Đại dịch chết người: Tiếng pháo hiệu dự báo sự thay triều đổi đại
Đại dịch tại Athens khiến văn minh Hy Lạp từ đỉnh vinh quang rơi xuống đáy vực suy tàn. Đến ngày nay, nguyên nhân gây bệnh vẫn là điều gây tranh cãi. Tuy nhiên, các văn vật lịch sử cho thấy thời điểm hủy diệt cũng là khi xã hội trượt dốc, đạo đức bại hoại. Loạn luân, đồng tính, bạo lực và giết chóc là hình ảnh thường thấy trong những đêm cuồng hoan trụy lạc của con người.
Hễ đề cập đến dịch bệnh trên phạm vi thế giới hoặc những đại dịch có tính hủy diệt lớn là có người hoảng sợ như nói đến cọp dữ. Hậu quả của dịch bệnh thường rất bi thảm, khiến người ta sợ hãi giống như phải đối mặt với bóng ma vô hình.
Trong lịch sử thế giới, cả phương Đông và phương Tây đều từng xuất hiện những căn bệnh vô cùng nguy hiểm, trong đó có những đại dịch là lời dự đoán về sự thay triều đổi đại hoặc cảnh báo về mức độ bại hoại trong xã hội đương thời.
Đại ôn dịch Đông Hán: Vương triều mạt thế
Những năm cuối thời Đông Hán, bên ngoài thành Lạc Dương vắng vẻ không một bóng người, cỏ dại mọc um tùm, từ lâu đã không còn quang cảnh phồn hoa như gấm hay cảnh người người tấp nập, ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Trong bài thơ “Khao lý hành”, Tào Tháo miêu tả:
“Áo giáp sinh chấy rậnÐồng hoang đầy xương trắng
Nghìn dặm tiếng gà không
Trăm người còn sống một
Nghĩ đến đớn đau lòng”
Bên cạnh chiến tranh loạn lạc thì dịch bệnh có lực sát thương lớn nhất. Lúc ấy, hoạn quan làm loạn triều chính, Đổng Trác chiếm đoạt quyền hành khiến triều đình hủ bại, thuế khóa nặng nề, dân chúng không chỗ mưu sinh, Thiên thượng giáng xuống các loại thiên tai dịch bệnh để cảnh tỉnh con người.
Sử sách kể rằng, trong vỏn vẹn vài năm cuối đời Đông Hán đã có trên 10 lần xảy ra dịch bệnh, gọi chung là “thương hàn”. Người mắc bệnh thường sốt cao, khò khè khó thở, sau đó hơi thở yếu ớt dần rồi chết. Tốc độ phát bệnh nhanh, tỷ lệ tử vong cao, trên thân có tụ máu. Năm Diên Hi Hoàn Đế thứ chín (năm 166) xảy ra một hiện tượng kỳ lạ, trong sử sách ghi chép: “Trên trời xuất hiện dị tượng, mặt đất phun ra yêu khí, nhân gian có dịch bệnh”. Năm Kiến Ninh thứ hai (năm 169), thì: “Dịch bệnh hoành hành, người chết rất nhiều”.
Đại danh y Trương Trọng Cảnh viết trong phần lời nói đầu của bộ sách Thương Hàn Luận rằng, từ năm Kiến An thứ nhất đến năm thứ 9 đời Hán Hiến Đế, cả gia tộc có trên 200 người thì có đến hai phần ba chết, trong đó có bảy phần mười là chết vì thương hàn”. Kinh đô Lạc Dương nhà Hán trên một nửa dân số chết vì dịch bệnh. Tào Thực miêu tả: “Nhà nhà mang nỗi đau vì có người chết, tiếng khóc lóc đau buồn”.
Khi dịch bệnh hoành hành, văn nhân, quý tộc cũng khó thoát khỏi kiếp nạn. Trong bảy nhân vật nổi tiếng (gọi chung là “Kiến An thất tử”) thì có bốn người là Từ Cán, Trần Lâm, Ứng Sướng, Lưu Trinh bị chết trong dịch bệnh năm Kiến An thứ 22. Theo tài liệu ghi chép của quan phủ, từ năm Vĩnh Thọ thứ ba đời Hán Hoàn Đế (năm 157) đến năm Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (năm 280), dân số toàn quốc là 56,5 triệu người đã giảm xuống chỉ còn trên 16 triệu người.
Những năm cuối đời Đông Hán, chính trị hủ bại, xã hội nhiễu nhương và dịch bệnh hoành hành khiến cho hào kiệt trong dân gian phất cờ nổi dậy, quần hùng tranh quyền đoạt lợi, mở màn cho đổi đại thay triều.
Dịch hạch cuối đời Minh – Thanh: Đoạn mở đầu cho sự thay đổi triều đại
Dịch hạch được gọi là “dịch bệnh số một”, là kẻ thù tự nhiên hàng đầu của nhân loại. Con chuột bé tí xíu lại có thể kết thúc một vương triều là sự thực lịch sử mà những người thống trị rất khó tưởng tượng nhưng phải đành lòng chấp nhận.
Con người có sinh lão bệnh tử. Một triều đại cũng có quá trình hình thành, phát triển, phồn vinh và suy bại. Nhà Minh những năm Sùng Trinh được ví như một ông lão bước đi run rẩy, khác nào ngọn đèn trước gió. Quân vương lực bất tòng tâm, triều thần ai nấy đều có tư tâm, quan phủ bóc lột tàn nhẫn, bách tính như sống trong nước sôi lửa bỏng, tất cả đều đã xa rời Thiên Đạo.
Năm Vạn Lịch thứ 8, ôn dịch bắt đầu ở Đại Đồng, Sơn Tây, 10 nhà thì 9 nhà mắc bệnh. Người bệnh có biểu hiện cổ sưng to, chỉ một hai ngày là tử vong. Bệnh lây truyền rất mạnh, những người mắc bệnh hay người chết đều không có ai hỏi han, vì ai nấy đều sợ lây bệnh.
Năm Sùng Trinh thứ 6 (năm 1633), dịch hạch phát tác từ Sơn Tây, đến năm 1641 thì lan đến Bắc Kinh. Mùa hè năm đó, người ta nhìn thấy chuột kết thành từng bầy từng đàn nối đuôi nhau bơi vượt sông như đoàn quân cảm tử rồi tiến vào địa giới tỉnh Hà Nam và Hà Bắc. Cả vùng Hoa Bắc bị chuột chiếm lĩnh. Năm đó lại xảy ra đại hạn, nạn châu chấu, mất mùa và dịch bệnh khiến 60% dân thường thiệt mạng. Theo ghi chép trong sử sách thì: “Ngoài đường người chết đói ngổn ngang, người chết chỉ được chôn bằng manh chiếu”. Những người may mắn thoát chết, nếu không phải đi ăn mày khất thực thì cũng biến thành phường đạo tặc.
Trong kinh thành, dân chúng hoang mang sợ hãi không lời nào diễn tả được. Vào mùa hè, mùa thu, nếu trên thân thể ai xuất hiện một cục thịt nổi lên thì chưa đến một canh giờ đã mất mạng, do đó dịch hạch còn gọi là “Ngật đáp ôn” (dịch bệnh mụn cơm). Số người chết trong toàn kinh thành lên đến 40-50%, sau đó nhanh chóng lan đến khu vực ngoại ô như Thông Huyện, Bình Xương…
Năm Sùng Trinh thứ 16, sử sách chép: “Cả nước hoang vu vắng vẻ, dịch bệnh hoành hành”, xuất hiện “Ngật đáp ôn” (dịch bệnh mụn cơm), bệnh lông cừu”, bệnh nhân thổ ra máu loãng như nước dưa hấu, sau đó lập tức tử vong. Những vùng như Giang Tô, Chiết Giang… có hàng triệu người chết.
Năm Sùng Trinh thứ 17, khi Lý Tự Thành dẫn 55 vạn quân đánh vào thành Bắc Kinh thì bệnh dịch hạch đã hoành hành hơn một năm. Trên phòng tuyến kinh thành nhà Minh, một người lính suy nhược phải chốt giữ ba lỗ châu mai, gần như là đang diễn vở “không thành kế”.
Cũng trong năm đó, quân Thanh tiến vào Trung Nguyên, Thuận Trị đăng cơ xưng đế. Kỳ lạ là bệnh dịch hạch như là có giao hẹn trước với quân đội triều Thanh nên tự rút lui, binh lính nhà Thanh cũng không ai nhiễm bệnh.
Trên thế giới xảy ra ba lần dịch hạch, lần thứ ba bắt đầu từ Vân Nam. Năm 1894, bệnh lan đến Quảng Châu rồi đến Hồng Kông. Trải qua vài thập niên đã có gần 10 triệu người ở trên 60 quốc gia trên toàn thế giới tử vong. Vùng Đông Bắc Trung Quốc cuối thời nhà Thanh cũng bị tấn công bởi dịch bệnh bắt nguồn từ Siberia, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhà Thanh.
Bác sĩ vi trùng học Shibasaburo cho rằng nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn có dạng hình que, chỉ lây từ chuột sang người, còn giữa người với người thì không bị lây nhiễm. Năm 1911, giáo sư hàng đầu của Y học đường Bắc Dương là Mesny cũng có quan điểm tương đồng. Ông chủ trương diệt chuột là có thể diệt dịch. Nhưng thật bất hạnh là sau đó giáo sư Mesny cũng mắc căn bệnh này rồi qua đời, mặc dù ông hoàn toàn không tiếp xúc với bất kỳ loài động vật nào thuộc họ chuột.
Sau khi đại dịch cướp đi tính mạng của 6 vạn người vùng Đông Bắc Trung Quốc, một học giả người Hoa sinh ra ở Malaysia là Ngũ Liên Đức đã khống chế được dịch bệnh. Ông cho rằng vi khuẩn hình que gây ra bệnh dịch hạch cũng có thể lây từ người sang người. Ông đã dùng biện pháp cách ly và hỏa táng thi thể, nhờ đó khống chế và dập tắt được dịch bệnh. Vì vậy ông được coi là người mở đầu ngành phòng bệnh truyền nhiễm của Trung Hoa thời cận đại.
Ôn dịch thời Hy Lạp cổ: Bài học giáo huấn cho nhân loại
Cùng với sự phát triển của y học hiện đại, khả năng chiến thắng dịch bệnh không ngừng nâng cao, nhưng các đại dịch quy mô lớn gây nguy hại đến sức khỏe và tính mệnh con người lại không hề suy giảm. Ngoài Ebola, sốt rét, và bệnh SARS, nỗi ám ảnh về “cái chết đen” tuy ít khi xảy ra nhưng vẫn đủ giáng cho nhân loại đòn chí mạng.
Hơn 2000 năm trước, thành Athens huy hoàng rực rỡ bên bờ biển Aegean đột nhiên xảy ra đại dịch. Người mắc bệnh đầu tiên có triệu chứng sốt, sau đó đi ngoài, toàn thân nổi mụn đỏ, chân tay bắt đầu thối rữa. Nếu quan sát kỹ sẽ nhìn thấy giòi bọ ở vết thương thối rữa trên thân thể bệnh nhân, cứ như vậy sau 7, 8 ngày thì người bệnh qua đời.
Người mắc bệnh cơ bản không có khả năng sống sót. Nhà sử học đương thời Thucydides đã ghi chép chi tiết về dịch bệnh như sau: “Mọi người chỉ biết số người chết tăng vọt, nhưng không tìm ra nguyên nhân, cũng không tìm ra biện pháp ngăn chặn. Thi thể nhiều đến mức không có người mai táng, ngay cả những con chim, con thú, vì ăn thịt tử thi mà cũng bị tử vong, chó, gia súc trong nhà cũng không sống sót”.
Điều khiến con người khó lý giải là, dịch bệnh sau mấy năm hoành hành thì đến cuối năm 426 TCN bỗng nhiên lặng lẽ biến mất như nhận được chỉ lệnh không lời vậy.
Đại dịch ở Athens đã khiến nền văn minh Hy Lạp rực rỡ nhanh chóng đi vào suy bại. Nguyên nhân gây bệnh cho đến tận hôm nay vẫn là điều khiến các học giả bàn cãi phân vân. Nhưng người đời sau lại có thể nhận thức được rằng, xã hội Athens khi ấy đạo đức cực kỳ suy bại, cuộc sống xa xỉ phù hoa, loạn luân, đồng tính luyến ái, tàn bạo và giết chóc… Cảnh tượng cuồng loạn suốt đêm ngày dường như đã trở thành lối sống chủ yếu của người Athen thời đó.
Phải chăng đạo đức suy đồi là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nền văn minh bị hủy diệt? Việc này rất đáng để nhân loại hôm nay suy ngẫm và lấy làm bài học tự răn mình.
Đại ôn dịch La Mã cổ đại: Thần trừng phạt, phá vỡ giấc mộng phục hưng
Từ năm 56 đến năm 565, La Mã đã xảy ra bốn lần đại dịch, số người chết nhiều đến nỗi khiến đế quốc hùng mạnh từ cường thịnh rớt xuống suy tàn.
Ba lần dịch bệnh lần lượt xảy ra vào thời kỳ thống trị của vua Nero năm 65, vua Marcus Aurelius từ năm 164 đến năm 180, và tướng chỉ huy Gaius Claudius từ năm 250 đến năm 270. Đây cũng là thời kỳ các tín đồ Cơ Đốc bị chính quyền La Mã bức hại nghiêm trọng nhất.
Người đứng đầu Do Thái giáo lấy tội danh “mưu phản” để đóng đinh Chúa Jesus lên thập tự giá. Aurelius đã chặt đầu và chân tay của vô số tín đồ Cơ Đốc rồi treo khắp các phố. Để kích động cuộc bức hại, người La Mã còn vu khống rằng các tín đồ Cơ Đốc uống máu trẻ em. Do đó, nhiều học giả nhận định rằng ba lần đại dịch là sự trừng phạt nghiêm khắc của Thần cho việc đàn áp Cơ Đốc giáo. Các vị Hoàng đế từng hạ lệnh bức hại tín đồ đều bị báo ứng, nhiễm bệnh trong các đợt đại dịch mà chết.
Đại dịch lần thứ tư ở La Mã là bệnh dịch hạch, xảy ra vào thời kỳ thống trị của Justinianus năm 541, sử sách gọi là “Dịch hạch Justinianus”. Đây cũng là đại dịch đầu tiên trong ba lần đại dịch hạch của lịch sử thế giới. Theo ghi chép của nhà văn Procopius, vào thời cao điểm có 16.000 người chết mỗi ngày, “tất cả các cư dân đều giống như những quả nho xinh đẹp bị vắt kiệt nước, rồi nghiền nát một cách tàn nhẫn”.
Một nhà sử học miêu tả: “Mọi người đang trò chuyện với nhau, đột nhiên họ bắt đầu lắc lư, sau đó đổ gục xuống phố hay trong nhà. Một người tay cầm dụng cụ, đang ngồi đó làm đồ thủ công mỹ nghệ, cũng có thể đột nhiên ngã xuống, linh hồn rời cơ thể. Một người đang mua nhu yếu phẩm trong chợ, khi đang mặc cả hoặc đếm tiền thì cái chết đột nhiên ập đến với người mua hoặc với người bán, hàng hóa và tiền vẫn còn ở giữa nhưng không có ai nhặt…”.
Người mắc bệnh thường có biểu hiện sốt cao, bẹn, nách và cổ nổi hạch lớn, sau khi chết da thường có màu tím, xuất hiện đốm đen nên được gọi là “bệnh cái chết đen”. Các học giả đời sau tổng kết cho thấy tỷ lệ tử vong ở Byzantine lên đến 75%. “Họ chết như những con ruồi. Thân thể người chết chất đống, người sắp chết lăn lộn khắp nơi trên phố”.
“Ở Byzantine hoàn toàn không nhìn thấy người nào mặc quan phục, nhất là sau khi Hoàng đế cũng nhiễm bệnh. Dịch bệnh khiến trên phố ít người đi lại, đôi khi có người xuất hiện, nhưng nhất định là anh ta đang kéo một thi thể đi ra”.
Rất nhiều học giả Cơ Đốc nhận định rằng, tai họa này là “sự trừng phạt của Thượng Đế đối với những tội ác của nhân loại”. Còn theo các nhà nghiên cứu, đợt đại dịch khiến khoảng 25 triệu người trên bờ biển Địa Trung Hải tử vong.
Trước lúc dịch bệnh ập tới, cuộc chinh phục của Justinianus đạt tới cao trào. Ông ôm giấc mộng phục hưng Đế quốc La Mã, mà hoàn toàn không ngờ rằng bản thân phải đối diện với một trong những đại dịch khủng khiếp nhất lịch sử, khiến sức ảnh hưởng của quốc gia này đối với nền văn minh châu Âu đã tan biến hoàn toàn.
Cái chết đen châu Âu: Sự trừng phạt của Thượng Đế
Trận đại dịch được coi là lớn thứ hai trong lịch sử thế giới là “cái chết đen” kéo dài mấy trăm năm ở châu Âu.
Đại dịch bắt đầu từ thập kỷ 40 của thế kỷ 14 rồi dần dần lan ra khắp châu Âu. Đợt dịch hạch này gây ra cái chết cho khoảng 75 triệu người, từ Venice đến Tây Ban Nha, Syria, Hy Lạp, Anh, Pháp, rồi đến Nga, không có nước nào may mắn thoát khỏi. Dân số nước Anh và Pháp ở thế kỷ 14 và 15 đã giảm một nửa, mất mát này cao hơn rất nhiều tổng số người tử vong trong 100 năm chiến tranh Anh – Pháp.
Tu sĩ Mike ghi chép: “Khi phát bệnh, mụn nước và nhọt xuất hiện ở cánh tay, đùi và cổ. Bệnh nhân vô cùng yếu ớt, bị giày vò đau đớn khôn cùng, chỉ có thể nằm trên giường… Đến ngày thứ tư thì linh hồn thăng thiên”. Tất cả những người đã từng tới thăm hỏi hay buôn bán với người này, thậm chí là khiêng thi thể ra mộ cũng nhanh chóng tiếp bước người đó. Dịch bệnh khiến toàn bộ châu Âu rơi vào ngày tận thế. Mỗi người trong ngày tận thế có tâm trạng khác nhau, có người muốn tận hưởng lạc thú trước mắt, lại có người tìm cách rời xa thế nhân, nhưng cũng có người kiên cường chống lại dịch bệnh và hỗ trợ người khác.
Nhà truyền giáo Hilliac đã báo cáo với Giáo hoàng: “Hiện tượng kỳ lạ trên không trung là điềm báo đại dịch sắp xảy ra. Một giờ chiều ngày 20 tháng 3 năm 1345, ba hành tinh hội tụ ở chòm sao Bảo Bình – Đây là dấu hiệu chết chóc…”. Việc này hoàn toàn trùng khớp với luận đoán của nhà chiêm tinh học Jeffery: Năm 1315 và năm 1337 sẽ lần lượt xuất hiện sao chổi, năm 1325 sao Mộc và sao Thổ gặp nhau, đều là dự báo đối với bệnh cái chết đen.
Rất nhiều người dân đương thời tin rằng tội nghiệp của nhân loại vô cùng nghiêm trọng, tội cũ chưa chuộc tội mới lại tăng thêm. Bệnh cái chết đen là sự trừng phạt của Thượng Đế với nhân loại. Những người đang trong cơn hoảng loạn ấy không thể trầm tĩnh suy ngẫm nguyên nhân chính gây ra lỗi lầm này, mà suy nghĩ một cách cực đoan, từ đó hình thành phong trào “đánh roi”: Mọi người dùng roi ra sức đánh bản thân, với hy vọng giảm thiểu tội của tự thân, để được Thượng Đế khoan dung tha thứ và thoát khỏi dịch bệnh. Đó không phải là điều Thượng Đế mong muốn, hơn nữa càng không có tác dụng gì với việc khống chế dịch bệnh.
Hiện tượng kỳ lạ trong đại ôn dịch
Chúng ta thường cho rằng dịch bệnh lây nhiễm không phân biệt đối tượng. Khi dịch bệnh phát tác, phương pháp đơn giản và hữu hiệu nhất là cách ly những người chưa bị lây nhiễm với nguồn gây bệnh.
Tuy nhiên có một hiện tượng kỳ lạ xuất hiện: Theo ghi chép của một nhà sử học đương thời, một người từng an toàn trải qua cơn đại dịch hạch thì: “Có người đang rất khỏe mạnh, dù chạy khỏi thành phố vẫn bị mắc bệnh, từ đó mang dịch lan truyền đến những người chưa mắc. Lại có một số người thậm chí sống cùng với người đang mang dịch bệnh, thậm chí cả tiếp xúc với người đã chết vì dịch nhưng vẫn không bị lây nhiễm”.
“Còn có người vì mất hết gia đình, con cái, nên chủ động ôm người chết, tựa vào những người mắc bệnh với mục đích mong mình nhanh chết, nhưng dường như bệnh tật không muốn để họ đạt được mong muốn. Dù bị giày vò về tinh thần đủ thứ đủ loại nhưng họ vẫn khỏe mạnh bình thường như cũ”.
Văn hóa phương Tây lý giải về dịch bệnh là sự trừng phạt của Thượng Đế. Đạo gia và văn hóa phương Đông luôn coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, con người cùng với vũ trụ là đồng nhất, là thiên nhân hợp nhất. Khi đạo đức của những bậc đế vương, bề tôi, và dân chúng suy bại thì sẽ chịu sự trừng phạt từ Thiên thượng, Thần Phật sẽ không còn bảo hộ con người thế gian. Dịch bệnh hay động đất là một trong những phương thức trừng phạt đó.
Căn cứ theo ghi chép từ thời nhà Minh thì vào thời kỳ dịch hạch ở cuối triều Minh có hai tên trộm tham lam vô độ, ngang nhiên mò đến nhà những người chết để lấy trộm đồ. Một tên trên mái tiếp ứng, một tên lấy đồ từ nhà người chết ra ném lên mái. Vào đúng lúc tên trộm trên mái nhà giơ tay đón bắt đồ thì cả hai đồng thời ngã vật ra, chết vì bệnh dịch hạch.
Theo nghiên cứu của Ngũ Liên Đức, dịch hạch xảy ra vào cuối thời nhà Thanh bắt nguồn từ loài chuột marmota. Do màu lông chuột giống với chồn tía nên rất nhiều thương nhân bất lương đã dùng chuột để giả làm chồn tía đem bán. Năm 1910, khi bệnh dịch hạch xảy ra ở vùng Đông Bắc, ở các chợ có 2,5 triệu tấm da chuột.
Ai nói rằng thiện ác là không có báo ứng? Đạo đức suy đồi chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nền văn minh bị hủy diệt, đó là điều để nhân loại hôm nay suy ngẫm và lấy làm bài học tự răn mình.
Kiên ĐịnhTheo Aboluowang
No comments:
Post a Comment