Con gà …đi bộ cúng Ông Táo
Tiếng reo của chiếc đồng hồ báo thức ở đầu dường đã kéo bà Năm Trà Vinh ra khỏi giấc mơ.
Bảy giờ thiếu mười.
Trời bên ngoài hãy còn đen kịt. Mùa Đông vẫn còn bũa giăng khắp nơi và trôi nặng nề trên những hàng cây trọi lá, đang đứng run rẩy bên kia đường.
Bà Năm đưa tay trong bóng đêm tính nhẩm một mình: “” ngày mùng 1 tháng 2tây tức là nhầm ngày 23 tháng Chạp mình, ngày đưa Ông Táo về trời. Tuần sau nữa là đến Tết rồi. Trời ơi, đâu còn mấy ngày nữa! Ngày tháng gì mà qua nhanh quá vậy! Mới ngày nào…””
Bà Năm thở dài, rồi vội vàng tung chăng chui ra khỏi giường.
Bà rùng mình, làm một cái hắc-xì thật lớn. Bà với tay bật đèn. Hơi lạnh của căn phòng ập sát vào da thịt, làm cho các sợi lông măng trên làn da trắng trẻo của bà đồng lọat co nhíu, dựng đứng theo một tác động phản xạ tự vệ vô thức. Vào cái lứa tuổi quanh quẫn sáu mươi này mà còn có được cái nước da mịn màng trơn tru và mát mắt như lớp da thịt của bà, không dễ gì ai cũng có. Bà biết lắm, bà biết cái bửu bối “” tiền không …đó ”” để buộc chặt ông Năm…
Bà mĩm cười tự mãn, chồm lên vách tường chụp lấy cái áo chòang phủ lên người, mở cửa rồi bước ra ngoài hành lang.
Ở tầng trên, căng phòng của ông Năm vẫn còn tối om và tĩnh mịch. Bà không nghe bản tin đầu ngày phát ra từ chiếc máy thu thanh của ông Năm như thường lệ. Bà chắc là tối hôm qua ông Năm quên bấm cái nút báo thức, trước khi ông đi ngủ.
Mấy tháng sau này ông Năm bắt đầu trở chứng. Đêm nào ngủ, ông cũng ngáy như kéo gỗ. Tiếng ngáy khò khè của ông khó chịu đến nổi Bà Năm mất ngủ mấy đêm liền. Sáng ra đi làm sớm mà tối không ngủ được ngon giấc thì làm sao ăn nói với đồng nghiệp trong sở. Mấy con nhỏ Hòa Lan làm chung trong phòng, ranh mãnh lắm. Hôm nào tụi nó thấy mắt bà lim dim trong lúc làm việc là tụi nó chủm chỉm cười với nhau, thì thầm to nhỏ:
“”- Tụi mày coi kìa! Con nhỏ Phụng làm gì tối hôm qua mà giờ này mở mắt không lên. Làm vừa vừa thơi chứ, còn để cho ông yên với tuổi gìa. Chớ tối nào cũng lục đục suốt đêm thì chỉ có chết… ông ta thôi””
Rồi cả đám ngả ra cười cho bằng thích. Bà Năm đỏ mặt, phân trần. Bà chịu làm sao cho nổi cái “” hàm oan”” này. Dã như chuyện có thiệt đi ..thì đã có sao. Đằng này bà có tiếng mà …chẳng có miếng nào cả. Oan ơi là oan!!
Nhiều đêm bà Năm phải đập thật mạnh vào người ông để ông tĩnh giấc, mong ông ngừng ngáy, nhưng ông chỉ chợt tĩnh đôi ba phút rồi chứng nào vẫn tật đó. Ông Năm tiếp tục nhắm mắt, miệng mở, bắt đầu ..kéo gỗ. Ông coi bà Năm bên cạnh chẳng ra ki lô nào cả.
Vì thế bà Năm quyết định đổi phòng. Đó là một quyết định táo bạo, can đảm và thua thiệt nhất trong đời, kể từ ngày bà về ăn ngủ với ông Năm cho đến khi có ba mặt con.
Bà bước lên cầu thang, tiến đến cạnh giường ông Năm. Tiếng ngáy của ông vào lúc mờ sáng nhẹ nhàng và dễ chịu hơn. Bà đưa tay lay vai ông Năm:
- Ông Năm à, gần bảy giờ rồi đó, dậy đi!
Ông Năm xoay người lăng qua ú ớ. Bà Năm thúc dục:
- Lẹ lên! Còn phải tắm rửa ăn sáng rồi đi làm ông ạ. Dậy đi ông!
Ông Năm mở hé đôi mắt một cách khó khăn, lè nhè:
- Bảy giờ rồi sao bà? Sao đồng hồ của tôi không reo?
- Reo cái nổi gì? Bà Năm gặn lại, trách móc, ông có bấm nút báo thức đâu mà biểu nó reo.
- À thì ra tôi quên. Mà còn sớm bà ạ. Ông Năm tĩnh giọng. Chun vô đây nằm lấy hơi một chút đi. Đời mà bà. Con bao lâu đâu mà hững hờ…
Gìa hết gân, chết đến nơi rồi mà ông Năm thì lúc nào cũng vậy. Cứ như mèo thấy mỡ…
Nghe giọng ông Năm vừa mời mọc vừa thách đố, bà Năm cầm lòng không được, cũng ghé đít vào thành giường phân bua lấy lệ:
- Thôi đi ông, ngày mai cuối tuần tôi sẽ lên ngủ với ông. Bây giờ thì trễ quá rồi, không được đâu ông. Tôi, thì tôi đã lấy ngày nghỉ ăn Tết; nhưng còn ông, ông phải đến trường mà. Hôm nay ông có mấy giờ ? Ông có chịu nổi không ?
Vừa nói xong, bà Năm tự động riu ríu ngả người, chui vào chiếc mền, nằm cạnh ông Năm một cách gọn ơ. Hơi ấm của ông Năm tỏa ra khắp người bà, làm cho bà quên cả giờ giấc.
Một lúc sau, bà Năm tằn hắng lấy giọng thì thầm bên tai ông Năm :
- Ông à, ông có biết không? Ngày hôm nay là 23 tháng Chạp rồi đó. Mình phải mua ít đồ về cúng để đưa Ông Táo về Trời, đồng thời cũng cúng để mời Ông Bà về ăn Tết nữa. Ông có nhớ không, ông Năm?
Bà Năm làm một hơi dài như bản báo cáo của Ông Táo đứng trước Thiên Đình, trong khi đó Ông Năm nằm yên ngoan ngõan lắng nghe..
Thấy ông Năm im lặng, bà Năm thăm dò :
- Sao ông nín làm thinh vậy ông ? Bộ ông không muốn nghe tôi nói hả?
Bà Năm nói chưa hết câu, ông Năm đã xoay người qua phía bà Năm, đưa tay nựng nịu :
- Bà à, mấy đêm nay ngủ một mình, đêm nào tôi cũng chợt giấc nửa đêm cả bà ạ. Có lẽ vì tuổi của tôi đã cao rồi, hai trái thận không còn hăng say làm việc như thời còn con trai trẻ, lúc vừa mới lấy bà, cho nên nó bắt tôi đi tiểu hòai. Phần khác, cũng bởi vì không có bà bên cạnh nên tôi ngủ cũng không ngon giấc, bà có biết không?
Nói xong, ông Năm xiết chặc bà Năm vào người, làm cho bà Năm ..nghẹt thở. Ông nghe rõ mồn một tiếng đập của trái tim bà Năm đập vào ngực ông và hơi thở nong nóng của bà Năm lùa lên da mặt.
Bà Năm vùng vằn đẩy ông Năm, làm ra vẻ giận dữ :
- Ông này kỳ cục quá ! Ông làm tôi nghẹt thở, ông thấy không ? Muốn nói gì thì nói, ông ôm tôi làm gì. Ông nói bằng cái miệng chớ đâu phải bằng cái tay.
Thấy bà Năm phản đối quyết liệt, ông Năm mất hứng, giãn ra. Ông đành phải nhượng bộ, cầu hòa :
- Thì tôi có ăn thịt ăn cá gì bà đâu mà bà làm dữ vậy. Tôi chỉ nói cho bà biết cái nổi,..cô đơn của tôi cho bà nghe, những tưởng bà chia xẻ, ai ngờ đâu bà nổi quạu. Bà không chịu thì thôi,..tôi không thèm…
Chưa nghe hết câu, bà Năm đã bật tiếng cười :
- Thôi đi ông ơi ! Gìa cái đầu rồi mà còn cãi lương qúa, không sợ người ta cười cho mà thúi cái mặt.
Rồi bà cười khúc khích, chọc tức ông Năm.
Bên ngòai trời đã bắt đầu lờ mờ sáng. Có tiếng cào nước đá đêm qua còn đọng trên mặt kiến xe. Tiếng nổ máy và những bước chân dồn dập nện trên mặt đường, tiến gần qua nhà rồi mất dần ở cuối ngõ, đã đánh thức ông Năm ra khỏi cái lằng nhằng của buổi sáng.
Ông tung mền ngồi phắt dậy. Nhìn chiếc đồng hồ trên đầu tủ, ông tính nhẩm trong đầu. Chỉ còn có được hai mươi phút để ông làm công tác vệ sinh và ăn sáng, trước khi ông băng qua bên kia đường, đón xe lửa điện đến trường.
Gịong ông không còn lã lơi, trững mỡ như trước nữa :
- Hôm nay thứ sáu phải không bà? Tôi có bốn giờ ; một lớp 10 và ba lớp 9. Mười hai giờ rưỡi là tôi hết giờ. Bà có muốn tôi mua cái gì để cúng ông Táo không?
Trường của ông nằm cạnh khu của người Thổ trong vùng Utrecht, có hàng trái cây, hàng thịt gía bán tương đối hạ. Chính vì thế, bà Năm thường hay biểu ông Năm, sau khi tan trường nhớ ghé qua chợ Thổ mua ít trái cây, rau cỏ. Lúc đầu ông đi mua tĩnh bơ, tay xách, vai mang vì thuở đó học trò chưa quen mặt ông. Lâu dần, ông chồn chân, e ngại đụng đầu với mấy đứa trong lớp. Ông hay càu nhàu mỗi khi bà Năm đề nghị. Vì thế sáng hôm nay bà lấy làm ngạc nhiên khi nghe ông tự ý hỏi bà.
Bà Năm vẫn còn bán tín, bán nghi,chưa tin hẳn nên gặn hỏi :
- Bộ ông hôm nay hết sợ rồi sao mà nói nghe ngon dữ vậy? Mấy bữa trước nhờ ông ghé mua mấy trái cam, trái quýt, ông thè lưỡi nhăn mặt. Sao bữa nay tình nguyện đi mua ?
Ông Năm không ngại ngùng :
- Thì bà biết đó, tùy cơ mà ứng biến chớ bà. Lúc này kinh tế khó khăn, tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó bà ạ. Mua ở chợ Thổ, bà vừa khỏi tốn tiền xăng cho tôi, vừa khỏi tốn tiền gởi xe, vừa rẻ hơn ở siêu thị. Tội vạ gì mình không mua. Vã lại, hôm nay cúng Ông Táo, tôi cũng phải chứng tỏ cái lòng thành của tôi cho Ông Táo thấy. Nếu chiều nay may mà Ông bắt kịp chuyến xe về chầu trời đúng giờ và thương tình mà báo cáo tốt với Thiên Đình, thì đở cho tôi biết mấy. Bà thấy chưa ?
Bà Năm cứng lưỡi. Bà chỉ biết ngậm miệng nín thinh, ra vẻ hiểu ý ông Năm và bà cũng muốn làm lành với ông Năm cho xong một buổi sáng cuối năm.
Sau khi làm vội thủ tục vệ sinh, thay quần áo, ông Năm bước xuống nhà dưới. Bà Năm theo chân ông đi vào nhà bếp như một cái máy.
Sáng nay bà xin nghỉ việc ăn Tết, cho nên bà không phải bận rộn công việc trang điểm thường nhật trước khi đến sở làm. Bà bắt nồi nước nóng, pha trà, trong khi ông Năm mở tủ lạnh lấy hai cặp bánh mì, hộp bơ, thịt nguội và phô mai đặt lên bàn.
Một ngày, như mọi ngày !
Câu hát nào đó trong tập nhạc phản chiến của Trịnh công Sơn, một thời đã đi vào tiềm thức của những người mà năm nay ở cái lứa tuổi 50-60, như lứa tuổi của ông bà Năm. Thuở đó, cái tuổi sinh viên trong thập niên chiến tranh, ông bà Năm còn đầy nhiệt huyết nhưng không nhìn thấy được chiều sâu của qúa khứ; mộng mơ và lý tưởng, nhưng không đo lường đúng kích thước trong tương lai. Hậu qủa của nó là giờ này, ngày hôm nay, ở xứ người, ông bà Năm lại phải chuẩn bị đưa Ông Táo về trời, như ông đã làm từ một phần tư thế kỷ qua. Và ông Năm cũng không chắc rằng đây là lần cuối.
Có thể người ta quay về quá khứ để chạy trốn hiện tại, nhưng đối với ông Năm, đó là cái cớ để giữ lại những gì đã qua, và làm hành trang cho tương lai.
Một ngày như mọi ngày !
Bánh mì, trái cây bỏ vào cặp, vội vã ra trạm xe điện đến trường.
Mỗi ngày phải đối đầu với đám học trò ồn áo, hỗn tạp. Nửa trắng, nửa đen; nửa Âu, nửa Phi; nửa nội, nửa ngọai; nửa Giê-su, nửa Mohamed; nửa trùm khăn, nửa trọc đầu…
Phải rồi, một ngày mệt nhọc…cũng như mọi ngày !
Đợi ông Năm sắp xếp xong hành trang cho một ngày ở trường, bà Năm nhỏ nhẹ :
- Ông à, nếu ông có rảnh thì ghé chợ Thổ mua cho tôi vài ký quýt. Nhớ lựa quýt tươi còn có lá để chưng trên bàn thờ cho nó đẹp. Mua thêm chục cam Tây ban Nha. Ông đừng mua cam Thổ, chua lắm và một vài bó rau thơm…
Rồi bà ái ngại nhìn ông Năm :
- Có nặng lắm không ông ?
- Nặng gì đâu, ông Năm không do dư, còn mua gì nữa không bà ?
Thật ra bà Năm còn muốn ông Năm mua thêm vài món nữa, nhưng sợ ông mang không nổi. Vã lại, nói cho cùng, cũng tội nghiệp cho ổng.
Bà chưa biết phải mở miệng làm sao cho…phải đạo, chợt thấy ông Năm sắp sửa đeo ba-lô lên vai, bà Năm thả câu thòng :
- Tôi dự tính chiều nay luộc một con gà …đi bộ, cúng ông Táo như Bà Nôi mấy sắp nhỏ hồi đó vẫn thường cúng, nhưng ở nhà hết gà rồi. Ông về sớm, có thể ghé quán Toko của chị Phán mua cho tôi một hay hai con được không?
Bà tủm tỉm cười ruồi, chờ đợi.
Ông Năm nhìn bà Năm thông cảm, nheo mắt ỡm ờ :
- Bà mà giao công tác thì tôi thi hành thôi, chịu chưa? Mà phải gà đi bộ.. chớ gà đi xe hơi.. cúng không được sao bà?
Bà Năm nũng nịu :
- Cái ông này ăn nói kỳ cục. Ai mà dám ra lịnh ông. Người ta nghe được sẽ trách tôi dữ lắm. Sẵn dịp ông đi trường và ông đòi đi mua, tôi mới nói chớ bộ…Còn con gà, con gà đi bộ mà mình nuôi như ở nhà quê mình, thả chạy rong rong ngòai vườn đó, chớ không phải loại gà ở nhà nuôi tập thể. Nghe mấy bà bạn đặt tên cho loại gà đó là gà đi bộ cho nên tôi cũng bắt chước vậy mà. Mà ông à, gà .. đi bộ, thịt dai và ngon lắm ông ạ. Ông cố mua dùm tôi.
Ông Năm hiểu ý, nắm vội tay bà Năm chia xẻ, rồi mở cửa bước ra ngòai.
Ông Năm đi trường, bỏ bà Năm ở nhà một mình. Căn phòng trở nên trống vắng. Ba đứa nhỏ, đứa ở Delft, đứa ở Eindhoven, tuần tới ngày thứ tư, tụi nó mới về ăn Têt, theo như lời căn dặn của ông Năm.
Bà dọn vội mấy cái tách trà, con dao, cái dĩa và cho xấp thịt nguội váo tủ lành, rồi trở lên phòng tắm, rửa cái mặt qua loa.
Bình thường giờ này bà Năm đang chúi đầu vào công việc trong sở làm, chớ đâu có lêu bêu như vầy. Hôm nay bà lấy ngày nghỉ ăn Têt cho nên bà cảm thấy là lạ, bất thường. Vì còn quá sớm, bà trở vào phòng ngủ, ngả lưng, nhắm mắt, thả hồn bâng quơ…
Năm nay, ngoài con gà luộc cúng Ông Táo, bà dự tính gói vài đòn bánh tét cúng Ông Bà.
Từ ngày lấy ông Năm, bà học thêm được cách cuốn và nấu bánh tét.
Hôm theo ông Năm về nhà chồng ăn Tết đấu tiên ở Vạn Gỉa, một thị trấn yên tĩnh dọc theo bờ biển Miền Trung, thấy mẹ chồng gói bánh tét, bà học lóm.
Đối với người Miền Trung, Tết còn đồng nghĩa với bánh tét. Tết mà không có hay thiếu bánh tét, thì chưa hưởng hết cái hương vị tuyệt dịu của ba ngày Tết.
Không Tết nào mà bà thiếu bánh tét,..ngọai trừ hai cái Tết đau buồn nhất trong đời của bà. Đó là cái Tết Bính Thìn - 1976, ông Năm nằm trong trại Long Khánh và Tết Đinh Tỵ - 1977, ông nằm trong rừng Kà Tum. Suốt trong hai năm dài ghê rợn đó, bà thiếu tất cả. Không bánh tét mà cũng chẳng có ông Năm. Lấy chồng chưa tròn một năm, chưa hưởng hết cái tuần đầy mật của con trăng thì thời thế thay đổi. Mỗi lần nhắc đến câu chuyện hận thù ngàn đời « cải tạo 10 ngày trong rừng Katum » là ông Năm vừa chua chát vừa dí dõm, nhại ý câu thơ của Hữu Loan « đám cưới vừa xong …là tôi giong.. » .
Ngày đó, ông Năm đang dạy học ở quận sáu Sài Gòn, bà Năm chọn nhiệm sở tại quê nhà, nên còn ở lại Trà Vinh. Lấy nhau, hai ông bà chỉ được ân ái vội vã vào những ngày cuôi tuần. Bốn tháng chưa tròn chăn chiếu, người ta đã lùa ông Năm vào trại cải tạo. Bà Năm tưởng chừng như trở thành thiếu phụ. Biết bao nhiêu nổi đắng cay đã đổ lên đầu bà trong suốt thời gian ông Năm vắng nhà. Chung quanh bà, từ đồng nghiệp ở trường cho đến những người trong xóm, mới ngày nào đây rất thân rất thiện, nay chỉ vì lo sợ cái huyền thoại cách mạng,…đã trở thành xa lạ, địch thù. Tiếng đục tiếng chầy, xì xầm to nhỏ bên tai, « vợ của thằng ngụy, đáng đời !! «
Bà không còn tha thiết điểm trang và bà cũng không còn có cái quyền để trang điểm. Bà không còn thấy thích thú và bà cũng không còn được phép thích thú để mặc chiếc áo dài lụa Thái màu vàng cam mà một thời còn là sinh viên của trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn đã làm cho ông Năm chết mê chết mệt.
Trong lớp học, ngoài sân trường, lũ học trò của bà cũng vội vàng vứt bỏ chiếc áo dài trắng thơ mộng, tiểu thư và vứt luôn cả những nụ cười hồn nhiên của tuổi dậy thì. Chúng lắm lét nhìn bà, nửa cảm thông, nửa chua xót. Cả khu phố, cả Miền Nam thương yêu, sống động với màu sắc rực rỡ ngày nào, đã trở nên xám đục, nặng nề, dãy chết như con gà đang bị cắt tiết.
Áo bà ba đen, quần vải ta, đi dép râu, đội nón cối, ngồi bỏ chân trên ghế..là nếp sống văn minh của lớp người mới, vừa từ trong rừng từng đoàn chui ra.
May mà ông Năm, trong những phút ái ân vội vã, tình cờ để lại cho bà cái sản phẩm của tình yêu. May mà có..con, đời còn dễ thương !
Chín tháng cưu mang không có ông Năm bên cạnh để vỗ về an ủi. Ngày bà Năm chuyển bụng, không có ông Năm bên giường đẻ để chia bớt nổi đau cắt da. Và khi thằng bé con ra đời, mở mắt không thấy bố bên cạnh, nó khóc thét lên, tỏ vẻ giận dữ, hận đời !
Bà Năm giật mình, chợt tĩnh. Dường như có giọt nước âm ấm chạy dọc theo hai gò má, thấm vào cổ áo. Bà lấy tay quẹt qua một bên và đi vào buồn tắm.
Còn hơn năm phút nữa mới hết giờ mà đám học trò đã bắt đầu lao xao bàn ghế, gom sách vở bỏ vào cái xách đeo lưng. Cái xách được biến dạng trở thành kích thước và có công dụng của cái ba-lô của những người lính trong quân trường.
Chưa bao giờ cái ba-lô thông dụng như ngày nay. Trò cũng mang ba-lô mà thầy cô cũng ba-lô; trai cũng ba-lô mà gái cũng ba-lô. Cái cặp da truyền thống mà ngày nào đã là một trong những nguồn cảm hứng cho các tác phẩm văn thơ của tuổi học trò yêu thương,.. ngày nay không còn thấy xuất hiện nơi sân trường, nơi chôn nhau cắt rún của nó nữa. Nó đã trở thành sản phẩm của dĩ vãng. Một thời đã qua ! Người ta chạy theo mode. Ông Năm đã gìa rồi nhưng cũng không muốn dậm chưn tại chỗ. Ông cũng đòi bà Năm mua cho ông một cái ba-lô làm qùa sinh nhật ngũ tuần. Từ đó ông Năm bỏ cái cặp da cũ kỹ vào nhà kho và hằng ngày ông mang chiếc ba-lô lên vai, hí hửng đến trường. Với cái mode đó, trông ông cũng còn « ngọt nước » lắm…, ông nghe người ta nói như vậy.
Rồi cũng phải đến. Tiếng chuông đổi giờ vừa cất tiếng reo, cả đám học trò ùa ra khỏi lớp như ong vỡ tổ. Đứa lấn, đứa chen, đứa xô, đứa đẩy. Tiếng khua vang bàn ghế cùng tiếng la inh ỏi của đám học trò đã kéo ông Năm ra khỏi cơn mê, trở về thực tại. Ông cũng vội vã xách ba lô, bước theo bọn nhỏ, ra khỏi lớp.
Mặt trời đã khuất ở phía sau dãy nhà trước khu trường, khi ông vừa đến đầu cổng chính. Ánh sáng yếu ớt nhợt nhạt của buổi trưa mùa Đông dọi lên nóc nhà, không mang đủ năng lượng để sười khô lớp ngói rong rêu.
Ra khỏi trường ông đi thẳng đến khu chợ Thổ. Nói rằng « chợ » cho nó có dáng dấp văn chương một chút, chớ thật ra nó chỉ là một dãy phố với chiều dài không đầy nửa cây số. Hai bên đường là các khu nhà xưa cũ của người Hòa Lan được người Thổ Nhĩ Kỳ, người Marốc, người Surinaam, người Nam Dương.. sang lại, sửa thành các cửa hàng trưng bán các thực phẩm của xứ họ. Đó đây một hai quán ăn của người Tàu. Ngay tại con phố này không có cửa hàng người Việt. Muốn ăn phở bò tái nạm, bánh xèo nước mấm nhĩ, lòng heo mấm nêm, bánh cuốn chả lụa…thì phải chịu khó đi sâu thêm một vài cây số nữa, hướng trung tâm thành phố. Ở đó có nhà hàng Sài Gòn, cửa tiệm ăn duy nhất của người Việt, nằm trên một trong những con đường phố tấp nập, do một người ở cùng thị xã với ông Năm, vừa là chủ mà cũng vừa là đầu bếp chính.
Hai ký quýt, một chục cam, một nải chuối, một bó hành, một bó ngò và hai trái khổ qua. Qúyt cam, chuối để chưng trên bàn thờ ; hành, ngò, khổ qua để nấu một nồi canh tôm cúng cơm. Còn con gà .. đi bộ nữa ! Thôi bấy nhiêu đó đi, cũng đầy ấp cả cái ba-lô rồi. Có gì về nhà , ra siêu thị mua thêm một ít. Ông thì thầm trong đầu.
Chiếc ba-lô trì vai ông xuống phía sau, làm cho ông có cái cảm giác lùn hơn buổi sáng. Ông bước vội ra trạm xe lửa điện cho kịp chuyến.
Ông tìm cái băng trống, ngồi một mình cho dễ và còn có chỗ để chiếc ba-lô. May mà giờ này chưa đến giờ tan sở cho nên xe còn ít khách. Ông thấy trên một cái ghế có tờ báo quãng cáo Spits của người đi trước còn bỏ lại, ông tiến đến đó. Khom người gở chiếc ba-lô ra khỏi lưng, rồi ngồi xuống, thở phì , ông cầm tờ báo lật qua lật lại tìm đọc một số đề mục quen thuộc. Tình hình chính trị ở những trang đầu, tin tức thể thao ở trang cuối.
Bất chợt ông thấy bản tin nói về Việt Nam ở phần tin tức thế giới. Ông thọc túi áo trên lấy đôi gương ra, đeo lên và châm chú đọc hết bản tin. Chất độc trong thực phẩm xuất cảng Việt Nam và bệnh dịch gà đã gây truyền nhiễm, làm chết ít nhất 5 người !
Ông lặng thinh, nghĩ về quê nhà, về người thân của ông. Mặc dù không còn lạ gì cái xã hội Miền Nam kể từ khi cộng sản phương Bắc vào cưỡng chiếm, nhưng cái tin ngày hôm nay cũng làm cho ông bàng hòang. Gia đình anh em của ông còn lại ở quê nhà khốn khổ, phải vật lộn suốt ngày, có khi không đủ một bữa ăn, để sống qua ngày. Trong khi đó, nhà cầm quyền, đảng viên,…có đủ thế lực, tha hồ làm giàu trên mô hôi của dân lành, hưởng thụ trên nước mắt của đồng bào ông. Nhà nước cộng sản tìm mọi cách ngang ngược tịch thu tài sản của dân chúng, xảo trá lấy tiền của những người ở nước ngoài gởi về dưới hình thức từ thiện, nhân đạo bỏ vào túi riêng. Nhà cầm quyền sử dụng bất cứ thủ đọan nào, kể cả sử dụng hóa chất rất nguy hiểm cho sức khỏe người tiêu thụ, miễn sao thu được lợi nhuận. Ở trong nước, đảng viên xây cất nhà cao, cửa rộng. Ở nước ngòai, nhiều người chứng kiến tận mắt đám con cái của chúng, núp dưới lớp vỏ sinh viên du học, mang cả chục ngàn, và nghe nói có khi cả trăm ngàn đô la ra ngoài tiêu pha phung phí, bỏ lại trong nước môi trường ô nhiễm, xác xơ cằn cổi . Độc hay không độc, chết hay không chết, mặc bây, tao có tiền ăn chơi là được rồi !
Ông chợt nghĩ đến bữa cơm cúng Ông Táo chiều nay.
Hồi sáng trước khi ra khỏi nhà, ông đã hứa với bà Năm, ông sẽ ghé tiệm tạp hóa của chị Phán để mua con gà đi bộ cho bà Năm cúng Ông Táo, nhưng sau khi đọc bản tin trong tờ báo, ông quyết định lấy xe đi thẳng về nhà luôn, nhứt quyết không mua con gà nữa. Thôi thì xin Ông Táo cảm thông cho ông. Ông không muốn cho Ông Táo trở về địa ngục vì ăn phải con gà chết dịch từ Việt Nam đưa qua.
Ông đành phải lỗi hẹn với bà Năm và thất hứa với ông Táo…
Chiếc xe lửa điện trờ đến trạm gần nhà, trời cũng gần như sụp tối. Cùng với một vài người trên chuyến xe, ông Năm lệ khệ mang chiếc ba-lô nặng trĩu trên vai, bước ra khỏi xe, băng qua con lộ.
Trên đường trở về, vừa đi ông vừa lâm râm khẩn vái:
« Ông Táo à, nếu quả thực Ông có linh thiêng, xin Ông hãy giải tán đảng công sản đi và giúp cho người dân Việt Nam, không phân biệt khuynh hướng chính trị, tôn giáo, địa phương… được có cơ hội tự do tham gia vào công việc quản trị và xây dựng đất nước. Có như vậy năm tới tôi mới về Việt Nam, mua một con gà đi bộ khỏe mạnh, ngon lành, chắc da chắc thịt, cúng và tiển đưa Ông về chầu Thiên Đình, nghe ông ! »
Trần Hữu Sơn
No comments:
Post a Comment