Chuyện hồi hương của tàu Việt Nam Thương Tín
Vương Thế Tuấn & Trần Đỗ Cẩm
Trong bối cảnh rối loạn của những ngày cuối tháng 4/75 thì sự ra đi của Hạm Đội HQVN là một cuộc di tản hoàn hảo đã làm HQVN hãnh diện. Nhưng bên cạnh những hạnh phúc tột cùng của những người ra đi được đầy đủ gia đình thì bên cạnh đó là nỗi bất hạnh không tả siết của một số các Hạm Trưởng và các Thủy Thủ Đoàn đã không đem được gia đình vợ con mặc dù họ đã chu toàn nhiệm vụ thật xuất sắc trong chuyến hải hành cuối cùng.
Do đó khi viết về Hạm Đội ra khởi chúng ta không thể nào bỏ qua chiếc Thương Thuyền Việt Nam Thương Tín vì thủy thủ đoàn của con tàu định mệnh này được thành hình từ các Hạm Trưởng và Đoàn Viên kém may mắn. Sau khi chính phủ Hoa Kỳ đồng ý chọn chiếc tàu VNTT làm phương tiện cho những người muốn hồi hương. Vào trung tuần tháng 8 năm 1975 trong số 200 cựu nhân viên HQ tại trại hồi hương Asan. Cựu HQ Trung Tá Trần Đình Trụ TLP/HQ/V5DH đã được mọi người bầu làm Thuyền Trưởng và một danh sách thủy thủ đoàn được thành hình dựa theo các ngành nghể của từng người. Anh Trần đình Trụ K 8 HQNT đã từng làm HT của nhiều chiến hạm: PGM, LSSL-229, LSM -403, LST. Cuối năm 1972 anh được chỉ định làm Hạm Trưởng để nhận lãnh Tuần Dương Hạm Ngô Quyền HQ 17 tại Philippines do Hoa Kỳ chuyển giao. Chức vụ cuối cùng của anh là TLP/HQ/V5DH. Đêm 29/4 trong giờ hấp hối của Saì Gòn anh đã ra đi từ BTL/HQ trên HQ 406. Khi tới Guam vì kẹt gia đình anh đã xin hồi hương bằng tầu VNTT. Phần tôi vào đầu năm 1967 sau khi đi thực tập Đệ Thất HĐ về tôi được thuyên chuyển xuống chiếc HQ 229 cũng là lúc anh Trụ rời chiến hạm để đảm nhiệm một đơn vị trên bờ. Anh Trụ là vị HT đầu tiên của HQ 229 và tôi là HT thứ 13 và cũng là HT cuối cùng của HQ 229. Như một định mệnh chúng tôi đã chở thành TT và TP của chiếc tàu hồi hương Việt Nam Thương Tín (VNTT).
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta cần tìm hiểu lý lịch và những hoạt động của tầu VNTT trong những ngày cuối Tháng Tư Đen. Sau đó sẽ đi sâu vào chi tiết về chuyến trở về của con tầu định mệnh này.
Thương thuyền Việt Nam Thương Tín 1, thường được gọi là tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT) là chiếc tầu viễn dương đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mua lại năm 1968, thuộc Công Ty Việt Nam Hàng Hải (VNHH – Vietnam Marine Lines Co, Inc), Tổng Giám Đốc VNHH là ông Dương Liên, trụ sở ở đường Tôn Thất Đạm. VNHH là một công ty đầu tư trực thuộc ngân hàng VNTT; ngân hàng này là phân bộ chuyên về thương vụ của Ngân Hàng Trung Ương Quốc Gia VN, bắt đầu hoạt động kể từ tháng giêng năm1956 với số vốn 200 triệu đồng trích từ ngân hàng trung ương. Ngân hàng VNTT sau phát triển thành ngân hàng ngoại thương lớn nhất của VNCH, ông Lê Tấn Lộc là Tổng Giám đốc cuối cùng. Huy hiệu quen thuộc của ngân hàng VNTT là trương mục tiết kiệm “Con gà ấp trứng vàng”.
Tầu VNTT do công ty Finantieri của Ý đóng vào năm 1956 mang tên Pietro Canale. Năm 1962 hãng Nouvelle Compagnie Havraise Peninsulaire của Pháp mua lại và đổi tên tàu thành Ville de Diego-Suarez 2 (tên của một hải cảng nổi tiếng ở cực bắc của đảo Madagascar). Được ba năm thì tầu sang tên cho Panama, đặt là Sonia. Năm 1968 hãng VNHH của VNCH mua lại.
Tầu VNTT dài 148m, rộng 19m, vận tốc 14 hải lý, trọng tải 10965 tấn. Tầu được trang bị với 1 chân vịt, 1 máy chính 2 thì của hãng FIAT, mạnh 5,500 mã lực, 3 máy phát điện.. Thủy thủ đoàn gồm từ 42 đến 45 người với 14 Sĩ quan. Vào năm 1975, Thuyền Trưởng (Quan Tầu) tầu VNTT là ông Võ Kiết Triệu, Thuyền Phó (Goòng) là Dương Tấn Kim Sanh, Cơ Khí Trưởng (Xếp Máy) là Phùng Văn Gạt.
Tầu VNTT thường ghé Phi Luật Tân chở đường (sugar) xuất cảng sang Hoa Kỳ; chuyến về thường chở sản phẩm nông nghiệp như gạo, bắp, lúa mì … từ Hoa Kỳ chở về Sài Gòn. Ngoài những chuyến hải hành viễn dương, tầu VNTT còn chạy đường cận duyên, chở gạo ra các tỉnh miều Trung VN.
Vào hạ tuần tháng 2-75, tầu VNTT ghé Phi Luật Tân và Nhật Bản. Sau đó, trên đường đi Úc để lấy sữa bột. Đần tháng 4, vì tình hình chiến sự sôi động ở miền Trung, thuyền trưởng Vỏ Kiết Triệu xin cho VNTT trở về Việt Nam để thủy thủ đoàn có dịp về đoàn tụ với gia đình trong lúc tình thế sôi động để lo cho thân nhân. Mãi 2 ngày sau trong lúc chuẩn bị đón hoa tiêu để dẫn vào cảng Sydney, VNTT nhận được chỉ thị từ công ty phải trở về Sài Gòn gấp, lúc đó là ngày 10-4-1975. Ngày 17 tháng Tư 1975 tần VNTT về đến Sài Gòn, cột vào hai phao nổi bên ngoài kho 5 bên Khánh Hội thuộc cảng Nhà Rồng.
Cho tới ngày 29-04 tình hình nghiêm trọng, hàng trăm người đã tụ tập đông đảo, mát trật tự ở các ở bờ sông Bạch Đằng và Khánh Hội nơi các tàu buôn còn đậu ở đó. Đêm 29/30-04, các chiến hạm Hải Quân ra khơi. 8.00 giờ sáng ngày 30-04, tầu rời phao 1 ngoài sông vào cập bến kho 5 Khánh Hội. Thuyền trưởng Võ Kiết Triệu rời tầu về đón gia đình, trong lúc nhiều gia đình có liên hệ với tầu VNTT đã chờ sẳn ở kho 5 cùng với một số người may mắn vào được bên trong cổng số 5 hối hả lên tàu.
Tổng Thống Dương văn Minh ra lệnh buông súng lúc 10.00 giờ. Khoảng gần trưa, trong khi chờ đợi gia đình Thuyền Trưởng, một số quân nhân trên tầu hối thúc và áp lực thủy thủ đoàn phải rời bến gấp. Lúc nầy tình hình đã rất hỗn loạn, nhiều người chen lấn nhau lên tầu nên phải chặt giây tách bến. Khi tầu đã rời cầu, gia đình của thuyền trưởng và thuyền phó cũng vừa đến, nhưng tầu đã xa bờ nên bị bỏ lại, do đó sĩ quan phụ tá (Dịch) Nguyễn Nhứt Thống trở thành Quan Tầu (thuyền trưởng) đưa tầu ra khơi.
Những gia đình có liên hệ với VNTT đã chờ sẳn ở kho 5 để theo VNTT1 sáng ngày 30-04-1975 gồm gia đình ông Nguyễn Nhứt Thống, gia đình ông Dương Liên, TGĐ Công Ty VNHH, ông Lê Tấn Lộc TGĐ Ngân Hàng VNTT, ông …Cơ, GĐ.. Ngân Hàng VNTT. Trong số 750 hành khách có ông cựu Bộ Trưởng Kinh Tế Châu Kim Nhân, 1 Thẩm Phán, 1 Dân Biểu, 2 Hoa Tiêu tàu biển, 2 Bác Sĩ, nữ Ca sĩ Phương Hoài Tâm, tất cả còn lại là Quân, Nhân, Công, Cán các cấp của VNCH trong số có 5 Đại Tá.
VNTT không có dự định di tản gia đình hay ít ra là Thủy Thủ đoàn không nghe hay nhận được chỉ thị nào từ ban giám đốc. Nhưng vì phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích và hổn loạn vào ngày chót, máy bay không cất cánh được, quí vị của VNTT và của VNHH đã không được không vận, nên con tàu VNTT1 là phương tiện cứu cánh cuối cùng của quí vị đó và cũng là cái may mắn cho số hành khách tức thời của sáng ngày 30-04. Trong khi đó, phần đông thủy thủ đoàn và gia đình của họ không có cơ hội để cùng di tản với VNTT.
Tầu vừa qua khỏi cầu Tân Thuận thì bị B 40 bắn từ phía Thủ Thiêm làm lủng một lổ dưới mặt nước. Khi đến Nhà Bè, tầu bị bắn lần thứ 2 cũng từ phía bên trái, nhưng không tổn thương nhân mạng. Vừa qua khỏi Nhà Bè, tầu lại bị bắn lần thứ 3 bằng thượng liên bắn thẳng vào đài chỉ huy nơi một số hành khách đang ngồi núp phía dưới làm cho nhà văn Chu Tử và một em bé tử thương và 20 người khác bị thương. Sau đó VNTT tăng máy tối đa, ra khỏi sông Sài Gòn, tới Vũng Tàu.
Trên đường tới gặp chiến hạm Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 ngoài hải phận quốc tế, một buổi lể thủy táng đơn sơ cho hai nạn nhân tử thương đã diễn ra với sự hiện diện của đại diện Thủy Thủ đoàn và hành khách trên tàu. Dựa vào báo cáo của Thuyền Trưởng về tình trạng của VNTT, điều kiện an toàn của tầu và hành khách, số người bị thương, số lượng hành khách… Hạm Đội 7 chỉ thị VNTT trực chỉ Subic Bay.
Sáng 03-05-1975, 10.00 giờ, VNTT đến Subic Bay, Phi Luật Tân. Số người bị thương được đưa lên trại Subic Bay điều trị. Tầu được tạm thời vá lỗ thủng ở vỏ tàu, tiếp tế thực phẩm cần thiết và được chỉ thị tiếp tục hành trình đến đảo Guam. Tầu đến Guam ngày 09-05-1975, cập bến lúc 16.00 giờ để chuyển số hành khách lên trại tị nạn ASAN, rồi trở ra neo trong vịnh. Gia đình của thủy thủ đoàn và các nhân viên quản trị của VNHH được phép ở lại trên tàu cho đến khi có chỉ thị mới của nhà chức trách trại ASAN.
Tầu VNTT là chiếc đầu tiên di tản đến Guam. Những ngày sau đó, có tầu Tân Nam Việt đến ngày 15-05-1975, tầu Trường Hải và HQ 500 ngày 22-05-1975, tàu Đồng Nai và Đại Dương ngày 23-05-1975.
Ngày 12-07-1975, thủy thủ đoàn còn lại trên tầu được lệnh rời khỏi VNTT, nhập trại ASAN để làm thủ tục di cư đến Canada. Ngày 21-07-1975, nhóm thủy thủ đoàn rời trại ASAN Guam, lên máy bay qua trại Pendleton, California để làm thủ tục khám sức khỏe và visa vào Canada, ngoại trừ một số ở lại California, bắt đầu sống mới nơi xứ lạ quê người!
Cuối tháng 10, 1975, chính phủ Hoa Kỳ đã dùng VNTT để đưa 1600 người đòi trở về Việt Nam. Thế là chúng tôi mãi mãi không còn gặp lại VNTT1 nữa.
Sau này, thuyền trưởng Võ Kiết Triệu và Xếp Máy Trần Văn Đúng bị Việt Công bắt ra Nha Trang dẫn tàu VNTT về Sài Gòn và đổi tên Vũng Tàu và bị phế thải năm 1986.
Vào cuối tháng tư đen khoảng 130,000 dân tỵ nạn rời khỏi VN bằng đường hành không hay đường biển. Ngoại trừ một số ít tới những trại phụ như đảo Wake, đa số được đưa đến Guam. Những người đầu tiên được ở hotel hay appartment, về sau ở trong những trại lính cũ nhưng vẫn không đủ chỗ vì dân tỵ nạn đến mỗi lúc một đông nên có thêm những trại tỵ nạn như Asan và nhất là ở “Tent Cicy” Orote Point, còn được gọi là Camp Rainbow có dân số đông nhất đếm được tới 39,331 người. Nhờ được phỏng vấn và di chuyển vào nội địa Hoa Kỳ nhanh chóng, dần dần số người tỵ nạn giảm đi rất nhiều.
Tới tháng 8-75 khi những hoạt động của cơ quan di trú đóng cửa, chỉ có văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ hoạt động chỉ còn khoảng 5,000 người, trong số này có chừng 3,000 chưa chịu đi định cư, ghi tên trở về VN, trong số này đa số là quân nhân không mang theo được gia đình. Họ được chuyển tới 4 trại khác, tương đối tiện nghi hơn là Black Construction, J&G, Hawaian và Barrigada. Những người muốn về VN biểu tình, tuyệt thực và đôi khi bạo động để gây áp lực đòi hồi hương sớm.
Đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ là thiếu tướng hồi hưu Herbert sau nhiều lần tiếp xúc và thương thuyết, đồng ý để những người muốn hồi hương dùng tầu VNTT đang đậu sẵn tại Guam làm phương tiện. Cựu HQ/Trung Tá Trần Đình Trụ được mọi người tín nhiệm làm Thuyền Trưởng (Quan Tầu) đưa tầu về VN, cựu HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn Phước (Khóa 15 SQHQ/NT) trước là HT HQ 231 được chọn làm Thuyền Phó (Goòng) và cựu HQ Thiếu Tá Vương Tế Tuấn (Khóa 15 SQHQ/NT) trước là HT HQ 229 làm Dịch 1 (nói theo ngôn ngữ HHTT) phụ trách hải hành. Anh Trần Cao Khải là Xếp Máy. Cựu HQ Thiếu Tá Phạm Ngọc Lộ (Khóa 12 SQHQ/NT) phụ trách tiếp liệu. Thủy thủ đoàn tổng cộng khoảng 200 người được tuyển chọn trong số những người muốn đi về.
Tầu dự trù chở khoảng 2,000 người. Phía Hoa Kỳ bỏ ra một nhân khoản trên dưới 1 triệu đô la để tân trang toàn diện con tầu và việc sửa chữa sẽ do HQCX của Hoa Kỳ tại Guam đảm trách. Công việc sửa chữa tiến hành khả quan và nhanh chóng với sự phụ giúp đắc lực của thủy thủ đoàn tân lập. kể cả việc thử máy đường trường 24 tiếng đồng hồ chạy quanh đạo Guam.
Sau một thời gian dài chuẩn bị và huấn luyện, tầu VNTT đã sẵn sàng ra khơi trở về VN. Ngày 15-10-75, đúng 8 giờ sáng, hành khách bắt đầu xuống được sắp xếp nơi ăn chốn ở, dự trù tới 5 giờ sáng 16-10 mới hoàn tất cho gần 2,000 người. Trước khi xuống tầu, mọi người đều được đưa qua phòng riêng làm thủ tục xuất hành lần cuối. Tại đây hành khách còn cơ hội lần chót để quyết định về VN hay đi Mỹ. Vào giờ chót có thêm khoảng 30 người từ các trại tỵ nạn ở Mỹ quá giang về VN.
Hải trình từ Guam về Việt Nam dài khoảng 2,100 hải lý, nếu tầu chạy trung bình 10 hải lý/giờ (gút) thì mất chừng 10 ngày đêm. Thuyền trưởng Trụ cẩn thận tính thêm 10 ngày nữa đề phòng trục trặc hay bão tố nên yêu cầu cung cấp thực phẩm và nước ngọt cho 2,000 người trong 20 ngày. Thiếu tướng Hebert vui vẻ chấp thuận và còn cấp thêm 10 ngày nữa, tổng cộng là 30 ngày lương thực và nhiên liệu để dự trù trường hợp tầu đã về tới hải phận Việt Nam, nhưng đổi ý quay trở lại Guam.
Sáng 16-10 trước khi tầu rời bến, có phái đoàn báo chí, truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ tới cầu tầu phỏng vấn. Lúc đó, một đám đón gió trở cờ muốn lập công với Việt Cộng đã treo hình Hồ Chí Minh và cờ MTGPMN trên tầu, nhưng vì sắp trở về VN nên đa số phải nhịn nhục.
Khi mọi thủ tục xong xuôi, đúng 12 giờ trưa, thuyền trưởng Trụ họp Ban Tham Mưu, ra lệnh khởi động máy lúc 12 giờ 30 và nhiệm sở vận chuyến lúc 12 giờ 45. Trước khi tầu rời cầu, Thiếu Tướng Herbert và ông Keely đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ mới đến từ Washington tặng thuyền trưởng Trụ một bộ đồ thuyền trưởng mới may rất đẹp, nhưng ông từ chối.
Đúng 1 giờ chiều ngày 16-10-175, tầu VNTT do thuyền trưởng Trần Đình Trụ điều khiển rời Guam, mang theo cộng 1652 người trên tầu trong số này có khoảng 200 phụ nữ và trẻ em. Chỉ ít lâu sau, tầu ra khỏi hải cảng và đổi đường về hướng Tây, lên đường Việt Nam.
Chuyến hành trình diễn ra tốt đẹp không có gì trục trặc. Biển tương đối êm, máy móc hoạt động tốt. Sau 5 ngày hải hành tức 21-10, đã bắt đầu tới eo biển San Bernadino thuộc Phi Luật Tân. Khi vào sâu trong eo, có chiến hạm Hoa Kỳ đi theo để trợ giúp trong trường hợp có trở ngại với chính quyền Phi. Tới chiếu ngày hôm sau, tầu ra khỏi eo biển, bắt đầu hướng về VN. Vừa ra tới biển chừng 10 hải lý thì gặp bão, biển động nên một số hành khách bị say sóng, nhưng chẳng bao lâu bão di chuyển về hướng khác nên tầu không bị trở ngại nhiều.
Sang ngày thứ 9 lênh đênh trên biển, tầu đã tới gần bờ biển VN, chỉ còn cách chừng 50 hải lý, lúc đó có một phi cơ không tuần của HQ Hoa Kỳ bay ngang xem có cần trợ giúp gì không, nhưng tầu không cần gì nên phi cơ bay đi. Lúc đó, nếu tầu đi thẳng sẽ tới Vũng Tầu vào ban đêm bất tiện nên thuyền trưởng Trụ cho đổi đường hơi chếch về phương bắc hướng về Cam Ranh. Tầu tiếp tục đi, tới khoảng 3 giờ chiều đã bắt đầu lờ mờ thấy dẫy núi bờ biển VN; tầu chỉ còn cách bờ chừng 30 hải lý. Đến 8 giờ tối tầu cách bờ biển Cam Ranh 12 hải lý nhưng cũng không thấy bóng dáng tầu bè HQ Việt Cộng. Sau đó tầu đổi hướng xuôi Nam, đi dọc bờ biển qua Phan Rang, Phan Thiết… Tới khoảng 6 giờ sáng ngày 25-10 thấy đèn hải đăng Vũng Tầu. Tầu vào vịnh Vũng Tầu, rồi sau đó thả neo ở Bãi Trước lúc 8 giờ sáng.
Sau đây là phần kể lại của thuyền phó Vương Thế Tuấn:
VNTT neo ở Vũng Tầu mấy tiếng đồng hồ mà VC không hề hay biết. Sau khi biết đây chính là chiếc VNTT từ Guam về họ đã cho trực thăng bay quanh chiếc VNTT đồng thời cho chiếc Hộ Tống Hạm PCE 13 của ta để lại đã đánh đèn như sau:
– How many people aboard on your ship.
Chúng tôi trả lời bằng tiếng Việt:
– Tàu chở 1,600 người hồi hương
Sau đó họ không đánh quang hiệu nữa và cho 3 chiếc SL 8 chạy ra chiếc VNTT với vũ khí hòm sẵn họ bắc loa hỏi:
– Thuyền trưởng là Mỹ hay Việt Nam.
Khi biết là anh Trụ, họ nói mọi người ở đâu ở đó không được đi lại trên boong rồi cặp vào với một trung đội súng ống sẵn sàng, leo lên chiếc VNTT. Sau đó chúng niêm phong lái và cầu thang lên đài chỉ huy. Khi màn đêm vừa buông xuống chúng ra lệnh cho thủy thủ đoàn VNTT nhổ neo và đi theo chiếc LS 8 dẫn đường nhưng không cho biết là đi đâu. Sau 2 ngày hải hành khi tới Cầu Đá Nha Trang thì chúng ra lệnh cho chiếc VNTT chạy vào thả neo tại đây.
Sau đó có một đoàn cán bộ từ trong bờ ra dẫn đầu là tên Thiếu Tá Thùy. Chúng họp với anh Trụ và ban đại diện đồng thời yêu cầu anh Trụ lập một danh sách gồm những người nồng cốt của chiếc VNTT. Những ngày kế tiếp chúng cho tàu nhỏ ra chở mọi người vào bờ, kể cả anh Trụ. Trên tàu chỉ còn lại 15 người gồm có: anh Phước TP, tôi TP/HH anh Khải CKT, anh Hiệp GL, anh Đẳng y tế và một số anh phụ trách máy neo, đặc biệt có 2 anh Gòn ĐK và một anh CK là nhân viên cơ hữu của chiếc VNTT .
Mỗi ngày chúng ra lệnh cho nhóm chúng tôi nhổ neo chạy xuống Cam Ranh rồi lại chạy về Cầu Đá. Chúng tôi làm như vậy trong suốt 2 tuần cuối cùng 15 người chúng tôi cũng được lệnh rời tàu để lên bờ. Chúng chuyển chúng tôi tới BCH/CSQG/V2 cũ của mình để điều tra. Sau hơn 2 tháng chúng chuyển chúng tôi đến Trại Xuân Phước hay còn gọi là Z 30 để nhốt tất cả chúng tôi là những người đã trở về trên tàu VNTT. Trại này gồm 3 khu: A, B và C. Khu A là SQ, B là HSQ và C là binh lính cùng một số dân chính gồm phụ nữ, con nít. Cho đến tháng 4/1977 tại khu A chúng đã cho thanh lọc ra 120 người là những SQ cấp tá, SQ CTCT, SQ Cảnh Sát và An Ninh để chuyển ra trại Cải Tạo Trung Ương số 3 Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh do công an quản lý, đây là một nơi hoang vu rừng thiêng nước độc chỉ cách biên giới Lào-Việt khoảng 30 cây số. Đội 8 rau xanh của chúng tôi gồm anh Trụ, các SQ cấp tá các quân bình chủng đã về trên chiếc VNTT. Vì chiến tranh biên giới phiá Bắc với TC nên giữa năm 1978 chúng đã cho chuyển những trại giam ở biên giới về xáp nhập với chúng tôi. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đã gặp lại các bạn ngày xưa. Cho đến tháng 7 năm 1980 thì chúng chuyển chúng tôi vào Nam trong đó có anh Trụ vào trại Gia Trung Kontum. Tôi đã không được chuyển vào Nam nhưng đến đầu năm 1981 thì tôi được thả về từ ngoài Bắc.
Quả là một sự may mắn đã đến với tôi khi được trả tự do vào đúng lúc phong trào vượt biên đang lên cao điểm tại Sài Gòn. Tôi không thể ngờ cuộc đời hải nghiệp tưởng đã lùi vào dĩ vãng nay lại có dịp thi thố. Tôi đã bỏ hết công sức để nghiên cuu' chuyến ra khơi sắp tới. Do sự mầu nhiệm sau hơn 2 ngày lênh đênh trên biển trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Chiếc ghe chở 207 người của chúng tôi đã được thương thuyền Hoà Lan Nedlloyd Dejima vớt ngoài khơi Côn Sơn vào 9 am ngày July 3rd, 1981.
Riêng thuyền trưởng Trần Đình Trụ được thả năm 1988,. Ông phải trả giá bằng 13 năm tù khổ sai để được gặp vợ con. Ông và gia đình đến Hoa Kỳ vào ngày 12-12-1991 theo diện HO và định cư tại Dallas-Fort Worth tiểu bang Texas.
Kinh qua hồi ký vừa kể ở trên, quả mỗi người đều có một số phận cho riêng mình. Khi còn trong tù tôi nghĩ sẽ vùi thây nơi sương lam chướng khí. Vậy mà kỳ diệu thay tôi đã qua được, trong tù mãi 5 năm sau mới biết tin ở ngoài đang vượt biên như một ánh sáng cuối đường hầm từ đó tôi đã nuôi hy vọng để sống. Sau đó tôi và gia đình đã đến được bờ bến Tự Do như đã nói ở trên. Không riêng gì tôi mà sau này tôi đã gặp lại rất nhiều anh em của tầu VNTT tại Hoa Kỳ. Năm 2015 chúng tôi những người kém may mắn của chiếc tầu VNTT đã thực hiện một cuộc hội ngộ 40 năm tại nam CA quy tụ được gần 200 người.
Xin cảm ơn nước Mỹ đã hai lần cưu mang những anh em VNTT chúng tôi.
San Jose April 16th, 2019
Vương Thế Tuấn & Trần Đỗ Cẩm
No comments:
Post a Comment