Monday, November 14, 2016

Tháng Mười Một



Image result for monkey bridge photo

Khi gió hanh hao về làm vàng hoa cúc, những vuông cỏ khô trước nhà người bản xứ lập loè ánh đèn lễ hội. Tôi vẫn đi về hai buổi qua những ruộng bắp đã thu hoạch mà nhớ những cánh đồng tháng mười âm lịch bên nhà vàng trơ gốc rạ cũng vào mùa này. Mùa tạ ơn đã về trong nỗi nhớ quê xa nhà nhà cúng mừng lúa mới. Nhưng ở nơi xa quê chỉ có lọn gió heo may đã về gợi nhớ gió chướng quê nhà làm chất ngất nỗi niềm; thoáng chiếc nón lá vừa khuất tầm thang máy trong thương xá cũng hụt hẫng trái tim viễn xứ… Nói gì tới những kỷ niệm không tên nhưng ấm lòng dạt trôi biết bao khi chiều buông theo gió hương rừng sau nhà vào thu, sao lại nhớ một miền quê sông nước đến nao lòng bật khúc Tạ Ơn khi mùa về.

Có lẽ cái ngặt của tuổi già là ai cũng có một thời tuổi trẻ. Ký ức ấy về đâu thì nơi đó là quê hương của tâm hồn. Bình minh dậy nơi đâu có tự do thì nơi đó là quê hương của nỗi nhớ.
...
Nơi có cây cầu khỉ

Nhà tôi ở xóm cầu gỗ. Tôi thích người Việt nơi đây gọi tên xóm nhà tôi ở như thế vì nghe thân thương hơn cái tên Mỹ của xóm nhà là Woodbridge. Từ đường lớn North 78 quẹo vô xóm nhà theo ngõ Woodbridge Pkwy, người ta làm hai thành cầu gỗ hai bên đường. Mặt cầu vẫn là đường bê tông, hai đầu cầu lót gạch đỏ đều như trải thảm. Nhưng nước chảy thông thương từ những tầng đá chất như suối tự nhiên rất đẹp, lại thêm hoa lá rậm rì bốn mùa…

Bạn bè tới chơi nhà thường hỏi tôi: “Khu nhà ông ở chắc tiền HOA mắc lắm phải không? Vì đầu ngõ vô khu nhà này họ làm đẹp quá!”

Ừ thì hoa theo tiếng Việt là bông hoa cũng được mà theo tiếng Anh là tiền đóng hàng tháng cho Hiệp hội Chủ nhà (Homeowners Association) để họ trả cho những người dọn dẹp, chăm sóc cảnh quan chung cho khu nhà cũng được. Với tôi cây cầu gỗ thật như giả cũng đã quá đủ cho lòng nhớ cây cầu khỉ một thời đã xa. Nhớ lại thời gian rời xa cây cầu khỉ đã hơn tuổi đời khi tôi ở đó. Sống, và dạy học…

Thời đó tôi thường thức dậy sớm nhất trong khu tập thể giáo viên. Vào một sáng Chủ nhật nên mọi người ngủ nướng kỹ hơn nữa. Phần các thầy thì khỏi nói, đêm qua mưa dầm mà nhậu quá trời. Tôi không hy vọng có bạn cùng ra quán uống cà phê, ăn sáng, nên đi một mình.

Con đường đê lầy lội bởi mưa một phần, một phần đêm qua mấy thầy đi nhậu về làm cho nó trơn trợt hơn. Tôi cẩn thận qua được một đoạn đầy những dấu chân người. Đến cây cầu khỉ trước mặt hiện ra những vết sình đất của người dân đi sớm, hay của các thầy về muộn? Dễ nhìn ra lắm, vì những người say thường giậm chân nhiều lần mới bước qua cầu, còn người tỉnh thì qua cầu rồi mới giậm chân là để trút vía cầu đừng theo chân nữa làm khó đi. Người dưới quê mê tín dị đoan những điều khó hiểu. Nhờ quan sát nên tôi thấy được vạt áo của thầy Dũng trên tay vịn cầu khỉ thì biết đêm qua thầy đi mò tôm nên thầy chửi bới cây cầu quá chừng, tới tôi đã ngủ còn giật mình nghe được.

Tôi qua được cây cầu khỉ như kỳ tích, may mắn không ngờ, đến cô giáo Thu đang đánh răng trước phòng nữ trong khu tập thể giáo viên phải ngậm bàn chải để vỗ tay chúc mừng tôi. Tội nghiệp cô Thu cũng hay dậy sớm để thêu thùa hòng kiếm thêm thu nhập cho gia đình cô còn khó khăn.

Tiếp theo là một đoạn đê đất sét cứng, giữa cao, hai bên soải xuống. Người địa phương gọi là đường sườn bò. Mấy thầy còn té lên té xuống, nói gì mấy cô. Nhờ ơn trên che chở, tôi qua được như điềm báo một ngày lành. Thật ra với loại đường này nếu đi chân đất sẽ dễ đi hơn mang dép vì nhờ được mấy đầu ngón chân bấu xuống đất. Nhưng tại tôi mới được học trò cho đôi dép mới, định mang cho nó vui. Vì Chủ nhật trên con đường độc đạo thì thầy trò có đến chín phần mười là sẽ gặp nhau. Thương người học trò đã hai mươi hai tuổi, có vợ và hai con. Nhưng học lớp tám ba năm liền vẫn chưa lên lớp chín. Vậy chứ một tiếng thầy, hai tiếng thầy, xưng con lễ phép với ông thầy chỉ hơn anh ta ba tuổi. Em ấy nói với tôi: “Con mua đôi dép hai ba năm rồi, còn chưa xỏ tới. Thầy lấy mang đi, để nó mục.”

Học trò ở đây mười tám, hai mươi mới lên đến lớp chín. Con trai mà nghỉ học thì đi làm dziệc (việc) cho Ban ngành hay Uỷ ban Xã, vì dù gì họ cũng đã thuộc tầng lớp biết đọc biết viết. Con gái nghỉ học tức là đi lấy chồng. Cũng có những em học hành sáng dạ lắm. Nhưng không có lớp mười cho các em lên. Ở cấp Xã chỉ có trường cấp II thôi. Muốn lên trường cấp III phải về trường Huyện. Nhưng phương tiện ngày xưa, lại ở xứ cửa sông cửa biển thì từ Xã lên Huyện phải mất một ngày ngồi đò. Và đâu có mấy gia đình ở vùng quê nước lợ này mà đủ tiền cho con đi học xa vì còn phải lo ăn, lo ở nữa…

Cuối cùng tôi cũng ra được đường cái quan là con đường xi măng chừng hai mét bề ngang và dài như con rắn xuyên qua xóm làng. Đứng ở ngã ba đường, tôi phân vân rẽ phải hay trái? Bên trái được tự nhiên sắp đặt sân banh, quán nhậu, uỷ ban, cầu đò. Bên phải là quán ăn, trường học, trạm xá. Mặt trời mọc thì đi về bên phải, mặt trời lặn thì đi về bên trái. Chân lý đó do thầy Bình-mồng tơi nghĩ ra. Chẳng biết sao thầy Bình dạy Anh văn nhưng chỉ hát mỗi một câu nhạc Việt: “Mồng tơi ơi hỡi mồng tơi, rồi mưa phùn ướt trái mồng tơi…” Nên thầy có tên Bình-mồng tơi là vậy. Cũng để phân biệt thầy với thầy Bình-em gái. Thầy Bình này thích nắm tay con trai hơn nên cứ bị các cô bên trường Mẫu giáo ghẹo, “Bình ơi, cho nắm tay Bình cái đi…” Là thầy Bình-em gái đỏ mặt như xôi gấc.

Tôi nhìn về bên trái, nhớ bữa nhậu chiều qua ở quán chị Tám Hưởng mới ngậm ngùi. Chị là O du kích trong kháng chiến. Sau hòa bình, chị phải mang một cái chân giả. Chị lấy anh Sáu Thưởng như lời hứa của chị: “Chừng nào hòa bình thì làm đám cưới.” Những lúc rảnh, nghe chị kể chuyện tình trong chiến khu cũng đầy nước mắt song song với nụ cười. Anh Sáu Thưởng vì cứu chị bị thương nên anh mất luôn hai giò. Tổng cộng trong nhà chị có ba cái chân giả của hai người nông dân không biết chữ. Họ đi làm cách mạng về chỉ được cuốn sổ thương binh. Hàng tháng được cấp vài ký gạo, tiền không đủ sống nên mở quán kiếm thêm để nuôi con. Chị nói: “Mấy thầy thương thì uống cà phê sáng và ăn nhậu buổi tối ở đây cho tui có gạo nuôi con là cám ơn nhiều.”

Nhìn hai người khật khưỡng trên những cái chân giả. Nhà thì nền đất, mái lá, bên ngoài mưa lớn bên trong mưa nhỏ. Chẳng ai còn nghĩ đến chính trị chính em ở cái xứ ven biển này. Chỉ thấy tội nghiệp, những đêm mưa gió bão bùng, chị ngồi xổm trên chân thật mà nhổ lông gà, duỗi cái chân giả dài ra với ánh đèn dầu vì đâu co lại được. Chân giả làm tại Việt nam thời đó còn thô sơ. Chị còn kể lể, phải quấn giẻ đầu chân cụt trước khi xỏ vào ống chân giả cho đỡ đau, nhưng chỉ đi được một lát là đau thốn lên đến tim. Chị tả vậy biết vậy, nhưng chắc đúng vì quán trưa vắng khách, cũng thường thấy chị tháo bỏ chân giả, rồi cò cò bán quán rất tội nghiệp. Cánh thầy giáo cũng vì thế nên tự đi châm bình trà uống thêm chứ chẳng ai nỡ gọi chị để xin bình trà. Tôi nhớ hoài hình ảnh chị ngồi nhổ lông gà những đêm mưa để làm món nhậu cho mấy ông thầy giáo nghèo. Chứ dân Quản lý thị trường, Công an biên phòng bắt vượt biên thì họ đâu có nhậu nơi đây.

Chị Tám thường lấy bộ lòng xào củ hành cho mấy thầy nhậu trước. Sau đó luộc gà chín tới thì trộn gỏi bắp cải, nước lèo nấu cháo hành là xong cho một bàn. Có khi mấy thầy nhậu hai ba bàn khi tiền lương hàng tháng về thì nhìn chị như con rối, mồ hôi, tóc mai cứ bện lấy thương khó trên gương mặt người phụ nữ quê mùa.

Nhiều khi chúng tôi cười trên sự đau khổ của chị rồi đêm về ăn năn. Giả như thầy Thạnh nói: “Hòa bình mới có mấy năm mà đã ba bốn đứa con nheo nhóc, thấy ớn.” Thầy Long hoạ tiếp: “Trời se duyên thôi. Anh Sáu Thưởng thì chị Tám Hưởng. Không nheo nhóc sao được?” Cả đám cười ồ lên để đêm về thấy mình không phải…

Đã bao năm rồi vẫn không quên những đêm mưa tù mù đèn dầu ở miền ven biển quê nhà, không quên được những người bạn đầu xanh lao vào ngõ cụt. Rồi phép lạ làm nên thương mến nhau, rồi cùng nhau thương học trò. Hay tự thân những học trò nhỏ hơn thầy chỉ vài tuổi nhưng lễ phép, xử sự đậm tình người đã tạo ra những tình cảm nhớ mãi về một miền quê ven biển thật nghèo nhưng hiền hoà, bao dung, tự tại…

Mặt trời đã nhú mé sông, tôi lững thững đi về bên phải. Định bụng xuống quán cô Chanh để ăn tô bánh canh giò heo cho ấm bụng. Đầu óc lại nghĩ tiếp đến những vui buồn xứ cửa biển tình nồng này thật lắm chuyện vui.

Cô Chanh, thoạt tiên kỳ thủy là người dễ nhìn, trắng da dài tóc. Mười tám tuổi, tốt nghiệp lớp chín. Cô Chanh về thành phố học hai năm để làm Y tá. Công thành danh toại, cô về lại địa phương làm trưởng Trạm xá kiêm luôn nhân viên vì chỉ có mình cô.

Duyên tiền định của cô đến vào một ngày không nắng thì mưa, (theo Dự báo Thời tiết thuở ấy!) Thầy Thạnh đau bụng quá nên bên giáo viên đưa thầy qua cho cô Chanh khám bệnh. Cô Chanh chẩn đoán thầy Thạnh đau ruột thừa, phải đưa về thành phố mổ gấp. Nếu không bể ruột sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang bụng thì hết thuốc chữa.

Tình hình khẩn cấp, không đợi được tàu đò vì tới hai giờ đêm mới có chuyến về thành phố. Nên bên giáo viên phải cậy bên chính quyền để giải quyết. Bên trạm xá, cô Chanh đích thân đi với mấy thầy cô giáo đến gặp ông Sáu Chín là bí thư xã. Ông già lùn, béo ngậy này lại nhập vô đoàn người đang đi kêu cứu để cùng đến Trạm thu mua thủy hải sản. Ông yêu cầu bên thủy sản có ghe nhỏ máy lớn, chạy nhanh. Xin đưa thầy Thạnh về Sài gòn, gấp.

Ông Sáu Chín ngoài tật hám gái như cái tên kháng chiến của ông thì ông cũng tử tế, nhất là với bên thầy cô giáo. Đỉnh cao trí tuệ của ông là nhận định về tình hình địa phương mùa gặt, ông nói tóm tắt trên bàn nhậu: “Tui thích nhìn con gái chổng mông cắt lúa.” Nên ông học Bổ túc văn hoá mãi cũng không tốt nghiệp được cấp II phổ thông, chỉ uống rượu là giỏi.

Hôm đó, cô Chanh theo ghe thủy sản về thành phố để giúp cho thầy Thạnh như người nhà hơn là y tá. Cô chuẩn đoán đúng về bệnh trạng của thầy Thạnh. Thầy phải mổ và bác sĩ ở thành phố còn cho biết là thầy may mắn. Chỗ ruột thừa vừa bể, phải cắt một đoạn ruột nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thầy chỉ phải mang cái tên: Thầy Thạnh-đứt ruột đến cuối đời thôi.

Cô Chanh ở lại thành phố chăm sóc cho thầy Thạnh đến ngày xuất viện. Chuyện này hoàn toàn tự ý chứ không phải nhiệm vụ của cô. Sau đó, cô thấy gia đình thầy Thạnh nghèo nên lơ là bệnh nhân, chăm sóc không đủ thuốc, bồi bổ không đủ tiền để lo cho thầy Thạnh. Cô vất vả đi lên đi xuống may mà có em từ nhà cô lên nhà thầy Thạnh cả ngày đường xe, đường đò để chăm sóc tiếp cho đến khi thầy khỏe lại.

Cả hơn tháng sau thầy Thạnh mới trở lại nhiệm sở. Thì cô Chanh lại đưa thầy Thạnh về nhà mình để chăm sóc tiếp vì cô sợ thức ăn thiếu vệ sinh bên nhà ăn Liên cơ, (nhiều cơ quan hợp lại gọi là “liên cơ”, từ ngữ sau hoà bình nó thế!) Cô Chanh sợ cả thức ăn ngoài quán xá thiếu vệ sinh cho ruột thầy Thạnh mới lành vết nối, bụng mới lành vết mổ.

Thầy Thạnh tốt số nên lại sức mau như nắng tốt dưa mưa tốt luá. Ơn cứu mạng của cô Chanh hẳn nặng lòng người thầy giáo trẻ. Thầy chăm sóc lại cho cô Chanh đã hao gầy vì cực khổ, lo lắng cho thầy. Rồi hè đến, thầy không về thành phố để thâu đêm vũ trường mà ở lại để lợp mái nhà mới cho cô Chanh, dựng chuồng nuôi heo, đắp bờ mương, vét ao thả cá… Bởi nhà cô Chanh chỉ một mẹ một con. Cha cô đã sớm lên bàn thờ vì ông cũng theo phe kháng chiến hồi chiến tranh.

Hè sang, các thầy cô trở lại trường không lâu đã được ăn đầy tháng con thầy Thạnh với cô Chanh y tá. Từ đó thầy Bình-mồng tơi hết hát nhạc mồng tơi mà đọc thơ… “đến đây thì ở lại đây, hổng chừng đứt ruột lại hay hơn dzìa!”…

Để đáp ứng cho đòi hỏi của dân thành phố xuống công tác: Quán xá phải có vệ sinh một chút. Thầy Thạnh - cô Chanh được sự ủng hộ của toàn trường nên mở quán bán bánh canh giò heo buổi sáng. Bởi cô Chanh nấu bánh canh ngon tuyệt, lại là y tá nên cô rửa tô bằng nước ngọt, có xà bông, làm mọi người được yên tâm về vệ sinh thực phẩm ở xứ nước ngọt quý như vàng.

Từ đó bánh canh bên quán bà Sáu Chiến bị ế, vì ai cũng chê thiếu vệ sinh. Nhưng thầy Hiền nghĩ khác. Một hôm thầy ra quán muộn, quán cô Chanh hết bánh canh. Cô xin lỗi và nói thầy Hiền ăn đỡ bánh canh bên quán bà Sáu Chiến (xéo xéo quán cô Chanh).

Không ăn thì thôi, khơi khơi thầy Hiền nói: “Ăn đây quen rồi. Giò cô Chanh không có lông. Giò bà Sáu Chiến lông không hà!” Đám thầy giáo cười bò lăn… thầy Hiền dạy thể dục nên ít để ý chữ nghĩa. Nhưng khi biết mình đắc tội với thầy Thạnh. Thầy Hiền xin lỗi cô Chanh. Rót rượu xin lỗi thầy Thạnh. Anh em thầy giáo được bữa cười no bụng lại no cả bao tử tới hết tháng lương của thầy Hiền, vì xin lỗi thì phải xin lỗi tới sạch túi mới là xin lỗi. Nhưng bánh canh cô Chanh nổi tiếng về tới Phòng giáo dục huyện là giò cô Chanh không có lông.

Sáng đó, tôi xuống đến quán cô Chanh. Thấy thầy Hiệu trưởng đã ngồi thù lù trong góc quán. Gãi đầu, bứt tai. Thầy tốt nghiệp khoa văn trường Đại học sư phạm thành phố khóa một, lại vui tính nên thầy chơi chữ mê ly. Từng câu, từng chữ thầy nói ra đều ẩn ý một nụ cười cho người hay chữ… Sao sáng nay sư huynh như rầu thúi ruột vậy kìa? Tôi hỏi thầy:

“Chuyện gì rầu vậy sư huynh?”

Thầy nói: “Thằng Thạnh nó cứ lo sóc con Chanh mẹ, chăm con Chanh con. Không lo nấu bánh canh gì hết. Giờ này chưa có gì ăn, đói chết mồ tổ…”

“Chuyện nhà người ta sao sư huynh rành vậy?”…

“Tối qua, tao ngủ đây chứ đâu. Mưa quá, làm biếng về trường. Cái thằng Thạnh bỏ bạn, nhậu chưa tới đâu đã đi ngủ sớm để sáng dậy sớm nấu bánh canh. Nhưng nó dạy thì dở mà dzợ thì hay. Nên giờ đã sáng bét còn chưa có bánh canh để ăn.

Tôi chỉ biết cười với thầy Hiệu trưởng vui tánh. Thầy Thạnh lu bu trong nhà nào con, nào việc tù lu. Cô Chanh cũng chịu cực bếp núc, buôn bán giỏi. Nhưng sáng nay có người chuyển bụng sanh em bé đã đến Trạm xá nên cô bỏ hết để đi làm bà mụ trước đã…

Thấy cảnh vợ con của thầy Thạnh, tôi ngán lắm. Từ hai người độc thân, tự do như ý. Chỉ ơn nghĩa nhau mà thành đầu tắt mặt tối. Nhưng cũng được điều là cô Chanh đã như người nhà của anh chị em giáo viên. Ai bị bệnh thì được sang nhà cô Chanh nghỉ ngơi để cô chăm sóc, không phải ở trong tập thể. Cô vui lắm với tánh người thích giúp đỡ người khác. Thầy Thạnh cũng vui vẻ hơn xưa, từ ngày lấy vợ thầy càng hiền ra, và thương bạn bè cụ thể hơn. Thầy ưa giành vợ cái khoản tính tiền bàn bạn bè vì có nhiêu đưa nhiêu. Thầy bỏ luôn vào tủ, không đếm.

Thầy Thạnh sáng ra nhìn như một ông Tàu bán hủ tiếu thứ thiệt với khăn tay vắt vai, tạp dề quấn bụng… Sáng đó. Thầy Thạnh nói với tôi nhưng mắt lỉa qua thầy Hiệu trưởng: “Tối qua có người khóc thấy thương với tao. Chết cha tao rồi. Vợ tao có bầu nữa rồi Thạnh ơi!”

Thầy Hiệu trưởng đằng hắng không ưng thầy Thạnh lắm chuyện. Sao tâm sự của hai thầy có vợ lại đi kể cho thầy độc thân (tôi) nghe… Tôi chỉ biết nhìn thầy Hiệu trưởng mà thương cảm cho sư huynh. Cứ vì đàn em thân yêu mà bỏ vợ con ở Sài gòn. Thỉnh thoảng mới về nhà, làm sao tránh khỏi những tai nạn giao thông trên giường chiếu không đèn thời cúp điện triền miên ở Sài gòn.

Ăn xong, tôi đi tiếp cho đến hết con đường là nhà đứa học trò biết may, lại có máy may ở nhà. Tôi đã nhờ em vá đầu gối quần jean cho thầy từ tuần trước. Sẵn rảnh thì đi lấy luôn. Đầu óc lại nghĩ bâng quơ. Chợt nhớ ra hai ba tháng trước. Bất chợt một chiều, thầy Hiệu trưởng đang đá banh sôi nổi với anh em giáo viên và cả dân địa phương thì thầy nhận được điện tín, “Anh về gấp. Má bệnh nặng…” Vậy là thầy bất kể gian nan. Về nhà ở Sài gòn mới hay bà nhạc đi chợ. Lúc qua đường không may nên bị xe tông. Bác gái mất nhiều máu quá, nhưng bốn năm người con ruột thì khác nhóm máu nên không cho mẹ được. Gia đình lại không muốn mua máu ở Trung tâm tiếp huyết vì sợ máu của dân xì ke, ma túy. Vợ thầy Hiệu trưởng mới có sáng kiến gọi thầy về trong hy vọng cùng nhóm máu với nhạc mẫu. Ai dè cùng thiệt. Vậy là thầy cho xả láng.

Bác gái bình phục mau chóng và được về nhà. Vợ thầy cảm kích ơn cứu mạng má em. Chắc cô lấy thân đền đáp quá nhiệt tình nên mới có chuyện thầy ngồi than thở với thầy có vợ là thầy Thạnh: “Chết cha tao rồi…!”

Coi như đi đứt cái danh hiệu tiên tiến năm nay vì thầy Hiệu trưởng đã có hai đứa con. Phải làm kiểm điểm đã đành, không chừng bay chức nữa…

Đoạn sau của thầy Hiệu trưởng mới phản khoa học nhưng có thật. Từ ngày bà nhạc của thầy ở bệnh viện về. Chiều nào không có cho bà ngoại một xị rượu thì ngoại dỗi cơm, không thèm ăn. Ai cũng bảo là trong người bác gái bây giờ toàn là máu thằng rể. Không có rượu đế thì làm sao sống?

Thầy mặc kệ vợ eo xèo sao anh cứ cho má uống rượu, thầy về nhà thường hơn vì đã có bạn nhậu mới ở nhà là nhạc mẫu luôn chờ rể hiền đem tôm cá miền biển về nhậu. Nhờ nhậu, bác gái sống thêm được hơn mười năm nữa mới cưỡi hạc quy tiên.

Nghe người ta nói có con sâu rượu trong máu người hay uống, lại có thể truyền từ người này sang người khác. Nhưng chuyện ấy để khoa học giải thích. Chuyện dở khóc dở cười của thầy Hiệu trưởng với bà nhạc thì cứ tiếp tục râm ran mãi về sau khi anh chị em dạy học có dịp gặp lại.

Tạ ơn những người bạn một thời nhưng cho nhau một đời vẫn nhớ thương nhau.

Cảm ơn thầy Tề, là nhà văn Nửa Trang, là người anh em chia cơm xẻ áo cùng thời đã ghé tôi lai rai mùa về. Mới đó đầu xanh giờ đã hai khứa lâm râm tóc bạc. Mới hồi nào nằm mơ cũng không dám thấy mình lái xe hơi. Vậy mà giờ đi thăm bạn có hơn tiếng lái đã nhờ con gái chở ba đi. Hồi nào Tề hả, chỉ ước đủ tiền để uống cho đã với anh em một bữa khi hè về chia tay. Giờ thì chỉ còn hai anh em mình ngồi nhắc nhau về kỷ niệm đã đủ say, nhớ bạn bè một thuở tưởng như thời cuộc, nhưng lại chỉ có thời cuộc là qua đi thôi.

Chúng tôi nhắc nhau đến từng người bạn, từng chuyện nhỏ như mới hôm qua… Nên xin gọi cây cầu Woodbridge là cây cầu khỉ. Bạn bè nào còn. Xin qua cầu Woodbridge như cây cầu khỉ ngày xưa mà viếng tệ xá của người viết. Nhất là mùa Tạ Ơn đã về rồi các bạn ơi!

Phan

No comments:

Blog Archive