Friday, October 4, 2019

Những Cái Giá Phải Trả

Huyền Thoại Thịnh Hương

***
Hiện nay đang có tranh cãi kịch liệt trong quốc hội liên quan đến ngân sách dành cho việc xây bức tường biên giới giữa Hoa Kỳ và Mể Tây Cơ của Tổng Thống Trump nhằm ngăn chận nạn nhập cư bất hợp pháp.

Chuyện chưa ngã ngũ thì Bộ Nội An được lệnh của tổng thống, đi lùng bắt và trục xuất những dân nhập cư lậu về nguyên quán. Trong khi chờ đợi, họ bị giam giữ, tách rời con cái của họ - những đứa trẻ được sinh ra trong nước Mỹ và nghiễm nhiên trở thành công dân Mỹ ngay từ lúc lọt lòng. Các kênh truyền hình liên tục chiếu những cảnh trẻ em khóc lóc đòi cha mẹ, nhìn rất thảm não.

Những người cha mẹ này đã vào đất Mỹ bằng nhiều cách. Họ đã bơi qua con sông dữ dằn Grand Rio để mong tìm một cuộc sống tốt đẹp [khiến tôi nhớ chuyện những người Việt Nam vượt sông Bến Hải tìm ánh sáng tự do trong miền Nam sau 1954]. Họ đã phải liều mình đi bộ qua sa mạc khô khốc, nóng ban ngày lạnh ban đêm, hay nép mình ẩn trốn trong những thùng xe tải ngụy trang để vượt biên giới. Nhiều người trong số họ đã bỏ mình vì đói khát, vì ngộp thở và bị thú dữ tấn công.

Có nhiều phe phái ủng hộ quyết định này của tổng thống, vì họ sợ quyền lợi của người dân Mỹ sẽ bị cắt giảm và tài nguyên chính phủ bị khô cạn trong một tương lai không xa nếu cứ phải cưu mang những người khách không mời mà đến vô hạn định. Họ lý giải là người Mễ không bị chính quyền Mễ áp bức, họ không bị khủng bố chính trị, mà họ sang Mỹ chỉ để “tị nạn kinh tế”. 

Nhưng cũng có nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền lên tiếng chỉ trích thậm tệ cái chính sách mà họ cho là vô nhân đạo. Nhiều cuộc biểu tình đã được các nhóm này tổ chức để đả phá việc cưỡng bức hồi hương mà các cơ quan công lực không dám có biện pháp mạnh [Ngược laị, người Việt Nam trong nước bị công an đánh đập và bỏ tù vì họ dám biểu tình chống lại Tầu cộng! Chuyện lạ thế gian!]

Tình hình chao đảo này khiến tôi nhớ đến những thảm cảnh mà người Việt Nam đã trải qua khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam tháng 4/1975. Vì không chịu đựng nổi lối cai trị dã man và mị dân của cộng sản Bắc Việt nên dân chúng rầm rộ bỏ nước ra đi trên những con thuyền gỗ nhỏ bé, mong manh, dù họ biết trước có thể chết ngoài khơi hay phải đương đầu với nạn hải tặc hung bạo. 

Để chấm dứt những cái chết thê thảm trên Biển Đông, chính phủ Hoa Kỳ đã cho phát động phong trào ODP – Orderly Departure Program – cho dân Việt được di cư chính thức vào Mỹ nếu có thân nhân bảo lãnh, sau đó là Chương Trình Humanity Operations, Quốc Hội Hoa Kỳ đem các cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà từng bị cộng sản bỏ tù sang định cư.

Trong đại gia đình của tôi có nhiều tai họa vượt biên dẫn đến những cái chết rùng rợn. Đã hơn ba chục năm sống ở Mỹ mà tôi vẫn chưa thể quên. Nhiều đêm giật mình bừng tỉnh, thấy mình đang khóc và run rẩy vì trong cơn ác mộng tôi thấy người ta đang bị hải tặc cướp bóc, chém giết.

Đầu tiên là chuyện gia đình anh Tâm, anh họ tôi. Anh cưới chị Trúc, con gái một thương gia giầu có ở Đà Nẵng. Do bản tính cần cù và có óc thương mại nên anh Tâm được sự ủng hộ của gia đình vợ, rồi trở nên người thành công nhất trong số những người con bên chồng tôi. 

Sau tháng tư 1975, gia đình anh và cha mẹ vợ bị kiểm kê tài sản rổi không được buôn bán nữa. Qua ba năm bán dần của chìm để sinh sống qua ngày, gia đình anh quyết định tìm đường vượt biên vì không thể chịu đựng thêm sự hà khắc và kỳ thị của chế độ mới. Họ móc nối với ba gia đình chài lưới để đóng một ghe đánh cá. Hợp đồng của họ là sau khi những người vượt biên đã được tầu quốc tế vớt thì những người đánh cá được mang ghe trở về làm kế sinh nhai. 

Một đêm không trăng họ khởi hành lúc gần nửa đêm. Tầu gồm 6 thủy thủ và 23 người vươt biên, tòan người trong gia đình. Mọi chuyện diễn biến êm xuôi cho đến khi gần tới hải phận quốc tế thì chuyện kinh khủng diễn ra! Sáu tên thủy thủ lực lưỡng đã bội tín! Chúng biết những người ra đi mang theo nhiều tiền và vàng nên chúng động lòng tham.

Chúng dấu dao búa và những thanh sắt vào chỗ kín trong tầu, và khi đến gần hải phận quốc tế là bắt đầu ra tay chém giết những con người đã từng cưu mang, giúp đỡ mình trong những tháng vừa qua. 

Mặc kệ những tiếng kêu la, những lời van xin thảm thiết, họ thản nhiên đập chết những người đàn ông trước khi hạ sát những người đàn bà, trẻ em rồi quăng họ xuống biển. Anh họ tôi bị một nhát búa vào đầu và hai nhát chém trên mặt. Tưởng anh đã chết, họ vất anh xuống biển lúc anh còn thoi thóp thở. Do một phép lạ, anh trôi nổi trên xác chết của một người thân. Khi tỉnh dây thấy mình nằm trong tầu của Pháp. Anh nằm bệnh viện tâm thần hơn ba năm. Sau khi xuất viện anh xin vào chùa, sống đời tu hành từ đó.

Chuyện thứ hai là chuyện gia đình chú tôi, chú Sinh. Trước ngày việt cộng xâm chiếm miền Nam chú có hai tiệm cầm đồ và một tiệm kim hoàn ở Ngã Ba Ông Tạ. Chú cũng bị đánh tư sản và phải hiến vài dãy phố cho Ủy Ban Quân Quản làm trụ sở. Không chịu nổi cảnh o ép của cộng sản, chú tôi móc nối với những người làm nghề đánh cá dưới vùng bốn để đóng tầu, tổ chức vượt biên. 

Tháng 8 năm 1978, gia đình chú gồm 30 người con cháu và anh em ruột thịt vượt thoát và sang tới traị tỵ nạn Thái Lan an toàn. Thừa thắng xông lên, chú tôi chuẩn bị chuyến tiếp theo để vợ chồng chú và số con cháu còn lại ra đi. Tôi năn nỉ chú cho vợ chồng và con tôi đi theo. Chú nhận lời, nhưng không hiểu vì lý do gì mà ngày đi chú không báo cho tôi biết. Nhưng buồn thay, chú thím tôi và cả đoàn người đã chết trên biển Đông! 

Sau nhiều năm tìm kiếm, thăm hỏi các tổ chức cứu trợ, con cháu chú đành chấp nhận sự thật là chú thím tôi và thân nhân đã chết, đành ngưng việc tìm kiếm.

Tôi còn nhớ, khoảng năm 1970, chú dẫn tôi đến một ông thầy coi tử. Ông này nói huỵch toẹt ra rằng lúc về già chú tôi sẽ bị chết lạnh, chết đói! Chú tôi ra về, rất giận giữ, nói ông thầy này bá láp. Gia tài của chú xài ba đời không hết thì làm sao có chuyện chết đói, chết lạnh! 

Riêng tôi... Tôi cũng đã từng cạy cựa đi vượt biên nhiều lần, dù một bà thầy bói đã báo trước là tôi không có số xuất ngoại bằng đường biển! Tôi phải xuất ngoại có "tiền hô hậu ủng". Ý bà nói đi chánh thức, không phải đi chui! Chuyện tôi và bà thầy bói này bắt đầu như sau. 

Tám tháng sau ngày VC vô Nam chồng tôi đã đi tù được nửa năm, dù họ nói sĩ quan cấp úy chuẩn bị thực phẩm cho mười ngày! Sau này bị dân chúng ca thán, chúng bảo "chuẩn bị lương thực mười ngày", chứ chúng không nói đi bằng đó ngày. Hiểu ra thì đã quá muộn. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo là vậy! Sau ba tháng vẫn chưa thấy chồng về, tôi và bà bạn rủ nhau ra chợ trời Huỳnh Thúc Kháng tìm cách buôn bán nuôi chồng, nuôi con.

Một hôm tôi nghe bạn hàng bàn tán về một bà thầy bói trên đường Lê Thánh Tôn, gần rạp hát Lê Lợi. Người ta nói bà coi rất hay, rất chính xác. Nhưng bà chỉ coi cho hai khách buổi sáng và môt khách buổi chiều. Muốn được bà coi bài phải có sự “tiến dẫn” của người tín cẩn của bà và giá cả của bà thì...tuốt trên mây! Trong khi những thầy bói bình thường chỉ tính khoảng năm hay sáu trăm một quẻ thì bà thâu đúng sáu ngàn. Có chồng Tây nên bà cũng đang chờ đi Pháp. Do vậy bà càng cẩn thận để tránh phiền toái với công an khu vực. Dạo đó chính quyền cộng sản cho bói bài là tệ nạn mê tín dị đoan phải quyết liệt bài trừ. [Nhưng bây giờ thì khác rồi. Các ông bà thầy bói, thầy tử vi hay các nhà ngoại cảm rất được dân chúng và cán bộ nhà nước trọng vọng]. Nghe số tiền quẻ quá lớn, tôi và bạn nghĩ bà phải giỏi thì thiên hạ mới chịu chi tiền cỡ đó. Tuy tiếc tiền, một số tiền khá lớn với chúng tôi dạo đó, nhưng vì nóng lòng muốn biết số phận của chồng và tương lai của mình, tôi và chị bạn đành nhắm mắt làm liều, nhờ người móc nối với bà. Cả tháng trời chúng tôi mới được hẹn. 

Trong căn phòng nhỏ, đồ đạc khiêm tốn, có môt chiếc bàn sáu ghế nơi bà thầy bói hành nghề. Bà ngồi hút thuốc. Trước mặt bà là một tẩu đựng tàn đầy lên tới miệng, chứng tỏ bà hút thuốc liên tu như ống khói tầu. Sau khi tôi chào và ngồi trước mặt bà, bà nói:

- Tôi chỉ nói một lần, không lập lại lần thứ hai vì khi nói xong tôi không nhớ gì nữa. 

Bà lấy ra một bộ bài Tarrot Ai Cập, một loại bài rất lạ và đẹp tôi chưa bao giờ thấy. Bà bảo tôi chia bộ bài làm hai và lật úp xuống bàn. Không hỏi tuổi tác của tôi, bà cầm bàì lên nhìn sơ qua rồi nói:

- Tôi sẽ hỏi cô hai câu. Nếu câu trả lời ăn khớp thì tôi và cô có duyên với nhau và tôi tiếp tục mở bài. Nếu không thì cô cảm phiền ra về.

Tôi chỉ biết gật đầu và “dạ” nho nhỏ. Bà bắt đầu:

- Cô đang trông tin một người đàn ông bị giam giữ?

- Dạ đúng

Câu hỏi thứ hai, cô có hai người đàn bà trẻ biệt tăm?

- Dạ

- Vậy thì tôi sẽ tiếp tục coi cho cô. Đầu tiên, người đàn ông đó sẽ không trở về trước 5 năm. Nhưng khi trở về y laị bỏ cô mà đi tiếp. Lúc cô gặp lại thì y đã có trong tay một người đàn bà khác. Người này là nợ y phải trả!

Tôi lúng túng nhìn bà thì bà nhún vai... rất Tây:

- Nợ cuả cô tới đó là hết! Hai người đàn bà cô đang mong tin thì một người là em ruột, một người là bạn thân.

Tôi gật đầu xác nhận. Bà thản nhiên nói tiếp:

- Ba năm sau cô sẽ nhận tin người em trước tết ba ngày. Mười ngày sau Tết sẽ có người đàn ông đem tin người bạn của cô.

Tôi chưa kịp hỏi thêm thì bà “phán” như đi guốc trong bụng tôi:

- Cô đừng nghe lời ai rủ rê xuất ngoại bất hợp pháp kẻo tiền mất tật mang.

Bà thầy bói bảo tôi:

- Số cô là số ra đi “tiền hô hậu ủng”! Cô là người “lù khù có ông cù độ”, hậu vận có nhà cao cửa rộng, có việc làm chốn quan trường.

Vẫn không chờ tôi đặt câu hỏi, bà nói một hơi:

- Cô không có giang buôn bán thì đừng màng chuyện mở tiệm này nọ. Nếu muốn buôn bán thì phải đi làm công, không được làm chủ. Cô chỉ có một đời chồng chính thức, một giòng con mà thôi. Muốn lấy chồng khác cũng không được vì số trời cho như vậy! Lấy chồng nữa là ngồi trên đống tiền mà khóc!

Tôi nghe bà nói mà bối rối không biết nên tin hay không. Lúc đó tôi đang mang bệnh [sau naỳ mới biết bị định bịnh lầm do y tá dán lộn tên trên ống xét nghiệm], tôi hỏi bà tôi có số chết yểu hay không? Bà trả lời:

Mệnh cô không yểu, liệu chừng sống tới ngoài 70! Còn chết năm nào, ai dám tiết lộ thiên cơ!

Sau vài câu hỏi liên quan đến gia đình, bà ngáp dài rồi bảo bà phaỉ nghỉ vì đã hết giờ “thánh” cho.

Nghe bà thầy bói nói chồng tôi sẽ không trở về trước 5 năm tôi hoang mang lắm. Mới có mấy tháng mà tôi đã mong anh quay quắt, tưởng đâu đã hai ba năm. Ngay lúc đó tôi chưa có ý đinh vượt biên vì phong trào “đi chui” lúc đó chưa rầm rộ lắm. Thỉnh thoảng một vàì chiếc tầu ra đi, mang theo những người quá phẩn chí, bị chính quyền cộng sản làm khó dễ và bóc lột quá mức chịu đựng. 

Đúng như lời bà thầy bói tiên đoán, tết năm 1978, sau hôm ông táo về trời tôi nhận được thư em gái qua một Việt Kiều bên Pháp về thăm gia đình. Sau Tết một tuần tôi laị được tin cô bạn thân do người em trai của cô còn kẹt lại đem đến. Thời gian này phong trào vượt biên đã bắt đầu lan rộng, số người tìm đường chạy trốn gông cùm cộng sản càng ngày càng tăng. Laị thêm việc vượt biên bán chính thức do Hoa Kiều tổ chức với sự che chở của chính cán bộ nhà nước. Tôi cũng nghe phong phanh tin Chính Phủ Mỹ đang điều đình để “chuộc” tù sĩ quan “cải tạo” tập trung và nhân viên Việt Nam cũ của Hoa Kỳ.

Sau mấy lần đi thăm chồng, anh rưng rưng nước mắt khuyên tôi tìm đường đem con ra đi vì anh không tin có ngày trở về. Bệnh tật, đói ăn và lối đối xử dã man vô nhân của cộng sản đã làm anh tuyệt vọng. Tôi thì thầm cho anh biết có tin Chính Phủ Hoa Kỳ sẽ tìm cách đưa sĩ quan bị tù sang Mỹ, thì anh bảo chuyện đó quá viễn tưởng, anh chỉ muốn tôi thay anh lo cho đứa con duy nhất đi tìm tương lai. 

Lời tiên tri của bà thầy bói về việc xuất ngoại không làm tôi nản chí. Có lẽ bà nói trúng chuyện tin tức em tôi và người bạn chỉ là ngẫu nhiên? Tôi và chị bạn bắt đầu đi kiếm dường giây vượt biên. Năm bảy lần ra đi, toàn đi hụt. Bị bỏ rơi dọc đường, bị lùa ra ruộng nằm chờ một con tầu ma, một chuyến đi đóng kịch. Cũng có vài chuyến đi có tổ chức đàng hoàng nhưng bị bể, bị “căn me” cướp tầu, cướp baĩ. 

Một lần đi với một tổ chức ngoài Chu Hải, tỉnh Bà Rịa, chúng tôi bị bắt lúc gần sáng tại nhà ém. Sau khi gom được mười người trong hai nhà kế nhau, một tên công an canh giũ chúng tôi trong sân với một khầu AK. Quá sợ hãi, tôi lén đưa sợi dây chuyền hai chỉ cho y rồi năn nỉ:

Chú làm ơn làm phước cho tôi và thằng con đi trốn. Tôi xin biếu chú chút quà.

Y trả lời với giọng đặc sệt miền Nam:

Chị giữ lại đem về làm vốn buôn bán. Xung quanh đây hiện có hàng trăm công an và du kích xã, chị có đủ vàng để cho họ mỗi lần bị bắt lại hay không? Khó thoát lắm chị ơi.

Người công an trẻ miền Nam vẫn còn lương tâm và tình người. Linh hồn anh ta chưa bị nhuộm đỏ. Tôi chắc anh ta là con cháu của cán bộ tập kết hạng nặng nên mới được tuyển vô làm công an. 

Đêm hôm đó, nhóm tôi, trên sáu chục người trong đoàn vượt biên bị giải về đồn công an trước khi di chuyển tới trại giam Giếng Nước Vũng Tầu. Trong lúc thẩm vấn, tên công an nói giọng Bắc hỏi tôi:

- Nhà chị ở đâu?

- Dạ….tôi ở phường Tân Tiến tỉnh Đồng Nai.

- Trưởng đồn Tân Tiến là ai vậy?

- Dạ…dạ… là anh Ba Vàng.

Tên công an lớn tiếng mắng tôi:

Xạo, xạo vừa vừa thôi nghe bà! Đồn trưởng cuả bà mà bà không biết! Cho bà hay, đồn trưởng Tân Tiến là bạn tôi mà tên của ảnh đâu phải vàng bạc như bà nói! Tôi cho bà ngồi tù thêm mấy tháng nữa cho bỏ tật xạo.

Mẹ con tôi ngồi tù hai tuần rồi được thả vì lúc đó người ta đi vượt biên nhiều đến nỗi không đủ nhà tù để giam giữ. Đàn bà con nít thường được về sớm nếu không phải bà con hay tay chân của chủ tầu hoặc ban tổ chức.

Mấy tháng sau, tôi và bà bạn lại tiếp tục kiếm đường giây vượt biên. Lần này chúng tôi chuyển hướng, về miền Tây, nhưng rồi chuyến đi cũng bị thất bại, không thấy Mỹ Quốc mà chỉ thấy Mỹ Tho.

Sau 5 năm 8 tháng bị tù tập trung, chồng tôi được tha. Vì quá nóng lòng, anh cứ đôn đáo tìm mối vượt biên, không tin vào tin chính phủ Mỹ sẽ “chuộc” các sĩ quan VNCH và đem họ sang Mỹ. Tôi không muốn anh đi ngay lúc đó, vì anh còn đang bị quản chế, mỗi thứ hai phải ra đồn công an trình diện, trong thời gian một năm. Nếu không chấp hành quản chế “tốt” thì sẽ kéo dài lâu hơn, cũng có thể bi đi “học tập” trở lại. 

Khi anh chồng tôi kiếm được mối ngoài Chu Hải thì vợ chồng tôi và cậu con lại khăn gói ra đi. Nhà ém nằm tại ấp Long Hương. Buổi chiều đến nhà ém tự nhiên tôi có cảm giác bất an. Thổ lộ với chồng thì anh bảo tôi lo quá hoá nhảm, vì ông anh chồng quả quyết là tổ chức này đã mua hết bến bãi, từ tỉnh xuống xã thì không cách nào bị “bể” được. 

Tôi vẫn áy naý trong lòng, rủ chồng bỏ về, chờ chuyến khác. Anh không chịu về, mà còn nói nếu tôi không muốn đi thì cứ về, anh sẽ đi một mình. Biết không lay chuyển được quyết tâm của chồng, tôi đành chiều ý, ở lại. 

Tôi đưa mắt quan sát chung quanh khu nhà, theo thói quen mỗi lần đi vượt biên. Nhà ém là căn nhà sau, gần bếp, chỉ có hai phòng ngăn chia bằng vài tấm liếp. Không giường, chỉ có mấy tấm chiếu trải trên nền đất cho khách ngồi nghỉ chờ ngày ra ghe. Phía sau nhà là một sân đất làm nơi giặt giũ, sửa soạn nấu nướng của chủ nhà. Bên tay phải là một chuồng heo trống trơn, chỉ còn lại mấy khung củi và vài tấm vải bố che nắng mưa. Đằng sau là một hàng rào bằng những cây mía và chuối. Hàng rào có cánh cổng bằng cây dẫn ra ruộng lúa mênh mông. Bà chủ nhà dặn là đêm sau moị người sẽ đi bộ ra bãi bằng con đường hẹp bắt đầu từ chiếc cổng xiêu vẹo này. 

Tôi vẫn mang cảm giác bất an nên lưỡng lự, chỉ muốn đưa con ra về dù biết chồng tôi sẽ ở lại. Bất giác tôi nhớ lại những lời bà thầy bói rồi rùng mình.

Khoảng gần nửa đêm chủ nhà thì thào đánh thức “gà” dậy, bảo phải chạy ra trốn ngoài ruộng, nhưng phải đi thật xa, không được quanh quẩn gần nhà kẻo mang vạ cho bà. Tôi tức quá, vậy mà bảo đã mua bến bãi đầy đủ. Tôi nghe tiếng gọi nhau ơi ớí từ các căn nhà kế bên, tiếng quát tháo, doạ nạt ầm ỹ. Biết là đã bị bể, tôi vôị bế con chaỵ ra trốn sau chuồng heo thay vì chaỵ ra ruộng lúa như bà chủ nhà căn dặn. Tôi biết có ra đó rồi cũng bị bắt, không sớm thì muộn. Chẳng thà ở đây, phó mặc cho may ruỉ. Trốn một chỗ sợ bị bắt cả nhà, tôi khuyên chồng nên chạy ra ruộng, chạy thật xa, nhưng không ra bãi mà nên chạy ngược về hướng làng bên cạnh. Anh đứng dậy, ra đi. Ít phút sau một tên công an và ba bốn tên du kích ra đứng ngoài sân. Tên công an ra lệnh:

Hai thằng ra ngoài ruộng coi có đứa nào trốn ngoài đó không. Thằng Yên, mày ra soát chuồng heo. 

Tên du kích lấy đèn pin roị chuồng heo. Tôi và thằng con nằm bên ngoài, ráng ép mình sát xuống đất. Như có người bịt mắt, tên du kích không thấy mẹ con tôi đang nằm ngay chiếc lu bể nên bỏ đi. 

Hai thằng từ ruộng quay lại, nói gà chạy đâu mất tiêu, không thấy con nào ngoài đó. Chúng rủ nhau sang nhà bên cạnh. Mới đi mấy bước, bốn thằng bỗng đứng lại. Một thằng lên tiếng:

Có tiếng sột soạt ngoài buị mía, để tôi lại coi.

Tôi điếng người. Có thể chồng tôi trốn trong đó. Một lát, y lên tiếng:

Ra mau không tao bắn bể óc. Ra mau, đưa hai tay lên đầu. 

Đúng là chồng tôi. Anh không chạy ra ruộng như tôi căn dặn, mà lại trốn vào buị mía cho kiến cắn. Bị cắn đau quá, anh nhúc nhích làm lá mía kêu xào xạc. Than ôi! Vì bắt được chồng tôi, thằng công an ra lệnh cho tên du kích trở lại khám chuồng heo lần nữa, cả trong lẫn ngoài. Thế là mẹ con tôi cùng chịu chung số phận tù đầy với ba của nó.

Sau sáu tháng bị giam cầm, anh được tha nhờ khai gian lý lịch. Không dám trở về để bị vô tù trở lại, chồng tôi đến nhà người anh ở trọ, thử thêm thời vận vài lần nữa. Cuối cùng, anh ra đi một mình vì chúng tôi hết vàng, chỉ còn đủ cho mình anh. 

*
Vài năm sau, tôi và con tôi cũng được đặt chân lên đất Mỹ nhờ đơn bảo lãnh của xếp cũ và bảo trợ tài chánh của cô em. Đúng là có kẻ đưa người đón theo lời tiên đoán của bà thầy bói.

Tôi càng thán phục bà hơn, vi khi sang Mỹ, tôi đi làm cho một công ty thời trang được tám năm trước khi trúng tuyển, vào làm trong một cơ quan chính phủ. Và cũng đúng như bà báo trước, vợ chồng tôi chia tay, tôi ở vậy nuôi con cho tới ngày nó ra trường và cưới vợ. 

Nhiều khi tôi tự hỏi không biết giờ này bà ở đâu? Bà đang phì phèo hút thuốc bên trời Tây, hay đang rong chơi tiên cảnh? Phải chi hồi đó tôi nghe lời bà, thì đâu có mất vài chục lượng vàng oan uổng. 

Nhưng dù có phải mất nhiêu đó mà mang được con đến đây, một quốc gia giàu mạnh, một quốc gia cho chúng tôi nhiều cơ hội để sống và làm người, thì chỉ là một cái giá nhỏ. Quá nhỏ so với những ân huệ quí giá mà nhiều khi ta quên lãng hay coi thường. 

Nhiều người quen của tôi thỉnh thoảng than vãn về những khoản thuế phải đóng, những loại bảo hiểm phải mua rồi so sánh hơn thua với nước này nước kia. Tôi hỏi họ, “Nếu nước Mỹ không là nơi lý tưởng để sống, thì tại sao có nhiều người từ các quốc gia văn minh khác cũng ráo riết tìm cơ hội để có được tấm thẻ xanh vào Mỹ, hy vọng một ngày nào đó trở thành công dân Mỹ?” 

Vài người laị tán tụng những cái hào nhoáng [bề ngoài] tại Việt Nam ngày nay. Tôi hỏi họ có muốn trở về làm công dân Việt Nam trong chế độ cộng sản hay không, thì ai cũng lắc đầu! Về làm gì khi chính những “cựu thù” của “Đế Quốc Mỹ” cũng đã và đang “tích cực tranh thủ” tìm cách vào Mỹ qua diện kết hôn hoặc đầu tư?

Huyền Thoại Thịnh Hương

No comments:

Blog Archive