Friday, August 25, 2017

 Sóng biển quạnh hiu 

Xuân Khê

Nếu lấy ngày ký Hiệp định Paris làm cột mốc cho Quân sử người lính VNCH thì những câu chuyện chiến đấu oai hùng của người lính Miền Nam trước ngày 27 tháng 1 1973 đã được nhắc hay viết rất nhiều. Nhưng vì nhận thấy những câu chuyện sau ngày ký Hiệp định Paris rất ít được biết đến, nên đây là bài Hồi ký của tôi viết lại một chặng đường Binh nghiệp nối tiếp lớp đàn anh chiến đấu bảo vệ Quê hương trong nghèo nàn thiếu thốn, khi Đồng minh đã quay lưng từ bỏ bạn bè.

(Tưởng niệm Cố đại úy Lê Kim Chung, Đại đội trưởng ĐĐ2/105 TKQT, cùng hương linh các chiến hữu khác cùng Đại đội 2 đã hi sinh tại thôn Lương Mai, Phong điền, Huế ngày 23/3/ 1975)

Xuân Khê

***

Xa nhà đã mấy Xuân qua.
Làm trai thời chiến nước non vui cùng.
Lao xao sóng biển quê hương.
Ngày đêm tay súng một vùng quạnh hiu.

Vĩnh Huề Thôn - Mùa Hạ 1974.

Thế là đơn vị chúng tôi nhận được lệnh đổi quân. Toàn bộ Tiểu đoàn 105 được một toán Công-voa (convoy) từ Tiểu khu Quảng Trị về nối đuôi nhau sắp thành một hàng dài từ cầu Ba Bến đến hướng thôn Tham Triều mang nhiệm vụ chuyên chở tất cả 5 Đại đội đã tập trung từ lâu thành từng điểm dọc theo con đường.

Đoàn xe GMC theo Tỉnh lộ 555 rầm rộ hướng về hướng biển. Tiểu đoàn 105 sẽ hoán chuyển cho Tiểu đoàn bạn mang số hiệu 120 đang đóng dưới mạn đó.

Thế là tôi phải tạ từ quê ngoại Nại Cửu mà một nửa thôn còn nằm bên kia vùng giặc chiếm. Tôi phải xa thôn Tham Triều, xa cầu Ba Bến mấy nơi tôi đã đóng quân trong mấy tháng mùa Đông. Giã từ để thấy lòng còn vương vấn, nhơ nhớ, thương thương từng cơn mưa phùn dai dẳng, cái lạnh buốt xương của miền quê ngoại. Tôi lại lặng lẽ chia tay với thôn Tả hữu nhỏ bé, thưa dân, lác đác mấy mái tranh nghèo bên con đường đất đìu hiu ven nhánh sông Vĩnh Định ngày đêm không bóng con đò.

Hai toán quân chia tay chỉ còn dấu giày trên cát.

Thôn Ba Lăng.

Bãi cát vàng ven biển tưởng như xôn xao dưới gót giày của đoàn quân mới tới. Cát như bồi hồi lưu luyến tiển đưa toán quân sắp được trở về tuyến trong, nơi đó tạm gọi là đông dân chứ không hoang vắng như ở chốn này. Lính mới đến lính cũ sẽ đi, tay bắt mặt mừng mày tau inh ỏi cả lên. Lâu rồi chúng ta mới gặp nhau đây, tình chiến hữu là vậy đó, chỉ phút giây thôi, lại phải chia tay chứ, quân bạn lại nhảy phóc lên mấy chiếc GMC cũ kỹ mới chở đơn vị chúng tôi về điểm hẹn này. Bất ngờ tôi gặp người cậu ruột - Thiếu úy Võ Hoa - Phòng 3 Tiểu khu - cậu tôi nhận lệnh theo đoàn xe Quân vận. Tình cảm gia đình cũng bị giới hạn bởi cung cách nhà binh nên hai cậu cháu chẳng nói với nhau được mấy lời.

Thôn Ba lăng là căn cứ của Ban chỉ huy Tiểu đoàn 105 chúng tôi. Trên căn hầm lớn nhất còn gọi là T.O.C (Tranmission- Operation- Center) có mấy cần ăng ten (antenna) cao nghễu nghện. Ngoài hàng rào căn cứ còn có một ụ đất lớn dành cho khẩu 106 ly tối tân nhất loại trực xạ, hình như nó được tăng phái từ Lữ đoàn 258 thì phải ? Tạm biệt các bạn 120 ! Tiểu đoàn các bạn sắp được rút vô lại tuyến trong rồi đó. Trong đó các bạn sẽ nhìn thấy mấy khóm tre đang mang màu xanh mới, chúng đã vươn mình lên lại sau một thời gian tan nát trong bom đạn chiến tranh. Dân mình đang lục tục hồi cư. Rồi các bạn sẽ thấy lại làn khói cơm chiều bốc lên nhè nhẹ từ mấy mái tranh mới lợp, bên trong là người dân mình đó, bà con mới trở về sau mùa hè đỏ lửa, cố gắng xây dựng lại một cuộc sống an bình dù chỉ là tạm thời vì cuộc chiến chưa hẳn là chấm dứt. Đất mẹ còn bị phân chia và định đoạt từ mấy trang giấy và những chữ ký từ trời Tây xa lạ, số phận nghiệt ngã của cả dân tộc một lần nữa bị băm vằm chia cắt theo một lũ người cam tâm làm nô lệ lý thuyết Cộng sản hão huyền, xa xôi, không có tính người. Hai phần đất nước - một bên quyết tâm lấy chiến tranh để thỏa mãn giấc mộng thôn tính của mình, một bên cố lấy hết sức tàn còn lại ngụp lặn trong vũng lầy của đồng minh bất nghĩa, quyết gìn giữ cho được hai tiếng tự do.

Tôi và đơn vị đứng đây như những người khách mới, tần ngần ngắm từng đợt, rồi từng đợt sóng lao xao đang vỗ vào bờ. Tôi cố ngước mắt nhìn ra khơi. Phong cảnh chỉ là một vùng biển hoang sơ, chấm phá vài con chim biển, lại có mấy đám chim bay vờn quanh chúng tôi như muốn theo dõi hai đơn vị đang hoán chuyển với nhau vậy.

Thôn Vĩnh Huề.

Đại đội 2 chúng tôi nhận lệnh Tiểu đoàn men theo mép biển, lội bộ sát mép sóng tiến ngược lên hướng Bắc độ 5 cây số thì đến ranh giớI hai bên. Trên bản đồ đề thôn Vĩnh Huề, nó chỉ còn tên trên bản đồ, thực tại là một đồng cỏ hoang vu. Tôi lặng lẽ quan sát quanh mình, họa hoằn lắm tôi mới khám phá ra vài ba nền nhà cũ, nhưng dấu vết thật nhạt nhòa chúng chỉ hơi gợn lên trên một đồng cỏ ẩm ướt gần mấy đầm nước lợ (nửa mặn nửa ngọt). Tôi chợt thấy mấy chữ Vĩnh Huề nghe sao hay hay, vừa đi tôi vừa suy nghĩ miên man: Thanh Hội thì sẽ dành cho ban chỉ huy đại đội, xa xa trong kia là Lễ Xuyên, Long Quang…vùng địa đầu giới tuyến, quê ngoại tôi đồng chua nước mặn thế mà tên từng thôn, từng làng khi đọc lên nghe sao thật văn vẻ, thật chữ nghĩa.

Vừa tới chốt bạn thì tôi đã thấy mấy anh chàng 120 đeo sẵn ba-lô (ballot) đứng chờ bọn tôi từ lâu. Một Trung đội đang chờ chúng tôi tới để bàn giao. Tôi giữ chốt Trung đội thì sẽ được bàn giao chốt Trung đội. Trước mặt tôi là ranh giới hai bên : cờ vàng bên mình được cắm song song cờ “Mặt Trận” phía bên kia. Cứ khoảng vài trăm mét tôi thấy mọc lên hai chốt của hai phe, cứ thế tôi nheo mắt nhìn nó chạy tít vào tận Lễ Xuyên, Long Quang. Lính gác hai phe im lặng canh gác, gờm nhau ngày đêm không sao lãng chút nào. Tôi thấy lạ một điều ranh giới giữa hai phe chỉ sơ sài vài vòng concertina hay ít hàng kẽm gai thưa thớt mà thôi. Ngưng bắn rồi mà! ranh giới cuối cùng là đây, chỉ còn cách Cửa Việt hai cây số thế mà chỉ trong đêm rạng ngày 27-1-1973 lại bị mất vào tay bọn nó, uổng thật. Nếu như Cửa Việt không mất thì giờ này có lẽ chốt tôi cũng đóng ở đó để ngắm chặng hành trình cuối cùng của giòng Thạch Hãn thân yêu. Rồi tôi cũng sẽ đứng ở hai Thôn Hà Tây và Phó Hội mà nhìn qua bên kia cửa sông là phần đất của quận Gio Linh. Nghĩ đến Hà Tây, Phó Hội tôi nhớ lại hồi còn bé hình ảnh mấy ông già nặng chĩu trên vai gánh cá hấp bằng nhiều cái om đất (niêu), rồi bằng chân không họ chạy lên bán tận chợ Tỉnh, hay bán rao xóm này qua xóm khác. Có khi họ gánh lên tận Tỉnh để bán nước mắm và ruốc nổi tiếng ngon cũng từ hai thôn Hà Tây và Phó Hội.


Nói chuyện với phía bên kia.

Một buổi sáng lính Trung đội tôi báo phía bên kia đang cần gặp cấp Chỉ huy.

- Lại chuyện cờ rồi đây - Tôi lẩm bẩm trước khi ra gặp viên Cán bộ phía địch.

Quả đúng như vậy, khi tôi ra đến lằn ranh hai bên thì thấy viên Cán bộ VC đang đứng cách tôi chỉ một lằn kẽm gai, đặc biệt cả hai chúng tôi đều không mang vũ khí. Viên cán bộ đó phản đối chúng tôi đã tự động thay thế một số cờ và y vội kết luận là chúng tôi vi phạm Hiệp định Paris. Tôi cãi lại rằng tôi chỉ thay số cờ bị hư nát chứ không tăng số lượng cờ thì làm sao vi phạm được ? Trong lúc tranh luận với viên cán bộ đó tôi vẫn mang cấp bậc Chuẩn úy trên cổ áo chẵng hề dấu diếm, trái lại viên Cán bộ VC đó chỉ mang phù hiệu ngôi sao trên chiếc nón cối màu xanh lục tiệp màu với bộ áo quần kaki Nam Định y đang mặc. Dù thế nào đi nữa tôi cũng đoán được y ít nhất cũng là chính trị viên Đại đội. Chỉ một lúc viên cán bộ đó chuyển đề tài, y bảo phía VNCH vi phạm trầm trọng Hiệp định, dám chuyển ra phi trường Đà Nẵng đến 500 chiếc F5E luôn. Trong bụng tôi cười cho tên này chỉ nói như con vẹt, Không quân VNCH chỉ mong được 50 chiếc F 5E mà đã có chưa ? Huống hồ gì là tới 500 chiếc. Mà miền Nam có được 500 chiếc F5 thì ngoài Bắc chắc đã bị ‘dập te-tua’ làm gì có chuyện ngưng bắn để giờ tôi phải đứng đây mà phân giải hơn thua. Tôi chỉ hỏi lý viên cán bộ đó một câu: Nếu như có thật 500 chiếc F5 E thì chỗ nào cho phi cơ đậu ? Rồi ví như một Hangar chứa được 2 F5 thị phi trường Đà Nẵng chắc phải chiếm hết diện tích thành phố mới có chỗ cho phi cơ đậu. Trong lúc tôi đang tranh luận với y thì thấp thoáng mấy cán bộ Vẹm mặc áo Bà Ba gần mấy chốt gác bên kia. Tôi hỏi thì y cho biết họ là nữ văn công huyện và đều là người Triệu Phong cả. Có lẽ thấy tôi còn trẻ y không bỏ lỡ cơ hội liền kêu nhóm nữ Cán bộ đó tới và tuyên truyền khuyến khích tôi vượt tuyến về với ‘Cách mạng’ và ‘Nhân dân’ rồi tôi sẽ được trọng dụng. Tôi nhìn thẳng vào mặt y :

- Tôi có lý tưởng để phục vụ, lý tưởng của chúng tôi là bảo vệ nền Cộng hòa và tự do dân chủ cho dân chúng miền Nam , chúng tôi không kêu gọi các anh vào giải phóng. Cuộc chiến các anh gây ra chỉ là xâm lăng mà thôi ! Các anh đã vi phạm khi đang đứng tại đây tuyên truyền lôi kéo tôi bỏ đơn vị theo các anh.

Biết tôi thuộc loại ‘cứng cựa ’ y lãng qua chuyện khác, y thú nhận rằng quê ở Nghệ An mới vào Nam sau ngưng bắn mà thôi, tôi mĩm cười hỏi y :

- Anh là Chính trị viên Đại đội phải không ?

Y hơi giật mình nhưng cũng không dám thú nhận, Thấy cung cách mấy nữ Cán bộ nói thưa với y tôi ngầm biết dự đoán tôi có phần đúng. Giờ thì mấy nàng mới ‘thỏ thẻ’ làm quen với tôi. Đúng như lời viên cán bộ đó nói, các nàng đều nói giọng Quảng trị cả. Thấy tôi cùng giọng Quảng trị hai ba nàng đều hỏi tôi có biêt có quen tên này tên nọ hay không? Dáng mấy nàng e lệ thẹn thùng càng làm cho tôi tăng sức phòng vệ trong lòng. Bài học chống binh vận ở Quân trường còn đó làm sao tôi quên cho được. “Cứ ở đó mà đơi đi em, còn ‘khuya’ anh mới vượt tuyến theo em, hỡi cô du kích!” tôi ngầm tự bảo vệ mình.

Những gì trong lòng đất nghèo nàn.

Thôn Vĩnh Huề chỉ là một đồng cỏ hoang vu ẩm ướt, không một bóng cây ngoại trừ mấy vạt dương ven biển. Đâu bóng dân làng ? Họ đã lưu lạc tận phương trời nào ? Có ngày lính trung đội tôi đào lên một số hầm. Thì ra trước lúc bỏ làng ra đi vì chiến cuộc người dân Vĩnh Huề đã chôn dấu nhiều lu, vại bằng đất nung và tôi thấy nhiều nhất là dĩa nhỏ, nói chung những thứ này không giá trị cho lắm. Mấy người lính trung đội tôi quê ở vùng này thì cho biết rằng: người dân vùng biển có tục lệ phải cúng trước khi ra khơi đánh cá nên họ có thật nhiều dĩa nhỏ, còn lu vại thì để làm mắm hay ruốc, những lu vại nào tốt thì để đựng nước mưa vì dân vùng biển quý nước mưa lắm, chỉ để dùng khi giỗ chạp mà thôi. Có dạo tôi còn nghe đại đội đổn rằng còn đào được cả rương bạc giấy in hình Hồ Chí Minh loại năm trăm đồng. Tôi nghĩ phải vào khoảng thời gian sau 1945 khi Việt Minh cướp chính quyền từ tay Nhật khi đó ngân khố Đông Dương trống rỗng thì Việt Minh mới in ra số bạc lạm phát đó mà thôi.

Đóng chốt bên bờ biển vắng.

Chốt tôi may mắn đóng trên một cồn cát trắng mịn màng.

Một ngày Đại đội trưởng Lê kim Chung (người thôn Bích Hà -Triệu phong QT) điều Trung đội tôi ra ‘ém’ (đóng chốt chận) sát biển. Tôi còn chịu trách nhiệm với khẩu cối 81 ly (millimet) của tiểu đoàn 105 tăng phái vì chốt tôi đóng sát với ‘làn chỉ xanh’ (mạn biển), Hạ sĩ Oanh được Tiểu đoàn tăng phái cho tôi làm xạ thủ cho khẩu cối đó.

Mới tới chốt Oanh loay hoay đặt khẩu cối cho cân bằng, xong chàng ta lại cẩn thận cắm mấy cọc tiêu cần thiết. Dĩ nhiên mấy vị trí hầm trú ẩn phía địch cái nào coi bộ to lớn, quan trọng Oanh vào mục tiêu tính sẵn cho khẩu cối trước. Hầm của tôi nằm gọn trong một đụn cát lớn, cát màu trắng tinh, hầm lại kín đáo trong mấy lùm dương. Tôi chỉ có một Poncho cũ tạm làm chiếu thế mà chỉ mấy phút cát lại phủ đầy.

Ngày đầu ra mạn biển, thứ chúng tôi cần nhất là nước. Đừng tưởng chúng tôi đóng quân sát biển là ngồi chịu cơn khát nước hành hạ, trái lại chúng tôi chỉ cần đào lên một hố xấp xỉ một mét là có nước ngọt ngay thôi. Điều này cũng dễ hiểu vì mặt bằng của biển ngoài kia thấp hơn mặt đáy túi nước ngọt đọng dưới lớp cát chúng tôi đang đóng quân. Thế, lính truyền tin gặp may vớ đâu ra được nửa tấm tôn cũ rồi Thế uốn cong lại làm thành giếng, cuối cùng Trung đội tôi có được một giếng nước ngọt quý giá vô cùng. Nón sắt làm gàu, chỉ cần với tay tôi có ngay một gàu nước ngọt thơm tho không lẫn mùi phèn như cái giếng trong chốt Đại đội. Nhưng chúng tôi không dám tham lam đào sâu thêm nữa vì chỉ sâu thêm ít nữa là giếng sẽ bị nhiễm mặn ngay. Tôi chợt nghĩ đến Linh, Trung đội trưởng súng nặng; có lẽ cái số nó dính liền với chữ nặng nên người nó không được cao lắm nếu tôi không muốn nói rằng ‘lùn’. Cái thằng - miệng khi nào cũng ồn ào, cứ ‘lè-kè’ bên Đại đội trưởng Lê kim Chung, nhưng dù sao nó cũng được lòng Đại đội trưởng Chung hơn tôi nhiều.

- Chừ thì mày làm sao thoải mái bằng tau hả Linh ? Tau chừ thì ở xa ‘mặt trời’ (ám chỉ Đại đội trưởng), tau lại có nước trong có cả biển thơ biển mộng nữa đây nghe Linh - Tôi thầm đắc ý một mình.

Tôi lại nhớ đến mấy thằng Trung đội trưởng khác đều mới ra trường như tôi, lại cùng về chung một Đại đội 2 này. Nào Tùng, nào Ngọc cũng là dân Huế như thằng Linh, Tùng và Ngọc thì ít nói hơn, trầm tĩnh hơn. Bốn Trung đội trưởng chúng tôi cùng xếp áo thư sinh tòng quân sau mùa Hè đỏ lửa 1972, lại cùng gặp nhau nơi tuyến đầu Quảng Trị này. Trong lúc đó, dân Nguyễn Hoàng như Thái Đào cũng khoác áo Ka ki một năm nhưng lại phục vụ ngược vào xứ Huế. Số phận Thái Đào thiếu may mắn, chỉ một thời gian ngắn ra đơn vị nó đã trở thành Phế binh cụt mất một chân.

Chuyện thực tế tiếp đến là củi, lính chúng tôi chỉ dám thu dọn rồi gom lá dương khô mà nấu ăn thôi. Chúng tôi phải gìn giữ mấy tàng cây rậm để ngụy trang ẩn nấp. Hơn nữa đất ven biển rất cần mấy hàng dương này để chống nạn cát lấn dần vào phía trong. Chốn biển vắng vẻ buồn tênh, đôi khi tôi cũng có cảm hứng ngồi một mình ngắm trời mây và lắng nghe tiếng dương reo theo gieo gió. Trời vào hạ rồi đây, mấy tuần này gió Lào bắt đầu thổi mạnh. Sóng biển ban ngày bị gió Lào thổi ra cản lại nên chỉ thấy lăn tăn, đến lúc chiều về trời trở Nồm đưa gió vào lại đất liền sóng mới lớn hơn và lúc này tôi mới nghe rõ tiếng sóng vỗ vào bờ cùng làn gió mát lạnh sãng khoái vô cùng.

Đùa chơi với sóng nước.

Biển sát cạnh tầm tay, trung đội tôi lo xong chuyện ‘cơ ngơi’ mới rủ nhau ra tắm biển. Thế là cả một toán ‘đực rựa’ lột phăng hết áo quần để trở về với thời nguyên thủy. Dĩ nhiên ở vùng hoang vắng này làm gì có bóng đàn bà để phải ngượng ngùng. Cả một toán đàn ông không áo lẫn quần giữa thanh thiên bạch nhật dàn một hàng ngang ra hụp lặn đùa chơi với sóng nước. Khi đang nhấp nhô với sóng biển, tôi chợt nhận ra một đám nuốt, chúng như những cánh bèo trắng lờ đờ, bập bềnh theo sóng dạt vào bờ. Chẳng suy nghĩ tôi chụp một con nuốt đưa vào miệng nhưng tôi vội phun ra ngay vì nó cay và rát miệng vô cùng !

- Nuốt lửa đó Chuân úy ơi !

Lợi, xạ thủ M.79 của trung đội đang bơi gần tôi thấy vậy vội kêu lên. Lợi dân làng Phó Hội nên rành những thứ ở biển lắm.

Làn nước trong xanh vào buổi sáng cho tôi thấy rõ từng đàn cá lướt qua vun vút. Tôi tưởng tượng như đang ở tại một hoang đảo nào đó, mà ở đây hoang vắng thật ! Cố nhướng mắt nhìn ra khơi tôi nhận ra phần đỉnh của đảo Hòn Cỏ, nhưng đảo này thuộc về phía địch.

Hưởng xong thú tắm biển, một lần nữa cả bọn mình trần trụi ‘hiên ngang’ vượt qua bãi cát trống trở về chốt. Chúng tôi cũng biết dội lại nước ngọt từ cái giếng của trung đội, riêng tôi được ưu tiên hai gàu nước còn mỗi người còn lại chỉ một gàu thôi thì giếng đã cạn khô rồi, phải chờ nửa buổi nữa giếng đầy lại.

Cuộc vui nào cũng qua mau, cảnh tĩnh mịch lại trở về với chúng tôi. Càng trưa ngọn gió Lào càng thổi ra mạnh. Cát bay khắp nơi, nhìn dọc theo bờ biển, gió cát tạo thành từng lớp mây vàng nhạt. Tôi vội lấy nửa tấm Poncho cũ che cho chiếc máy truyền tin PRC 25. Tôi rất quý chiếc máy truyền tin này vì nó là nguồn liên lạc là mạng sống của cả trung đội. Có tiếng súng nổ phía Long Quang, tiếng M16 xen lẫn tiếng AK, thỉnh thoảng xen lẫn vài tiếng nổ lớn. Hướng đó có vài đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang đóng xen kẽ với tiểu đoàn chúng tôi. Tôi lại nghĩ : “Tụi ‘Vẹm’ nó gặp TQLC thì chỉ biết M72 ‘thụt’ thấu chốt, chứ không mất thì giờ đứng nói phải trái như Địa phương quân đâu !”

Quả đúng như thế, truyền tin tôi liên lạc về Đại đội thì được biết tuyến Lễ Xuyên có đụng độ, sau khi bị TQLC ‘dện’ (bắn mạnh) mấy trái M72 làm sụp luôn mấy chốt của mấy chú ‘Vẹm’ khiến tụi nó ‘im vòi’ luôn không bắn AK qua nữa.

Chiều buông xuống thật lẹ. Tôi nhìn về hướng Tây, dãy Trường Sơn in đậm nét trên nền trời của một buổi chiều vàng. Tôi lại ngoái nhìn ra khơi, mặt biển từ từ tối dần lại. Lác đác vài cánh chim còn uể oải bay men theo bờ. Thật sự gió Nồm đã trở từ lâu, đưa ngọn gió mát rượi vào đất liền. Trong những khoảnh khắc sảng khoái của một buổi chiều tà ven bờ biển vắng, tôi cùng Lợi lấy miếng xốp khá lớn bị sóng đưa vào bờ lúc sáng sớm đem ra đẽo thành một chiếc thuyền nhỏ, còn cánh buồm thì Lợi làm từ một miếng tôn rách. Xong xuôi tôi không quên thêm vào một bánh lái đằng sau , phía trước tôi viết hàng chữ ‘Cửa Việt River mouth’.

Sáng dậy, chờ cơn gió Lào thổi ra mạnh, hai đứa chúng tôi đem thả con thuyền nhỏ ra biển. Thuận buồm xuôi gió, chiếc thuyền bé tí của chúng tôi theo làn gió đưa ra tít ngoài khơi. Một chút tưởng tượng, tôi chống nạnh đứng nhìn theo chiếc thuyền nhỏ từ từ mất hút, lòng tôi nửa hãnh diện như đã làm được một công trình vĩ đại, nửa như lưu luyến một người bạn vĩnh viễn ra đi. Tôi thầm ước mong một bến bờ nào đó có ai vớt được thuyền tôi, với hàng chữ ghi trên thuyền họ sẽ biết nơi phần đất này còn có sự hiện hữu của bọn này.

Cá ơi là cá ! Nhiều quá đi.

Mùa tháng Hạ (hè), cánh đồng trũng nước khô đi nhanh chóng. Cá nước lợ thiếu nước nằm chờ chết khắp nơi. Mới mấy năm dân bỏ đi khỏi đây, cá sinh sôi nảy nở nhiều vô số. Lúc này đàn chim biển tha hồ bay vào bắt cá; từng đàn cá giãy đành đạch trên mấy thảm cỏ nước đang khô dần. Tuy vậy Lợi hứa sẽ dẫn Trung đội đi hốt cá chứ không thèm ra bắt mấy thứ cá nhỏ như vậy. Lợi, tôi cùng một vài lính Trung đội men theo mép biển đi về hướng Nam, cách chốt chừng ba cây số thì gặp một bàu nước lớn nằm cách bờ biển chỉ vài trăm mét. Lợi hướng dẫn mọi người dùng xẻng đào một đường hào dài và sâu hơn nửa mét cạnh bàu nước hướng nhìn ra biển. Đào xong đường hào thì trời đã xế chiều, Lợi bảo tất cả ra về chờ khuya sẽ đi hốt cá. Tôi tuy nghe vậy nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ.

Chờ tới khuya khoảng một giờ sáng Lợi đánh thức cả bọn dậy đi hốt cá thật. Lợi không quên đem theo ba cái bao lớn nữa. Tôi kiểm soát lại vọng gác thật đàng hoàng rồi theo Lợi hướng về bàu nước.

Chúng tôi lầm lủi đi trong đêm. Trời về khuya khá lạnh, không gian chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Chúng tôi cứ theo mép sóng mà đi. Sóng biển về đem lấp lánh ánh lân tinh. Bầu trời thỉnh thoảng có vài ánh sao băng xẹt ngang, tôi vừa đuổi theo cho kịp bọn vừa ngắm ánh sao băng thấy chúng như đang chui vào lòng đại dương vậy. Gió đêm càng về khuya càng lạnh dần. Đêm nay chúng tôi đang đi trong một chiến tuyến an bình vì không nghe một tiếng súng nào. Đi hơn nửa giờ thì chúng tôi đã đến con hào cạnh bàu nước chiều qua. Trời ơi ! tôi không thể ngờ cá nhiều đến như thế: cá chen chúc nhau dưới đáy con hào, chỉ toàn là cá lóc mà chúng tôi thì quen gọi là cá tràu. Bọn tôi vui sướng thi nhau hốt cá đựng đầy cả ba cái bao gạo mà Lợi đem theo. Chúng tôi thay phiên nhau vác mấy bao cá nặng chỉu về chốt. Trên đường về Lợi mới giải thích cho tôi hiểu: thì ra mùa Hạ nước trong bàu cạn dần, mấy chú cá nhất là cá tràu và trê, ban đêm chúng cảm nhận theo tiếng sóng biển mà ‘cằn’(trườn) ra, thế là chúng rơi hết xuống con hào chúng tôi đã đào. Tôi thực sự bái phục kinh nghiệm của Lợi, một người dân sinh ra từ vùng biển mặn.

Về đến chốt chúng tôi đem cá nhốt ngay vào cái thùng phuy (puits) mà Lợi kiếm đâu ra từ lúc nào. Cá trê và rô thì bị nhốt riêng ra vì mấy cái ngạnh nhọn hoắc của chúng biến chúng thành mấy tên ‘sát thủ’ đáng sợ, chỉ cần sơ ý để đám này lẫn lộn vào đám cá tràu một lúc thôi thì đã có mấy con tràu chết lật ngửa bụng trắng hếu.

Mong chờ xe tiếp tế.

Ban chỉ huy Trung đội gồm : tôi, Binh nhất Thế mang máy truyền tin PRC25, Trung sĩ nhất Thản, Trung đội phó của tôi; tôi hay gọi Trung sĩ Thản là Bố Thản vì ông đã gần 20 năm lính, dấu chân ông cũng lội gần khắp Vùng I chiến thuật. Bố Thản cũng sắp đến tuổi về hưu. Cuối cùng là Hạ sĩ Sơn; Sơn lo chuyện nấu ăn nên hay lo xa, cá nhiều quá ăn không hết thì đem phơi khô.

- Sắp đổi lên núi rồi , Chuẩn úy nờ. Sơn nói với tôi.

Hạ sĩ Sơn cũng thuộc loại lính khá kỳ cựu trong trung đội nên chu kỳ đổi quân như thế nào thì Sơn kinh nghiệm lắm. Đồng bằng ra biển, chặng thứ ba thì lên núi chứ có nơi nào khác đâu. Chúng tôi đóng quân một nơi vài ba tháng là hoán chuyển thôi. Sơn kinh nghiệm rằng lên núi chỉ lo thủ chốt cho kỹ nên không có mưu sinh như ở đây được. Thể là hai tuần nay tôi bắt đầu để ý lên hướng núi. Ban đêm hướng Trường Sơn, núi đang bị cháy liên tục, làn lửa dài như con rắn vàng cứ cháy leo lét. Trận cháy rừng này lâu nhất kéo dài gần một tháng và thật kinh khiếp, nghe Tiểu đoàn cho tin tức : cháy rừng thuộc căn cứ Động Ông Do và lửa rừng đã thiêu sống luôn một chốt TQLC nhưng tôi không biết đơn vị nào ?

- Ngày mai có tiếp tế rồi - Chuẩn úy ơi !

Tiếng Sơn nhắc nhở làm tôi thấy vui hẳn lên. Mà thật sự ai nấy trong đơn vị này đều cùng chung một tâm trạng giống tôi. Ai cũng mong ngày tiếp tế mau về lại. Đóng quân lâu ngày ở một nơi hoang dại anh lính nào cũng mong mau thấy lại bóng dáng chiếc xe tiếp tế của tiểu đoàn; mặc dầu nó đã cũ kỷ, ọp ẹp nhưng lại là niềm vui trong đơn vị. Cứ cách hai tuần chiếc xe quen thuộc đó về một lần tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi mường tượng chiếc xe đó mỗi khi về lại mang theo một ít hơi hám của chốn thị thành; Diên Sanh, Mỹ chánh ư ? Hay Phò Trạch, mà nếu là Huế thì càng tốt, vì tôi không cách Huế bao xa mà hình ảnh phong kẹo mè xững Huế, cái tên Song Hỷ giờ tôi nghe sao quá xa vời. Chiếc xe đó còn mang ra chốn này những niềm vui cho lính bằng những cánh thư gia đình hay từ người yêu của mấy anh lính trẻ. Tôi thì cô đơn hơn, lính mới ra trường, hai mươi mốt tuổi đời. Tôi thực sự chưa có mối tình đầu nào làm hành trang mang vai để nhớ để thương cả.

Sáng dậy, quả đúng là một ngày hội cho Đại đội 2 này. Mỗi trung đội chỉ cắt năm sáu lính ra bãi biển chờ đồ tiếp tế thế mà khi tất cả tụ lại trên bãi biển cạnh chốt tôi đang đóng thì nghe sao mà ồn ào rộn rã. Tiếng cười tiếng nói, mày tau í ới, lẫn tiếng văng tục ‘loạn xà ngầu’. Trung đội tôi đóng cạnh bãi biển thì thong thả đi vài ba bước là đến chỗ đợi. Tôi hướng mắt trông theo sát mép biển về hướng nam, chiếc GMC vừa đổ hàng xong cho BCH tiểu đoàn ở Ba lăng nó đang theo mép biển đi ra hướng chúng tôi . Lúc đầu thấy nó chỉ là một chấm đen rồi hình dáng thân yêu của nó cáng lúc cáng rõ dần.

- Xe đến rồi tụi bây ơi !

Có tiếng anh lính nào reo lên. Từ trên xe, trung sĩ nhất Thĩu, Hạ sĩ quan tiếp tế Đại đội vội nhảy xuống xe. TS Thỉu dáng người khô khan, nước da ngâm đen, vừa phân phối thức ăn vừa nói lớn để mọi người cùng nghe :

- Kỳ ni đồ ăn tươi là bính ngô và thịt heo thôi nghe.

Thức ăn tươi chia về từng Tiểu đội độ nửa ký thịt heo và góc trái bí ngô, chỉ trong ngày đầu là hết sạch. Những thứ còn lại gồm hai ba lon thịt heo hay thịt ngựa của quân nhu VNCH, thêm ít ruốc và vị tinh ( bột ngọt), mấy thứ sau này thì phải tiết kiệm tính toán ăn làm sao cho đến giáp vòng tiếp tế khác. Còn gạo thì chia cứ mỗi đầu người một ngày một ca ‘y-nốc’ (inoxidable) đong đầy - gạt sát, thế là xong, đơn giản lắm.

- A còn một ít thư cho anh em đây !

Trung sĩ Thỉu vừa đưa thư vừa lo chuyển đồ cho BCH Đại đội.

Giờ mới đến lúc chúng tôi lo chuyện đổi chác thùng phuy cá. Sau một lúc kỳ kèo thêm bớt, Trung sĩ Thỉu chịu đổi thùng phuy cá với 2 ‘tút’ (toutes) thuốc lá Bastos luxe thế Bastos xanh vì loại Bastos Luxe hút ‘phê’ (effet) hơn.

- Nhưng phải chờ kỳ tiếp tế sau mới có đó nghe.

Thỉu hứa hẹn với chúng tôi như vậy.

Gần cả Trung đội hì hục một hồi cuối cùng thùng cá nặng nề cũng lên được trên xe. Tôi thở phào nhẹ nhõm, thà chịu thiệt một ít mà có thuốc chia nhau hút còn hơn ôm hết cá mà ăn thì chỉ có ngồi đây mà gãi sưng phù cả người thôi.

- Nhớ mấy tút thuốc nghe Trung sĩ Thỉu, chúc bồ mua may bán đắt, vào chợ Diên Sanh mà ‘thẩy’ (bán vứt) nó đi nghe .

Chiếc xe GMC chạy rồi tôi còn đứng nói vói theo. Tình huynh đệ chi binh là thế đó; lính tráng xa nhà chia ngọt xẻ bùi, có nhau từng điếu thuốc, thân thiết như anh em, nhất là cùng mang thân phận làm lính sát cánh bên nhau trong lửa đạn chiến chinh. Tôi hơi tức cười trong lòng nhớ lại lời nói kiểu ngắn gọn nhà binh khi lính trung đội tôi nghe chung một chiểc radio bé nhỏ : “Mở cái đài (radio) - sang ngang (đổi băng tầng) - không Thúy (ca sĩ Thanh Thúy) thì Tuyền (ca sĩ Thanh Tuyền).” Tôi vừa nghĩ đến sự hồn nhiên chất phát của mấy anh lính Trung đội vừa nhìn theo hình bóng chiếc xe tiếp tế chạy xa dần rồi khuất hẳn trong màn gió cát vàng nhạt. Chúng tôi mang đồ trở về chốt. Hôm nay Lợi, Phê. Sơn lo vá lại mấy mãng lưới rách đã từng bị chôn vùi trên bãi biển này. Tối nay chúng tôi sẽ đi kéo tôm tại mấy bàu nước lợ gần quanh đây.

Tàu Việt cộng bị đánh chìm.

Một buổi sáng, đang đánh răng tôi bỗng khựng lại và rất đỗi ngạc nhiên; lần đầu tiên tôi thấy một con tàu xuất hiện. Con tàu đang chạy về hướng Nam chỉ cách bờ vài trăm mét , tốc độ tàu vừa phải không có gì vội vã. Trên nóc con tàu lại ung dung cắm một lá cờ ‘Mặt trận giải phóng’ đang phất phới bay.

- Đúng là tụi nó lạc đường rồi.

Tôi chạy bay vào hầm trú ẩn bốc máy liên lạc trực tiếp với BCH Tiểu đoàn, còn Thế thì báo động cho cả Trung đội. Bên kia đầu dây, tôi nhận ra giọng nói của Đại úy Trần quang Hiền, Trưởng ban 3 Tiểu đoàn. Tôi báo cáo tất cả chi tiết của con tàu địch cho anh Hiền. Sau ít phút anh Hiền cho tôi biết anh đã báo lên cho Sư đoàn TQLC, anh Hiền còn ra lệnh cho tôi chuẩn bị gấp ‘Con gà cồ’ tức là khẩu cối 81 ly đang ở cạnh tôi, chờ tàu địch nếu chạy lui là tác xạ ngay. Hạ sĩ Oanh lăng-xăng chuyển nòng khẩu cối ra hướng biển, xong lại tháo ra sẵn một số đạn bỏ bên cạnh khẩu cối. Tôi vừa tiếp tục liên lạc nhưng trong bụng thì cứ lằm bằm :

- Mục tiêu di động bắn bằng cối thì được gì ! phải chi có khẩu 106 ly như trên đó thì hay hơn không ?

Nhưng con tàu lạc lối đó không có chạy trở lại, nó cứ cắm đầu chạy đến Mỹ thủy cho đến khi có 2 chiếc HU- 1B của Sư đoàn TQLC bay ra vần vũ trên đầu thì nó mới biết lạc đường vội quay mũi lại nhưng đã quá muộn.

Tôi đứng trên một gò cát cao nhìn về hướng Mỹ Thủy, từng tràng Rocket từ hai chiếc trực thăng chiến đấu bắn xuống, rồi một cột khói trắng bốc lên thật cao trên biển. Hôm sau tôi biết được tin chiếc tàu đó đã bị bắn chìm vì không chịu hàng và cả thảy 17 thủy thủ đều chết theo con tàu. Người nhái của Sư đoàn TQLC đang lo trục vớt chiến lợi phẩm khoảng mấy chục tấn hàng. ( Sau này khi khi đơn vị tôi đổi lên núi tôi mới biết thứ chiến lợi phẩm đó đa số là thịt heo Trung cộng - loại đóng hộp 500 gram). Đơn vị tôi cũng được chia mỗi Tiểu đội khoảng 2 hộp.)

Chiều chiều tôi nhìn lên hướng Trường Sơn. Sự yên lặng sớm trở lại trên tuyến biển của tỉnh địa đầu. Và cứ thế ban mai tôi có dịp chiêm ngưỡng cảnh bình minh huy hoàng trên mặt biển, rồi chiều về tôi lại ngắm ánh tà dương từ từ khuất dạng sau dãy Trường Sơn, phương đó đang ngóng chờ những gót giày đơn vị chúng tôi nay mai trở lại.

Giờ đây, ngoài kia biển của Quê hương tuy năm tháng sóng vẫn vỗ rạt-rào, biển đang đợi bóng dân về nên sóng mãi quạnh hiu.

Xuân Khê

No comments:

Blog Archive