĩa hay mới đạy nghe nói VC có viết lại "lịch sử", thì tự nó cũng trở về sự thật, Ngày nay sử gia viết lịch sử bằng phương tiện điện toán, văn khố và trên hết là đám đông, không bị kềm kẹp bằng vũ lực và mua chuộc. Người Bình Thuận cũng vậy, giờ đã qua rồi cái giai đoạn rĩ tai, bịt mắt hay vô tâm của cái thuở chỉ có con cái nhà giàu hay đám quan quyền mới được đi học, mới biết tin tức để rồi chộp lấy thời thế mà tóm gọn thời cuộc khi có cơ hội. Xin đưọc mưọn bài thơ dưới đây, gữi tới những con vẹt "tội nghiệp", đang còn kẹt trong chiếc lồng tre của một thời bao cấp, không dám mở miệng vì sợ mắc quai :

sỏi đá vô hồn trong trời đất,
nhiều khi cũng biết toát mồ hôi
sợ thay những cái đầu hóa đá
cứ trơ trơ nhận lấy chữ người.”
(Đá - thơ Đổ kim Ngư - Phan Thiết)
         
Bỗng dưng thấy thấm thía về cái nguyên lý lẽ phải sau đây của sử gia kiêm luật sư nổi tiếng người Anh, Sir Edward S. Creasy, viết trong tập biên khảo nổi tiếng Fifteen Decisive Battles Of The World, xuất bản năm 1851, ông viết: “..tầm quan trọng lịch sử của một cuộc chiến tranh, không phải tính bằng chiến thắng với các con số thương vong, các chiến lợi phẩm, để từ đó lấy cớ hoan hô, đã đảo, làm cuộc đổi đời. Mà nó được tính bằng những gì ta có hôm nay, do cuộc chiến thắng đem lại. Nó cũng được tính bằng những gì ta có ngày hôm nay, nếu ta thất trận hoặc hèn nhát bỏ chạy.”

Ngày 2-9-1945, lần đầu tiên Hồ chí Minh từ hang Pắc Pó, một địa điểm quân sự sát biên giới Việt Hoa, thuộc tỉnh Cao Bằng, về Hà Nội tuyên bố thành lập nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa", đọc tuyên ngôn, tuyên bố thành phần chính phủ mà thành viên hết 99% là đảng viên cộng sản, mở đầu cho một "thảm kịch" Việt Nam, một "hội chứng" loạn luân, phá vở truyền thống đạo giáo cổ truyền của dân tộc.

Từ đó cái danh từ "đấu tố" được công khai hoá, giáo lý học từ các đoàn thể mới như thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, tự vệ, khổi đầu lập công để được vào đảng là "con cái tố khổ" cha mẹ, vợ bỏ chồng, con bỏ tù bố, anh em tàn sát lẫn nhau, một "hiện tượng" nghiệp chướng không hề có trong dòng sử Việt, trước khi cộng sản quốc tế "cướp" được chính quyền. Địa ngục trần gian đã mở, tiếng rên xiết của các nạn nhân bay bổng chín tầng cao nhưng trời đất vô tình, người vô tình hoặc bất lực trong sự đổi đời, nên chỉ còn biết trốn chạy hay cũng liều nhắm mắt xuôi tay đợi đến phiên mình.
        
Tóm lại để có được cái "tự do độc lập" ngắn ngủi 1954-1975, mà khởi đầu từ "Chánh Phủ Trần trọng Kim" trước khi quân Nhật đầu hàng đồng minh tháng 9/1945. Máu và nước mắt của các quân vương triều Nguyễn như Hàm Nghi, Duy Tân, Cường Để và Bảo Đại cũng đã đổ theo máu của hằng triệu người trong cuộc kháng Pháp và nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945.

Nhưng tất cả đã trở thành mây khói, sau những cái đêm, không biết là đêm gì của tháng tám, tháng chín 1945 và tháng tư 1975. Cướp giựt chính quyền "hợp pháp" từ trong tay người dân, cộng sản đệ tam quốc tế tại Hà Nội từ 1954 (Bắc Việt) và tháng 5-1975 cả nước, suốt mấy chục năm qua đã làm đưọc gì cho nước, cho dân ? Tất cả sẽ là "quả báo" của một cuộc "đổi đời" chắc chắn sẽ tới rất gần, khi lòng dân ai cũng muốn giựt xập cái chế độ bạo ngưọc, tham tàn, bán nước VC. Và cái "đêm đó" không phải là "đêm gì" của tháng tám, tháng chín 45, tháng tư 75 trong quá khứ. Nó là đem "đền tội" của tập đoàn bán nước, hại dân VC, trước dân tộc Việt..lớn nhỏ trong và ngoài nước ! 

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 8-2017
MƯỜNG GIANG
Những Cái Giá Phải Trả
 
Địch thủ thường núp những nơi chúng ta không thể ngờ được
-Le pire ennemi se cache où l’on l’attend le moins 
(
Jules Caesar-75 TTC)
 
 Chúng ta không tránh đươc chiến tranh, 
chần chờ chỉ làm lợi cho địch t
hủ
-On n’évite pas la guerre et la reporter profite à l’ennemi 
(
Machiavel, 1502)
 
Phan Văn Song
1/ Cái Giá Phải Trả của Âu Mỹ để giữ mức sống ngày nay :
Suốt các tuần qua, Tổng Thống Donald Trump lay hoay vướng víu, kẹt chuyện Charlotteville, chỉ lo chuyện nội bộ, chuyện nước Mỹ, hơn lo hơn chuyện quốc tế, và ngày hôm nay khi chúng tôi đang viết những hàng nầy lại phải lo cứu trợ những nạn nhơn của con bão Harvey đans hoành hành tại các tiểu bang của Vịnh Mêhicô, Texas, Louisana... Hy vọng lần nầy nước Mỹ nạn nhơn của bão lụt sẽ không có kỳ thị Trắng, Đen, Vàng, Đỏ nữa … bọn Mỹ trắng của KKK cũng biết trôi, biết lạnh, biết chết, biết lũ, biết lụt, như người da đen, da vàng, hispanic hay asian… vậy ! Nạn nhơn bằng nhau, trước cái đau, trước cái chết, không còn màu da nữa … Hy vọng ! Ông Trời cũng rất công bằng, những thằng cà chơn lâu lâu cũng được Ổng cho một bài học… Lưới Trời, Luật Trời … Vì vậy, lại một lần nữa Trump lại phải « bán cái » chuyện Đông Nam Á cho Tàu Cộng và Xi Xù Xì.

Các quốc gia Liên Âu, cũng vậy, lay hoay sửa soạn những ngày vào Thu đầy khó khăn, nào làm sao chấp nhập một nước Anh ra đi, Brexit, mà không làm xáo trộn thị trường. Pháp, tuy với một Emmanuel Macron đầy nghị lực, nhưng vẫn phải bất lực vì cả xứ Tây là một xứ bất trị, muôn năm bất mãn, « Cái xứ mà thằng dân được ở thiên đàng, nhưng suốt ngày vẫn than vản, được voi còn đòi tiên » ! Cái xứ mà cái ở, tiền nhà được giúp ; cái đau, tiền thuốc được cho ; sanh con, có tiền trợ cấp ; nuôi con, cũng đầy trợ cấp, nào tiền sữa, nào tiền cho con bú, nào trợ cấp ở nhà nuôi con ; con đi học miễn phí, còn có tiền giúp nhập học ; thất nghiệp ăn lương, ở không lãnh tiền … có quyền từ chối việc làm… vì công việc làm quá xa, vì công việc làm quá nhọc … Và lúc nào cũng than ! 

Tổng thống Macron là người đầu tiên muốn thay đổi một não trạng, ông vừa muốn thay đổi tình hình chánh trị trong nước, vừa muốn một quốc sách bảo vệ, tân trang đất nước với một suy nghĩ « mới », với một hướng chánh trị « không trái, không phải » cổ hủ về Đất nước, về dân tình, dân tộc… Muốn được thế, ông mong đợi mọi từng giai cấp hy sanh mỗi người một tý đóng góp… Thế nhưng ! … Ông mong, ông muốn được một nước Pháp có một vai trò quốc tế, ông muốn hạ bớt ngân quỹ nhà nước, hạ bớt tỷ lệ nợ nhà nước trở về con số 3% … ngay năm nay nếu được. Với hai lý do : 

- một, tạo uy tín cho nước Pháp, vì với 3% công nợ, nước Pháp sẽ nhập lại vào hàng ngũ một quốc gia đàng hoàng, không để nợ nần quá nhiều; 

- hai để lấy lại uy tín với bà Angela Merkel, và và các quốc gia có trách nhiệm lớn ở Âu châu như Hòa Lan, như các nước Bắc Âu, và như thế, nếu được, mới có vai trò sánh vai cùng với Đức cải tổ lại Âu Châu. Thí dụ, chuyện nhức đầu ngày nay là cái quy chế các công nhơn biệt phái, xuất ngoại lao động đi làm xứ khác ! Tổng thống Macron yêu cầu các công nhơn biệt phái nhập cảnh phải được trả lương như những công nhơn tại chổ. Nếu trả lương rẻ hơn, các công nhơn gốc Đông Âu nhập cảnh vào Pháp (thí dụ Pháp) - khi chấp nhận đi làm với số lương rẻ hơn một công nhơn Pháp - tạo một thị trường công nhơn mất thăng bằng. Đó cũng là một nguyên nhơn của nạn thất nghiệp ở Pháp. Người công nhơn ở Pháp giá thành quá cao ! Thế nhưng … !

Cái Giá Phải trả ngày nay của Âu Mỹ là như vậy. Dân chúng Mỹ và Liên Âu phải chấp nhận, một vài khó khăn cho mức sanh hoạt, cho mẫu sanh hoạt hằng ngày khác hơn xưa một tý. Mỗi người hy sanh một tý, đóng góp một tý, thắt lưng buộc bụng một tý. Mùa đông hạ nhiệt độ sưởi trong nhà xuống, mặc thêm một cáo áo len…Mùa hè, đóng cửa gỗ cho ánh sánh bớt vào nhà, hạ cái nóng xuống, bớt dùng máy lạnh đi ! Đi chợ gần nhà, nên đi bộ… vân vân. Nhưng người tây, người mỹ ta thích khi ra đường, xa gần không cần biết, đi xe máy lạnh. Nhưng về nhà, lại (để vẫn động) đi bộ trên … máy đi bộ (dùng điện) trong phòng tập có máy lạnh (điện), nhưng lại tắm nước nóng (điện) … Xài điện thả dàn…vì điện ngày nay còn quá rẻ… vì giá được nhà nước hỗ trợ. Quên rằng tiền ấy là tiền thuế của người dân, và như mọi người dân, đều mong nhà nước hạ thuế.

2/ Cái giá đang trả của Tàu Cộng để làm bá chủ thế giới :
Vì các lãnh đạo Âu Mỹ quá bận bịu với dân tình thế thái của mình, thêm nạn khủng bố hồi giáo càng ngày càng bành trướng, và do cái não trạng cà chớn của dân âu mỹ, nên giao cả « kinh bang tế thế của thế giới cho anh Tàu Cộng ». Tàu Cộng, được thế, tung hoành bốn phương:

Một, với láng giềng, bành trướng ngoại giao kẻ cả: vừa ký thỏa thuận « hiệp ước » năm trước, năm sau, đơn phương xé rào « bội ước » xâm lấn ngay. Vài thí dụ :

Ấn Độ : Năm 2005, Trung Cộng và Ấn Độ - tuy là một nước lớn ! -  ký thỏa thuận mang tên « Thông số chánh trị và các nguyên tắc chỉ đao việc giải quyết vấn đề biên giới Ấn-Trung ». Điều IX của thỏa thuận này quy định hai bên tôn trọng đường ranh hiện hữu và cùng duy trì ổn định vùng biên giới. Năm 2006, đại sứ Trung Cộng tại Ấn Đô, Sun Yuxi, trở mặt tuyên bố ngang xương là « cả bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc, và nơi tranh chấp, vùng Tawang, thuộc bang Arunachal. Đó là quan điểm của chúng tôi » Sau tuyên bố này, quân đội Tàu thâm nhập vào khu vực, tìm cách dựng căn cứ tại đây. Bộ Ngoại Giao Trung Cộng cũng cho in bản đồ Arunachal Pradesh trên thông hành Tàu.

Cũng như những vùng tranh chấp ở Biển Đông, coi như thuộc về Trung Cộng.
Biển Đông : Sơ đồ Tàu Cộng sử dụng ở các nơi tranh chấp chủ quyền y hệt như nhau: Dựa vào nền tảng lịch sử xa xưa (dỏm), đưa quân thâm nhập, xây đường xá, bất chấp thỏa thuận đã ký kết là bảo đảm duy trì nguyên trạng và giải quyết tranh chấp qua đàm phán hòa bình.

Trường hợp Biển Đông cũng vậy. Trung Cộng cũng đồng ý với ASEAN (gồm toàn nước nhỏ) về một khung ứng xử (COC) vào tháng 5 vừa qua. Theo bản dự thảo (COC), các bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, tránh lắp đặt vũ khí tấn công trên các đảo. Nhưng qua năm 2002, mặc dù trong Bản Tuyên Bố Ứng Xử - DOC mà Tàu Cộng và ASEAN đã thông qua, có cả phần ghi rõ « các bên tự kềm chế trong hoạt động có thể làm tranh chấp phức tạp hay leo thang, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định, trong đó có việc cư ngụ trên các đảo, đá, vốn không người ở hay những thực thể địa lý khác... ». Nhưng Trung Cộng đã sử dụng sự hiện diện của họ và những yếu tố khác tại hiện trường để đưa ra yêu sách chủ quyền, mặc dù đã ký kết bản tuyên bố 2002, và đã lập ra những vùng cấm, những vùng quân sự ở Biển Đông.

Tháng Giêng 2014, Trung Quốc cho tàu và công binh ồ ạt xây cất công sự tạo đảo nhơn tạo trên các rạn san hô ở 7 « đảo ở Trường Sa » : Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Vành Khăn (Mischief Reef), Ga Ven (Gaven Reef), Châu Viên (Cuarteron Reef), Xu Bi (Subi Reef), Gạc Ma (South Johnson Reef), và Tư Nghĩa (Hughes Reef). Các đảo nhơn tạo hoàn tất xong, tiếp theo là các công trình xây dựng cơ sở, bến cảng, phi đạo, đài rađa, nơi đóng quân, cuối cùng, xác định chủ quyền và kiểm soát lãnh thổ. 7 đảo ấy nay là « đất Tàu » ! Và chủ quyền lãnh hải bắt đầu !

Chiến lược của Trung Cộng là luôn đi ngược lại với những gì chính họ ký kết. Bước một, một Hiệp Ước, để ru ngủ, bước hai Bội Ước, xâm nhập. Tàu tiếp tục đưa quân, xâm nhập xây các đảo nhơn tạo ở Biển Đông trong lúc « cái miệng » vẫn cổ vũ duy trì nguyên trạng.

Hai, dùng ngoại giao tài chánh tạo ảnh hưởng trên khắp thế giới : Sự bành trướng trên khắp thế giới của Trung Quốc dựa trên những khoản vay lớn mà nước này cung cấp cho những quốc gia mà họ quan tâm về mặt chiến lược. Nhơn quyền, bảo vệ môi trường, tham nhũng – không phải là mối bận tâm của Trung Quốc. Trung Quốc cung cấp các khoản vay mà không đòi hỏi bất kỳ điều kiện nào. Trung Quốc cũng không quan tâm đến khả năng thanh toán của các nước nhận được “viện trợ”. Trên thực tế, Trung Quốc chỉ quan tâm tới việc mở rộng thị trường của mình, tiếp cận với nguồn nguyên liệu thô và ảnh hưởng chánh trị.

 Mỹ Latin khu vực ưu tiên chiến lược : Năm 2015, Tàu đã cho các nước Mỹ Latin vay 30 tỷ $US - nhiều hơn cả Ngân hàng Thế giới cộng với Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ. Năm 2015, mời các vị tổng thống của tất cả các nước châu Mỹ Latin đã tới thăm Trung Cộng. Xi Jinping đã hứa trong mười năm tới sẽ đầu tư vào khu vực này 250 tỷ $US. Brazil, là đối tác chiến lược của Tàu trong khối BRICS (Brazil, Russia, India, China, South Africa). Chile, Peru, Bolivia và Venezuela đã trở thành thành viên của Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), do Trung Quốc đứng đầu. Tàu đã thay thế Mỹ ở Mỹ Latin.

Với chươnh trình Nhứt Đái Nhứt Lộ-Một Vành đai Một Con đường, Trung Cộng sẽ đầu tư 5 ngàn tỷ $US. Bằng cho vay không giới hạn và xây dựng cơ sở hạ tầng cho các quốc gia liên hệ. Đó là giấc mơ khôi phục “Đế chế Trung Hoa” của Xi Jinping !

Phi Châu :  Ngày nay, Trung Cộng đã chiếm Phi Châu. Không đầy 15 năm, từ 2003 đến 2015, đầu tư Tàu vào Phi Châu đã từ 74,8 triệu vươn lên 33 tỷ $US, chiếm 5,8% của tổng số các đầu tư ngoại quốc ở Phi Châu. Ngày nay, các đại công ty Tàu đã chiếm 40% các công trình kiến thiết các hạ tầng. Và sẽ còn tiếp. Bảng dự kiến các dự án Tàu vừa được ký với Hiệp hội Phi châu-Union africaine - mà văn phòng chánh đặt tại Addis-Abeba, thủ đô Ethiopie, là do Tàu xây và tặng cho – Tàu sẽ xây dựng những công trình khổng lồ để nối liền tất cả các thủ đô châu Phi. Zhang Ming, Thứ trưởng Ngoại giao Tàu, dám tuyên bố « đây là giao kèo của thế kỷ ». 

Ngày nay, trên 2000 công ty xây dựng Tàu đang có mặt ở 50 quốc gia, với 1 000 công trình, gồm 2 200 cây số đường sắt và 3 300 cây số đường lộ. Trên 1 triệu công nhơn Tàu, 300 ngàn riêng ở tại Nam Phi. Và con ấy chỉ có 3,1% của tổng số đầu tư Tàu ở ngoại quốc.

Djibouti, tiền đồn Tàu ở Phi Châu : Với 400 quân nhơn, Tàu đang mở tiền đồn ở Phi Châu và đầu tháng 7, 2017, phóng viên Sébastien Le Belzic của tuần báo Le Monde Afrique báo động. Theo nguyên tắc, căn cứ nầy nằm cạnh hải cảng Doraleh và khu miễn thuế Dijibouti - cả hai do Tàu xây cất - chỉ có 400 nhơn viên thôi ! Nhưng theo nhiều nguồn tin khác nhau, căn cứ ấy trang bị để chứa 10 000 quân nhơn.

Chánh sách « Ngoại giao cứng » nấy, do lời của một nhà ngoại giao âu châu định nghĩa, được song hành với một chánh sách « ngoại giao mềm » là đi kềm với một tập chi phiếu ! Beijing đã chi 14 tỷ $US vào hạ tầng cơ sở của Djibouti - chẳng những đường sắt, hải cảng, đường xá mà còn trường học, nhà thương, cơ sở hành chánh, và … Viện Khổng tử. Tất cả để chiêu dụ Tổng thống Ismaïl Omar Gueller, kể cả số tiền thuê mãnh đất nơi đặt căn cứ : 100 triệu $US ! Chỉ riêng với Djibouti thôi, Ngân hàng xuất nhập cảngTàu đã chịu chi vào 8 dự án lớn : một ống dẫn nước đến Ethiopie -322 triệu $US ; một đường xe lửa nối Addis-Abeba-Djibouti-490 triệu $US ; phi trường mới Bicidley-450 triệu $US ; và hải cảng Doraleh 590 triệu $US. Và dỉ nhiên tất cả những dự án nầy đều do các nhà thầu và các công ty Tàu thực hiện. Tiền Tàu, công ty Tàu, công nhơn Tàu. Và tự nhiên, phải cần sự có mặt của quân đội Tàu !

Thực dân Tàu ? : Trong một cuộc phỏng vấn do nhựt báo Đức « Die Welt », chủ tịch Quốc hội Âu châu Antonio Tajani, bày tỏ ưu tư của ông rằng Phi Châu có thể biến thành một thuộc địa của Tàu? « Phi Châu, ông mạnh dạn bày tỏ ý kiến với những từ ngữ rõ ràng, ngày nay, có nguy cơ biến thành một thuộc địa Tàu. Người Tàu chỉ thèm có các nguyên liệu thôi, những vấn đề khác đều là phụ thuộc ».

3/ Cái giá phải trả của Việt Nam để tìm Độc lập :
Dựa vào Âu Mỹ ? Như người Việt tỵ nạn Cộng sản hải ngoại chúng ta đang thấy và vì đang sống cùng với họ vì chúng ta cũng cùng gốc công dân :  Âu Mỹ ngày nay sống co rút trở về ẩn núp sau những bức « vạn lý trường thành biên giới » (Mễ/Mỹ - Phi châu/Âu châu…), quá ích kỷ, quá lo lắng cá nhơn. Tuy miệng nói là để « giữ hồn dân tộc », nhưng thật sự để bảo vệ cách sống, kiếp « ăn sang mặc bảnh - Đông vui, Hè khoái » … chỉ biết thủ kỹ gia tài; sử dụng những mỹ ngôn đầy xảo quyệt như nhơn quyền, tự do …rêu rao như những khẩu hiệu…để khóa cửa, bế môn, suốt ngày hết lo chăm sóc … từ các giải thể thao, nọ đá banh, lúc xe đạp, đến các màn ca nhạc … Lo lắng trọng tâm của ngày nay là giữ, là thêm sức khỏe, ăn chay, ngồi thiền  …Hè tắm biển, đi Cruise…Đông trượt tuyết, du lịch tìm nắng … Chơi với nhau giữa ta với ta ! Quên hẳn thế giới gồm các lục địa khác, và đa số là nhiều dân nghèo, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu sức khỏe…

Dựa vào các bạn ASEAN ? Tất cả đều đồng láng giềng với Tàu. Dễ mua chuộc, và tất cả đều có những cộng đồng hải ngoại gốc Tàu sẳn sàng « cướp đất người đem về cố quốc ».

Chỉ còn trông cậy, dựa vào Nhựt và Đại Hàn để chống bá quyền Trung Cộng Thế nhưng, mẫu quan niệm sống, mẫu suy nghĩ kinh tế chánh trị của Nhựt và Hàn là cùng mẫu của Việt Nam Cộng Hòa xưa của chúng ta, hoàn toàn KHÁC với Việt Cộng ngày nay !

Mẫu quan niệm sống và thể chế chánh trị của Việt Nam Cộng Sản ngày nay không thể đi cùng với thể chế chánh trị Đại Hàn và của Nhựt Bổn được.

*Việt Nam Cộng Sản là một nước Cộng Sản, độc đảng, độc tài, và chư hầu với Tàu Cộng sản. Vì vậy, không thể là đồng minh với Nhựt và Đại Hàn được, vì không cùng quyền lợi quốc tế.

*Muốn được đồng minh với Nhựt bổn và Đại Hàn, muốn cùng Nhựt và Đại Hàn cùng nhau bảo vệ những quyền lợi quốc tế tại khu vực như Biển Đông, như Đông Nam hay Bắc Á, phải có cùng một quan niệm sống, và phải bảo vệ một quan niệm sống ấy. Phải cùng một thể chế chánh trị. Quan niệm sống là tôn trọng mọi quyền tự do, như những tự do nhơn quyền, phát biểu, hội họp, lập đảng, tự do báo chí, tự do đi lại … Cùng một thể chế chánh trị đa đảng, đa nguyên, bầu cử tự do…

 * Không cùng mẫu đạo đức, không cùng mẫu phát triển đức hạnh con người, không cùng mẫu nhơn sanh quan, không cùng mẫu nhơn phẩm. Làm sao người Nhựt và người Hàn có thể đứng đồng minh cùng với người Việt để chống Tàu Cộng ?

Cái giá phải trả của Việt Nam là phải thay đổi thể chế, dẹp bỏ chế độ Cộng Sản. Tái lập mọi tự do con người. Tái lập các quyền dân chủ, tôn trọng nhơn quyền, hiến định : tam quyền phân lập độc lập lẫn nhau, tự do bầu cử, đa đảng, đa nguyên… Trả quyền về cho người dân. Thể chế cộng hòa, thể chế quốc gia : Do dân, Của dân, Vì dân !

Phải trở về mẫu thời Việt Nam Cộng Hòa xưa kia của chúng ta, Việt Nam mới có thể đứng cạnh Nhựt bổn và Đại Hàn để chống Tàu Cộng bành trướng bá quyền !

Kết luận : Cái giá phải trả của dân Việt Nam để cứu nước :
Một cuộc Đại cách mạnh văn hóa và dân tộc. Đi tìm lại tự hào Dân tộc : Định nghĩa rõ ràng những giá trị nhơn bản việt tộc, định nghĩa rõ ràng những gì thuộc gia tài Đại Việt. Phải DÁM vùng lên, chấp nhận đụng độ, chấp nhận vào tù – DÁM sắp hàng vào tù - để DẸP Đảng Việt Cộng.

Đuổi Tàu, không chơi với Tàu, không phục vụ Tàu du lịch. Tẩy chay hàng Tàu, đập phá hàng Tàu, nhà Tàu, phố Tàu… Dám làm ! Xưa Việt Minh buộc dân Việt tiêu thổ kháng chiến chống Pháp Thực ! Nay dân Đại Việt ta tiêu thổ kháng chiến chống Hán họa !

Chống Tàu, Diệt Việt Cộng để dân Việt Sống Còn. Tất cả Do Dân, Của Dân, Vì Dân. Chúng ta phải tự làm, không trông cậy không nhờ vã ai. Khi ta mạnh, ta có Độc Lập, chúng ta tức khắc có đồng minh.

Dẹp Việt Cộng, là hết nợ Tàu Cộng, hết công hàm Phạm Văn Đồng, hết 16 chữ vàng, là đuổđược thằng Tàu đi ! Tự quản, tự lao động, tự sản xuất …Có một Việt Nam Độc lập, ta đòi lại Biển đảo dễ dàng hơn !

Chớ bày đặt « ù ơ dí dầu làm bộ » công nhận thực thể của Việt Nam Cộng Hòa. Trễ rồi ! Alea jacta est – The die is cast – les dés sont jetés – Bài đã chia xong !

Cút đi !  Để chổ cho một chánh quyền Của Dân, Do Dân, Vì Dân !

Hồi Nhơn Sơn, cuối hè
Phan Văn Song

Jean-Marie-Thérèse  Vũ Thành An

Phạm Liễn 

 Cuộc Rửa Tội Chui.

Đầu năm 1981, vào một buổi chiều khi các tù nhân trong trại đã bị lùa vào “chuồng”, VŨ THÀNH AN được Bộ Nội Vụ Cộng sản Hà Nội cấp riêng cho một mình một chiếc “ô tô con” (xe Jeep) chở đến trại Hà Tây. Điều đó nói lên niềm ưu đãi của Việt cộng đối vói một tù cải tạo thuộc loại VIP. VŨ THÀNH AN (VTA) được Ban giám thị trại Hà Tây tiếp nhận và đưa thẳng về Ban Trật Tự Thi Đua ở góc trại, nơi mà những thành phần tự giác (free man) được sống thoải mái, được tự do đi lại ngày đêm trong vòng tường đai của trại tù. Theo tên thiếu úy Kế, cán bộ giáo dục việt cộng lúc ấy cho biết thì AN có giấy của Bộ Nội Vụ đưa về để trại sắp xếp cho anh ta làm Trật Tự  Thi Đua trại cải tạo Hà Tây. Thông thường thì việc di chuyển tù từ trại nọ đến trại kia, Việt cộng thường dùng xe môlôtôva của Liên Xô hoặc xe tải của Trung cộng, bắt tù đi bộ hoặc đi bằng xe trâu, trường hợp  đi bằng “ô tô con” là rất hiếm thấy.

Hai ngày sau, từ nhóm tự giác VŨ THÀNH AN về nhập đội cải thiện và văn nghệ ở buồng giam số 1.

Tình hình sinh hoạt chung, về mặt nội qui kỷ luật thì lúc này VC có chiều hướng nới lỏng không như cách đây một năm. Không còn cảnh truy lùng bắt bớ nấu nướng linh tinh,  nói tiếng nước ngoài, ca hát nhạc vàng, làm cây Noel, vui đùa tụ tập đọc sớ táo quân hay hội họp nhau để hát xướng cầu nguyện. Bọn cai tù thì mặc kệ còn đám chó săn ăng ten cũng không lai vãng rình mò như trước.

Luồng gió mới thực sự đang xoay chiều. Nhiều tin vui cho tù dồn đến trại do các thân nhân  thăm nuôi từ Miền Nam ra. Lúc này các phái đoàn Ân xá Quốc tế, Hồng Thập Tự Quốc Tế, các phái đoàn Công Giáo và Tin Lành của Hoa Kỳ và các nước trên thế giới như Thụy Điển, Ba Lan, Tây Đức, Pháp, Anh, Ái Nhĩ Lan, Gia Nã Đại, Úc, kể cả Liên Sô v.v ra vào tấp nập như đi chợ, đến trại tù quan sát. Thân phận người tù đang được xem như món hàng chiến lược sắp đem xuất cảnh

Người ta tin rằng sắp có nhũng cuộc trả giá để cho các tù nhân chính trị được thả ra và cho đi định cư ở ngoại quốc 

Tù nhân đang chuẩn bị tinh thần, đua nhau học sinh ngữ và định hướ́ng cho mình một “đường binh” tương lai gần như trong tầm tay.  Đối với những người chưa theo đạo, họ đang đắn đo giữa ngã ba đường để chọn cho mình một đức tin tôn giáo. Khi đội Tuyên úy ở Thanh Phong chưa chuyển về Hà Tây thì các anh em công giáo vẫn âm thầm truyền đạo và rửa tội lẫn cho nhau. Cao trào theo đạo xem như đang nở rộ như nấm gặp mưa, ai cũng đinh ninh sửa soạn ngày mai sẽ đi định cư ỏ Hoa Kỳ hay những nước tự do trên thế giới.

Tin tức từ khu F, biệt giam các tướng lãnh vượt ra khỏi bức tường ngăn là linh mục Phan Phát Huồn mớí bị đưa vào khu F cách ly khỏi đội Tuyên úy mấy hôm, ông đã cấp kỳ rửa tội cho 3 ông tướng theo đạo công giáo gồm các ông Lê Minh Đảo, Lê Văn Tư và Phan Đình Thứ tự Lam Son. Trong khi đó, các tướng khác như Nguyễn Hữu Có, Lê Trung Trự̣c, Lý Bá Hỷ đang tiếp xúc với mục sư Dương Kỳ để xin theo đạo Tin Lành. Còn ở khu giam bên ngoài thì có Đại tá Dương Quang Tiếp Cảnh sát Quốc gia, Đại tá Phùng Ngọc Ẩn Không Quân cũng vừa gia nhập vào đại gia đình công giáo...

Nếu nói rằng đây là Ơn Thiên Triệu hay nói cách khác là Ơn Thiêng Liêng từ trời thì cũng chỉ đúng nửa phần vì cũng có kẻ cơ hội chủ nghĩa xin vô đạo không phải vì Chúa mà là vì một dụng ý khác đầy tính toán.

Nhữ̃ng tên ăng ten chó săn khét tiếng tại Hà Tây như Đỗ Công Thành, Phạm Thái bây giờ bị co cụm lại với nhau và run sợ bị trả thù. Chúng báo cáo và xin cai tù bảo vệ nhưng dường như không được đáp ứng. Chúng đã bị vắt chanh bỏ vỏ và đang bị bỏ rơi gần như tuyệt vọng. Không những thế, bọn cai tù còn thẳng thừng trả lời với bọn ăng ten rằng chuyện của các anh thì các anh phải tự lo lấy. Còn những loại  làm ăng ten nửa kín nửa hở thì đang rụt vòi trốn tránh.

Nhữ̃ng trận đòn đánh ăng ten vừa diễn ra hôm qua là tấm gương trước mắt. Vừa đóng cửa buồng thì đội trưởng Phạm Thái đã bị nhóm Thành Đỏ cắt dây điện và trùm chăn bề hội đồng. Phạm Thái phải đưa sang buồng giam khác vì sợ mất mạng.

Trước nguy cơ  này VŨ THÀNH AN rất lo sơ,̣ không dám gặp ai, không dám đi ra ngoài một mình, sợ nhất là hai nhóm tù biệt kích Yên Bái là thành phần còn sống sót trong những cuộc nhảy dù ra Bắc trước 1975 và nhóm Mỹ Phước Tây. Sau cùng VTA đã tìm cách thoái thác không dám nhận làm Trật Tự Thi Đua nữa và xin về buồng 1 ở đội Cải Thiện và Văn Nghệ lân la làm quen và xin cầu cứu các anh em tù Công Giáo che chở. Đây là dịp VŨ THÀNH AN xin theo đạo.

Đêm 19 tháng 3 năm 1981, VŨ THÀNH AN được anh em tù “rửa tội chui” tại Buồng giam số 1 trại cải tạo Hà Tây.

Đêm nay máy điện bị hư, những ngọn đèn dầu tù mù không nhìn rõ mặt người chỉ vừa đủ ánh sáng để khỏi va chạm vào nhau. Tại một góc sàn trên, một nhóm tù Công giáo đang tụm đầu vào nhau cầu nguyện và làm lễ rửa tội cho VŨ THÀNH AN. Tham dự hôm ấy  có các tù nhân thuộc buồng giam số1 gồm các ông Nguyễn Văn Mân, ông Trần Cảnh Chung, ông Nguyễn Lý Tưởng, ông Nguyễn Văn Độ, ông Huyỳnh Văn Trứ, ông Nguyễn Thành Tiên, ông Vũ Công Định, ông Trần Khắc Khoan, ông Nguyễn Vạn Hùng... Riêng ông Định là không thuộc Công Giáo.

VŨ THÀNH AN hôm nay ngoan ngoãn như một con chiên hiền lành và chọn tên thánh của mình là: JEAN-MARIE-THÉRÈSE VŨ THÀNH AN

Ông Nguyễn Văn Mân, người lớn tuổi nhất  nhận cầm đầu. Người đổ nước trên đầu VŨ THÀNH AN và đọc kinh rửa tội  là ông Nguyễn Thành Tiên.

Ông Nguyễn Thành Tiên, một người hiền lành như đất, cả trại tù ai cũng mến. Những anh em trong buồng bị mắc bệnh lao ai cũng tránh xa thì ông lại đến làm thân với họ, truyện trò, ăn uống và hút chung ống điếu với họ và không sợ lây lan. Ông đi tu sắp được làm linh mục thì xin về vì gia đình hiếm hoi. Trước năm 1975 ông là Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn tỉnh Khánh Hoả có hai người con trai tu Dòng Châu Sơn Nha Trang và một người con gái là Dì Phước..

Sau vụ rử̉a tội cho VŨ THÀNH AN ông kể lại cảm nghĩ của ông như sau:

“Nước Trời chẳng đóng cửa ai. Khi có người lầm lỗi trở về  thì cả thiên đàng mở hội. Tôi thú thật rằng khi đổ nước trên đầu VŨ THÀNH AN và đọc câu
“ Ego te baptizo in nomine Patris et Filii et Spiritu Santi “
bất giác tôi nghĩ đến cố Đại Tá SƠN THƯƠNG nên trong lòng tôi không được vui.”

Thương thay, chẳng bao lâu sau, ông Nguyễn Thành Tiên  người rửa tội cho VTA đã qua đời tại Hà Tây khi đang lao động cuốc đất lúc 10 giò 30 sáng ngày 25 tháng 2 năm 1982.

Từ sau khi theo đạo Chúa, VŨ THÀNH AN tạm kể như an lòng vì được nấp trong cái pháo đài của một số anh em công giáo. Thế nhưng dưới cái nhìn hoài nghi của nhiều tín hữu khác, VTA đáng sợ hơn Việt cộng. Có người thắc mắc tại sao VTA lại có đến 3 tên thánh?  Khi qua đời đọc kinh sẽ rắc rối. Chẳng hạn ”chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho linh hồn Gioan, Maria và Têrexa VTA được lên chốn nghỉ ngơi...!” Tuy vậy những tù nhân trong trại Hà Tây nói chung, vẫn coi VŨ THÀNH AN là một đối tượng nguy hiểm cần phải đề phòng.

Ngày 18 tháng 3 năm 1983, VŨ THÀNH AN được chuyển về trại tù Nam Hà.

An được đưa vào đội Văn nghệ của Phạm Kim Quy, cựu Đại tá Cảnh sát Quốc gia cũng ở tại buồng 1 cho tới ngày ra tù. Trại Nam Hà lúc đó cũng sôi động về khí thế diệt ăng ten, tại đây có đội 20 quy tụ những thành phần “phục quốc” rất trẻ từ Miền Nam.

VŨ THÀNH AN ở tù đúng 9 năm 6 tháng 17 ngày. Được tha ra khỏi trại ngày 12 tháng 1 năm 1985. Đợt tha này phần đông là những tù nhân có máu mặt hoặc thuộc loại con nhà giầu. Chỉ cần gọi gia đình đem một cây vàng( 1 lạng vàng) ra đặt cọc, nộp cho Việt cộng ở Hà nội rồi về chờ lệnh tha mà không cần xét hồ sơ ác ôn hay nợ máu. Khi được tha về sẽ có người đến tận nhà thu số tiền còn lại (4 lạng vàng nữa). Đây là đợt tháo khoán cuối cùng cho bọn tham nhũng Hà Nội vơ vét tài sản của tù cải tạo nếu muốn được về với gia đình sớm hơn người khác. Khiếu Thiện Kế (nghị sĩ) là kẻ mánh mung móc nối làm ăn trong vụ này vì y có người chị ruột rất có thế lực tại Hà Nội. Con gái bà này là một nữ minh tinh điện ảnh Việt cộng và là con dâu của Lê Duẫn.

Được tha cùng ngày với VŨ THÀNH AN có giám sát viên Đào Thanh Quế em rể Bộ trưởng Canh nông Tôn Thất Trình, đại úy ĐPQ Ngô Xuân Thu dân biểu Pleiku, trung tá Vũ Công Định Thiết Giáp,  và 62 viên chức khác. Đa số là khách hàng của Khiếu Thiện Kế.

Về chuyện đời tư, VŨ THÀNH AN dường như chưa hề hé lộ với ai và cũng chẳng ai thèm đề cập đến. Tại Hà Tây có một lần được gọi ra thăm nuôi. Một người đàn bà dắt đứa con trai từ Sàigòn đến thăm rồi từ đó không bao giờ gặp lại nũa. VŨ THÀNH AN có người chị ruột tên Liên làm công cho một bà có chồng lính Mỹ có 3 đứa con lai. Bà này có 2 tiệm photocopy ở ngã tư Bảy Hiền và trên đường Lý Thái Tổ Sàigòn.

VŨ THÀNH AN từ chối chương trình HO-8 để đi theo gia đình con lai này vào năm 1990 và phải ở lại Phi Luật Tân nửa năm sau mới được vào Hoa Kỳ tức là năm 1991 và hiện nay định cư tại Portland, Oregon.

 Sang Hoa Kỳ, đội lốt thần linh, trốn vào nhà thờ. 

Ai cũng biết VTA là một nhân vật rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ty nạn cộng sản tại Hoa Kỳ vì ông là một nhạc sĩ tên tuổi, một cựu tù nhân chính trị và hiện là một phó tế của giáo hội công giáo La Mã - địa phận Portland, Oregon - hơn nữa ông là giám đốc chương trình Bát Gạo cho các cụ già ở Việt Nam, có nhiều cơ sở hoạt động không những ở nhiều tiểu bang Hoa Kỳ và trên khắp thế giới, có nhiều cơ sở và tài sản ở Việt Nam, có biệt thự mua cho các cụ già ở thành phố nghỉ mát Đà Lạt v.v. 

Ngay tại thành phố Houston Texas, ông có nhà để cho vợ chồng Trung sĩ Quẩn trông nom và cho thuê. Ông có cung nô bộc tốt cho nên không cần thuê mướn tà lọt để phục dịch và hầu hạ. Những cuộc quyên tiền nào cũng có vợ chồng Trung sĩ này “đeo bám ăn theo” vì lao tư lưỡng lợi. Ngoài biệt tài chiêu dụ đồng hương quyên góp tiền bạc dưới mọi hình thức, từ tổ chức văn nghệ gây quỹ tại các nhà hàng đến việc đi xin tiền các giáo hữu, các tín đồ tại các nhà thờ, họ đạo, các chùa chiền thánh thất, ông còn kinh doanh buôn bán dưới danh nghĩa Têrêxa Charity, thậm chí còn bán cả thẻ điện thoại và các loại thuốc dược thảo tăng cường sinh lý cho đàn ông và phụ nữ. Ai dám cả gan mà chọc tức VŨ THÀNH AN thì không chết cũng bị thương, chớ xem thường mà toi mạng! 

Bây giờ VTA vững như bàn thạch, tiền tài, danh vọng dư thừa, còn sợ gì ai nữa! Vừa ngồi đếm tiền đô la, vừa ca hát.

Miệng lưỡi y hệt như Vẹm, giết người xong còn muốn người chết phải lên tiếng. Thật là thâm ác! 

VŨ THÀNH AN ngoài bảy bó, các bạn đồng tù với ông hôm nay cũng bằng hay hơn tuổi ông, có những người đã quá cố, có những người còn sống già nua tóc bạc răng long, mắt mờ tai điếc, kệ mặc thiên hạ sự, ai làm gì mặc nấy,  không thiết tha với chuyện đời quanh mình.  Nhưng thưa ông AN, chuyện đâu còn đó, người sống có thể tha thứ cho ông nhưng đối với người đã chết thì hồn oan của họ vẫn còn đeo đẳng và không bỏ qua những tội ác của ông.

Tù hơn tháng nay, hầu như ngày nào cũng có e-mail đăng tấm hình của ông và bài viết của tác giả Trần Trung Chính với nhiều ý kiến không mấy thuận lợi cho VTA. Dường như có sự thôi thúc thiêng liêng nào đó của người đã khuất. Và xem trên TV hình ảnh ông VŨ THÀNH AN  mặc tu phục y hệt như mấy linh mục, áo đen cổ cồn trang trọng làm nhiều người tưởng lầm ông là những bậc tu hành thật sự. Ông đã bị chê bai và mất cảm tình vì ông là một kẻ ngạo mạn. Ông nên phân biệt tu phục và lễ phục. Lễ phục ông mặc trong nhà thờ như các cậu giúp lễ chứ không được mặc đi chơi ngoài phố. “Bay nâng mình lên thì Ta sẽ hạ bay xuống”. Đó là lời Chúa.

VŨ THÀNH AN muốn trở thành tên cộng sản quốc tế: PAVEL

Trong một tài liệu viết tay, nghị sĩ Trần tấn Toan là người ở cùng trại Phú Sơn 4 nhưng không ở cùng đội cùng buồng với VTA, ông Toan có những nhận xét như sau: (trích nguyên văn)

“Tôi không là “nạn nhân” cũng không quen thân ông AN. Nhũng điều tôi biết về ông không do liên hệ cá nhân giữa ông với tôi mà có, nhưng do tôi quen lắng nghe, quan sát và suy nghĩ về nhũng điều xảy ra quanh mình, trong đó có trường hợp VTA.

Ông AN ở tù 10 nămchuyển qua 5 trại (Long Thành, Phú Sơn 4, Thanh Phong, Hà Tây, Nam Hà). Ở Long Thành, ông làm Văn Nghệ/ Thi Đua, ở Phú Sơn 4 ông là đội trưởng lao động sản xuất và một đôi lần được trại giao cho đặc trách dàn dựng chương trình văn nghệ ca nhạc kịch. Chính ỏ hai nơi này, từ 1975 đến 1979, mà những hành động của ông đã di lụy cho ông tới bây giờ.

Hoạt động nổi bật của ông ở Long Thành là sáng tác các ca khúc chính trị. Chẳng phải một mình ông AN viết ca khúc chính trị nhưng vì ông làm Văn Nghệ/ Thi Đua nên cai tù chọn nhũng bài của ông bắt anh em toàn trại tập hát. Mỗi lần hát ai cũng tức anh ách. Ông AN và nhũng lời hát chính trị của ông trở nên đề tài đàm tiếu trong anh em từ đó.

Ra Bắc, tới Phú Sơn 4 (PS4) ông AN làm đội trưởng lao động. Trại PS4 kỷ luật khắt khe, lao động khổ cực, công an luôn luôn gây sức ép, anh em mệt mỏi thể xác, mệt mỏi tinh thần, mỗi giây phút thư dãn đều quý như vàng mà cũng hiếm như vàng. Ông AN thì có một niềm tin vào Xã Hội Chủ Nghĩa đã trở thành một thứ “Thép Đã Tôi Thế Đấy” ở Phú Sơn 4. Ông tin tưởng chấp nhận và tuân hành triệt để kỷ luật và nội quy của trại vốn đã sẵn hà khắc. Hình như ông cho rằng đó thực là chìa khóa của giải phóng và tiến bộ. Tôi không cùng đội vói ông nhưng hồi đó có dịp quan sát ông lâu dài ở một tầm gần, thấy ông giống như tên Pavel (!) bị mờ mắt vì cái hào nhoáng gỉa tạo của chủ nghĩa xã hội khoa học, triệt để dấn thân xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa.

Như ở trên đã viết, không phải chỉ có một mình ông AN mà cũng có nhiều anh em khác rơi vào tình trạng “giác ngộ” chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên ông AN ”nổi” nhất có lẽ vì ông thâm tín hơn nhũng người khác. Lại cũng vì ông là đội trưởng nên việc ông khắc nghiệt với bản thân mình đã ảnh hưởng bất lợi đến đời sống anh em đồng đội vốn đã sẵn cực khổ. Do đó ông bị nhiều nguòi oán hận phê phán...”

Tội ác VTA? Nguyên nhân nào khiến Đại tá SƠN THƯƠNG tự vẫn?

Bài báo ANTENNA và CON NGƯỜI của tác giả Trần Trung Chính viết về VŨ THÀNH AN làm ăng ten ỏ trại tù Phú Sơn 4 tỉnh Bắc Thái (Lạng Sơn) có liên quan tới cái chết của cố Đại Tá SƠN THƯƠNG đã đăng trên các báo SÀIGÒN NHỎ của Bà Hoàng Dược Thảo cũng như báo DÂN VIỆT của Bà Đoan Trang năm 1995 và 1996, sau đó đã được sao chép lại và phát tán khắp nơi gây xôn xao dư luận một thời trong cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới. Người ta không ngờ một nhạc sĩ tên tuổi có tước vị phó tế  như VŨ THÀNH AN hôm nay lại đốn mạt hèn hạ đến thế!

Dù đúng hay sai, VŨ THÀNH AN vẫn là “bị cáo” trên dư luận và bị mang tiếng trong vụ tự vẫn của cố Đại Tá SƠN THƯƠNG.

Ông SƠN THƯƠNG được xem là người hùng sát Cộng của QLVNCH. 

Năm 1953, ông đã mang lon Thiếu Úy và có huy chương cao quý nhất từ Quân Đội Pháp. Chuyển sang Quân Đội Việt Nam ông được ưu tiên gửi vào Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt học bổ túc sĩ quan năm 1954. 

Ông là người Miên quê quán Trà Vinh. Khoảng đầu thập niên 1960, ông chỉ huy đại đội Biệt Động Quân vẫy vùng ở Khu Chiến Thuật Tiền Giang, đánh đâu thắng đó. Lúc nào ông cũng đeo cái nanh heo rừng và lá bùa hộ mệnh trên cổ theo phong tục của người Miên. 

Sau chiến thắng Ấp Bắc1 năm 1961, ông được thăng cấp đại úy và làm Tiểu Đoàn Truỏng BĐQ biệt phái cho Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Tiểu Đoàn “Sơn Thương” được trang bị súng AR14 - AR15 cùng lúc với Đại úy Lý Tòng Bá chỉ huy thiết đội xe tăng lội nuóc M113 và với đội trực thăng H21 của không quân thực hiện nhũng cuộc hành quân “Lùng và Diệt” thống thuộc  SĐ7BB để trác nghiệm khả năng tác chiến. 

Năm 1964, ông SƠN THƯƠNG nổi tiếng với những chiến thắng lẫy lừng ở Ba Gia - Thạch Trụ. Danh hiệu tiểu đoàn Sơn Thương đã một thời đối phương run sợ. Sau đó ông được đổi về làm Tiểu Khu Phó Tiêủ Khu Vĩnh Bình và chức vụ sau cùng là Giám Đốc Nha Miên Vụ thuộc Bộ Phát Triển Sắc Tộc. Dù ở cương vị nào, ông cũng khiêm nhường, sống hài hoà vói tất cả mọi người.

Một cái may đến với VŨ THÀNH AN, ông AN phải cám ơn Linh Mục Nguyễn Hũu Lễ đã vô tình cứu ông trong thời gian này vì đem sự kiện BÙI ĐÌNH THI ra toà tước quyền tỵ nạn và trục xuất về Việt Nam vì y làm ăng ten tay sai cho Việt cộng, y đã sát hại Dân biểu Đặng Văn Tiếp và ông Lâm Thành Văn trong trại tù Thanh Cẩm. Vụ này được đồng hương chú ý hơn nên câu chuyện Antenna VŨ THÀNH AN còn treo lơ lửng như cái thòng lọng tại đó.

Bùi Đình Thi đã bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ, trả về Việt Nam thì Việt cộng không nhận nên bị đưa đến một hòn đảo nào đó và y đã chết. LM Nguyễn Hửu Lễ đã viết cuốn Hồi Ký TÔI PHẢI SỐNG dầy 650 trang, mấy chục ngàn cuốn bán chạy như tôm tươi nhờ bức ảnh ông đứng chụp chung với vợ chồng Bùi Đình Thi ở Westminster California ngày 9-̣9-̣1996.

Ai biết rõ vụ tự vẫn của Đại Tá SƠN THƯƠNG ở trại Phú Sơn 4?

Theo như các tài liệu ghi nhận thì khi xảy ra vụ tự vẫn của ông Sơn Thương, trong trại Phú Son 4 vẫn còn 200 tù nhân chính trị trong đó có 22 linh mục và một số viên chức chính quyền và quân đội được biết sau đây:

Các qúy ông: Ông Trần Huỳnh Thanh Phủ Tổng Thống, Trung tá Nguyễn Lô Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 7 ND, Thiếu Tá Văn Hiệp Vân Trưởng F Cần Thơ, Dân biểu Bác Sĩ Trần Cao Để Vũng Tàu, Dân biểu Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Văn Cử, Dân biểu Trương Vi Trí, Nghị sĩ Nguyễn Khoa Phước bào đệ của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Nghị sĩ Trần Tấn Toan, Nghị sĩ Khiếu Thiện Kế, Thiếu tá Trần Văn Hên khóa 19 VBQGVN, ông Nguyễn Bá Lộc Thanh Tra Kinh Tế Vùng 4 VNCH, ông Nguyễn Ngọc Diễm Bộ Ngọai Giao VNCH, ông Đỗ Duy Chí Bộ Kinh Tế VNCH, ông Nguyễn Hồng Nhuận Tâm... và còn nhiều quý ông đã một thời ở trại Phú Sơn 4 mà chúng tôi không biết tên.

Năm 1982, chúng tôi gặp ông Nguyễn Ngọc Diễm Bộ Ngoại Giao VNCH ở Hà Tây. Ông Diễm nói chính ông là người cho Đại tá Sơn Thương mượn tiền lưu ký để mua khoai mì. Ông Sơn Thương bị làm nhục nên đã uống 20 viên Chloroquine tự tử. Ông đã gục ngã tại sân tập họp đi lao động và được anh em khiêng xuống bệnh xá. Lúc chết trong túi áo ông có bức thư tuyệt mạng.

Năm 1988, một nhân chứng nữa là ông Nguyễn Hồng Nhuận Tâm, con trai của cụ Thẩm Phán Nguyễn Mạnh Nhụ, Chưởng Lý Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn đã lấy bóng đèn ra thề sống chết trước mặt vị Hoà Thượng và tôi tại ngôi chùa ở đường Trương Minh Giảng Sài Gòn rằng Đại Tá Sơn Thương đã chết vì Anten VŨ THÀNH AN. Hôm gặp tôi, ông Nguyễn Hồng Nhuận Tâm mới ở tù ra và đang đi bán ô mai cam thảo kiếm tiền nuôi gia đình.

Vấn đề Antenna VŨ THÀNH AN và vụ tự vẫn của ĐT Sơn Thương cho đến nay vẫn chưa ai làm sáng tỏ. Trong THƯ NGỎ của VŨ THÀNH AN tung ra để chống đỡ dư luận thì ông AN cố bám víu vào ông Toan: ”Nguyên Thượng nghị sĩ Trần Tấn Toan, người đã chúng kiến cái chết của Đại Tá Son Thương vì đã ở cùng đội cùng phòng vói ông Sơn Thương lúc đó.” Điều này ông Toan đã nói ở đoạn trên ông Toan phủ nhận ông không ở chung đội chung buồng vói ông Sơn Thương.

Đọc kỹ bài viết 18 trang của ông Toan, có một thắc mắc lớn của người đọc là không hiểu ông Toan ở đội nào trong trại Phú Sơn 4? Ông Toan cũng không nói  buồng trưởng, đội trưởng của ông Sơn Thương là ai? Trong suốt  bài viết của ông Toan không hề đề cập đến yếu tố mà mọi người cần biết đó là cái nguyên nhân nào đã khiến ông Sơn Thương phẫn uất mà chết.

Ông Trần Tấn Toan là người Công Giáo và sinh hoạt chung ở cùng đội văn nghệ trại Nam Hà trong những tháng cuối cùng trước khi VŨ THÀNH AN  xuất trại cho nên ông Toan cũng có phần nào tình cảm dành cho AN, ông đã kết luận bài viết có tính cách bỏ ngỏ như để làm vui lòng một người bạn: (trích nguyên văn)

 “Ai muốn kiểm chứng việc ông AN không liên can gì đến vụ tự̣ vẫn của ông SƠN THƯƠNG thì tôi xin giói thiệu tìm hỏi hai người mà phẩm cách cá nhân và tư cách nhân chứng rất đáng tin cậy. Người thứ nhất là ông Nguyễn Ngọc Diễm....Âu Châu Sụ Vụ Bộ Ngoại Giao qua Mỹ năm 1991 ở tiểu bang Miền đông không rõ địa chỉ và người thứ hai là ông Đỗ Duy Chí... hiện nay là Eligibility Technician tại Santa Ana, California...” 

Ông Toan viết tiếp “ Về vụ tự̣ vẫn của Đại Tá SƠN THƯƠNG, tôi hy vọng rằng sẽ có lúc một anh em nào ở “ đội 4 xây cất “ Phú Sơn 4 nêu ra để bạch hóa vấn đề trước công luận...”............... 

Vài lời chia sẻ với ông AN: Cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng lòi ra. Bàn tay con người không thể che nổi ánh sáng mặt trời. Tiếng lành đồn xa... và câu chuyện của ông từ Nam ra Bắc, từ Long Thành đến Phú Sơn 4, ngay cả các bà mẹ, bà vợ của các anh em tù nhân chính trị, thân cò lặn lội nuôi chồng nuôi con, hầu như cả nước đều biết. 

Những tháng đầu ở trại Long Thành đã có nhiều người say nắng đưa xuống bệnh xá trong số đó có một người chết ở khối tình báo vì những sản phẩm trí tuệ quái đản giết người của ông VTA đẻ ra để ca tụng bọn Việt gian cộng sản. Trời nắng chang chang, nóng tháng tám cháy da người, 4000 người tù là những viên chức mà bọn VC gán cho cái tên “ngụy quân, ngụy quyền có nợ máu” phải ngày ngày riu ríu ra sân ngồi xổm, không một mảnh nón che đầu, mồ hôi nhễ nhại, vừa vỗ tay vừa hát những bài ca do ông sáng tác và chỉ đạo theo điệu “Son Đố Mì “.   ” Toàn dân vui mừng, mừng người trai thanh niên bộ đội, mừng miền nam hôm nay ta giải phóng... Trồng khoai trồng đậu, trồng tình thương trong tâm hồn người, trồng niềm tin cho con tim đổi mới...” và cùng với những sản phẩm dị hợm khác ca tụng dao găm, lựu đạn, mã tấu, súng trường AKA chẳng kém những loại nhạc không tên của ông, nếu nói về số lượng.  

Tại Phú Sơn 4, ông đã quì gối giang tay kính cẩn cúi đầu lên giọng ca tụng công ơn trời biển của “bác đảng”, đã thi ân cho ông được tái sinh lại kiếp người.  Ông có biết nhục  và hổ thẹn khi nó đã trở thành bia miệng ngàn đời sao!   Miền Nam bị giặc phương Bắc xâm chiếm bằng súng đạn của Nga-Tàu và chúng ta đã bị bạn bè Đồng Minh bỏ rơi, hàng trăm ngàn quân dân cán chính và nhân dân miền Nam đã chịu chung số phận chết chóc tù đày, gia đình ly tán, nước mất nhà tan. Hoàn cảnh thất thế phải xử thế theo tình huống nhưng vẫn bảo toàn phẩm cách, không tự giết chết danh dự của mình. 

Tôi kể lại một mẩu chuyện ở Hà Tây mà đích thân tôi chứng kiến cho ông nghe:  Sáng sớm vừa mở cửa khu, tù nhân Vĩnh Thái đội nhà bếp vừa đẩy xe nước uống tới cổng để phát cho tù trước khi đi lao động thì một nữ cán bộ VC cũng xuất hiện đội trên đầu một thúng thịt lợn chết đem rao bán cho tù.  Nhìn những miếng thịt thâm tái của con lợn chết đêm qua, ông Nguyễn Văn Độ, thiếu tá Cảnh sát Đặc biệt  lên tiếng:  

-” Này cán bộ ơi! Hôm nay thứ sáu Tuần Thánh, ngày Chúa Giê su chịu đóng đinh và chịu chết cho nên chúng tôi ăn chay kiêng thịt. Xin cán bộ thông cảm.”  

Mụ cán bộ này bỗng tru mõm ra như một con chó dại: -” A..a..a. Thế, thế cái thằng Giê su nó là ai mà các anh sợ nó thế?” 

Ông Nguyễn Văn Độ, có biệt danh là Độ Mù vì ông mang kính cận, đã thản nhiên tươi cười lấy tay chỉ lên trời và nói: 

-” Ông ấy là ông Trời, làm ra Sấm Sét! Trời sắp mưa rồi. Cán bộ nên về đi!”   

Ngoài trời lấm tấm mưa nhưng không lấn át được độ hương nồng của Hoa Soan ngào ngạt trong tuần Phục Sinh năm ấy. Đấy là cách ứng xử cao thượng của người thất thế!     
Về cái chết của cố Đại tá SƠN THƯƠNG, hiện nay ông VTA vẫn là bị cáo dù chỉ là dư luận nhưng nó vẫn còn âm ỉ như một đống than. Chỉ một làn gió nhẹ sẽ bùng lên. Ông AN có nghĩ rằng nó sẽ trở thành một vụ án Bùi Đình Thi thứ 2?  Ở một xứ tự do công bằng và dân chủ như Hoa Kỳ thì chuyện gì cũng có thể xảy ra và không có ngoại lệ nào cho bất cứ ai... Tôi có lời khuyên cuối cùng cho ông sau đây:

Thứ 1.  Nên công khai thú nhận những việc đã làm “Mea Culpa! Mea Culpa” và cúi đầu xin tha thứ như ông đã từng quỳ gối giang tay trước bọn cai tù.

Thứ 2. Đừng lớn tiếng kêu gọi “Xóa Bỏ Hận Thù” như một con nợ muốn quỵt nợ của người cho vay nợ. Đó là trái phép công bằng. Có 2 thứ tội của con người thấu tới trời xanh:  Tội trái phép công bằng và tội giết người. “Xóa Bỏ Hận Thù” là chính sách của VC trong Nghị Quyết 36 nhằm lừa phỉnh nhuộm đỏ đồng bào hải ngoại.

Thứ 3. Muốn bạch hóa những lỗi lầm của ông ở trại Phú Sơn 4, muộn còn hơn không, ông nên thành thật viết ra trên giấy trắng mực đen để giải tỏa những thành kiến hoặc ngộ nhận về ông. Ông nên tự bào chữa cho mình hơn là chờ đợi sự mời gọi nhân chứng theo ý kiến của nghị sĩ Trần Tấn Toan vì ông là một đội trưởng của trại Phú Sơn 

Thứ 4. Ông nhận biết vụ tự sát của cố Đại tá SƠN THƯƠNG như thế nào? Nguyên nhân từ đâu gây ra? Theo ông thì ai là người chịu trách nhiệm về cái chết thương tâm oan nghiệt này nếu người đó không phải là ông.   Hy vọng  lời nói của ông sẽ có sức thuyết phục và được mọi người lắng nghe nhất là những người thân, vợ con, anh em và đồng đội của cố ĐT Sơn Thương.   

 

Hãy can đảm lên hỡi thầy phó tế JEAN-MARIE-THÉRÈSE  VŨ THÀNH AN 


Phạm Liễn 

------------------------------------------------------

Thơ Phạm Đức Nhì:

VŨ THÀNH AN HAI LẦN ”PHỤC  SINH”
                                                     
Chúa Giê- Su chết trên thập tự giá
cứu chuộc loài người
sau đó ngài sống lại
hồn xác bay lên trời
nhớ sự kiện thánh linh ấy
mỗi năm ta mừng Lễ Phục Sinh

Năm 75
có anh nhạc sĩ
sợ bị đóng đinh
nên đi đâu cũng phân bua
-cả với người không quen biết-
rằng “Vũ Thành An đã chết.
cho một con người mới phục sinh
con người thế hệ Hồ Chí Minh
với tư tưởng Lê Nin Kác Mác” (1)

An còn mở lòng soạn nhạc
ngợi ca chế độ mới vinh quang
thấy thế
ai cũng tưởng
rồi An sẽ hết đời sống ở Việt Nam
nào ngờ An cũng … mò qua Mỹ
lên đài phát thanh
nói toàn lời can trường đạo nghĩa

Chúa Giê- Su có một lần chết
một lần sống lại
rồi lên trời
ngự bên hữu đức Chúa Cha
Vũ Thành An ranh ma
có đến hai lần chết
hai lần phục sinh

Con cắc kè xanh
vào lùm bụi đỏ
nên biến thành màu đỏ
ra khỏi bụi
lại đổi màu da lần nữa
Vũ Thành An lại hoàn Vũ Thành An
xảo trá và rất … hèn.

Phạm Đức Nhì

1/ Năm 1975 ở một trại cải tạo thường có mẫu đối thoại sau đây:
·  Anh có phải nhạc sĩ Vũ Thành An không ạ?

· Không phải đâu anh. Vũ Thành An đã chết. Giờ tôi là một con người mới - con người thế hệ Hồ Chí Minh với tư tưởng Lê Nin Kác Mác.

--------------------------------------

Blog Archive