SỰ KIỆN ĐỨC MẸ LAVANG, VIỆT NAM
Dưới triều vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con vua Quang Trung), nhà vua bách hại đạo Công Gìáo rất gắt gao, nên các nhà truyền giáo và giáo dân phải trốn lên rừng sâu núi thẳm để giữ đạo.
Nhắc đến “giáo dân phải trốn lên rừng sâu núi thẳm để ẩn trốn và giữ đạo”, chúng ta ai cũng biết: Ngày 17-8-1798 vua Cảnh Thịnh ban hành một chiếu chỉ cấm đạo rất gắt gao, một số các tín hữu ở gần đồi Cổ Vưu, Dinh Cát, Quảng Trị, phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại khu rừng có cây “lá vằng”. Nơi này là chốn rừng thiêng nước độc; lại thêm hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân lùng bắt, thú dữ ăn thịt. Các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Thiên Chúa vàĐức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.
Một hôm đang khi cùng nhau lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ, bỗng nhiên họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Giêsu Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay là Đức Mẹ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó vì đạo. Mẹ bảo họ hái một loại lá cây (lá vằng) có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: "Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ che chở chúng con trong cơn hoạn nạn"…
Sau cơn bách hại, các tín hữu cùng các giới chức địa phương đã dựng một ngôi đền khiêm tốn tại đây để tạ ơn và tôn kính Đức Mẹ. Rồi họ thường tới đây lấy “lá vằng” về sắc thành thuốc uống khi mắc bệnh hiểm nghèo. Vì thế một vài thầy lang thuốc Bắc đã sắc “lá vằng” làm thành cao để bán cho những ai cần đến.
Từ đó nơi núi đồi Cổ Vưu, Dinh Cát, Quảng Trị với rừng cây “lá vằng” xanh tươi đã trở nên Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang (La Vang đọc theo tếng Pháp) của toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Rồi, thể theo sự thỉnh cầu của HĐGMVN ngày 13-4-1961 họp tại Huế, ĐGH Gioan XXIII ban hành sắc lệnh nâng ngôi Đền Thánh Đức Mẹ La Vang khiêm tốn đó lên hàng Tiểu Vương Cung Thánh Đường. Sắc lệnh được ban hành ngày 22-8-1961 tại Roma, cạnh Đền thờ thánh Phêrô, có Ấn Ngư Phủ.
Thừa lệnh ĐGH Gioan XXIII, ký thay: HY Quốc Vụ Khanh Angelo Dell Acqua.
(Trích tài liệu từ TTGM Huế. Bài viết đầu tiên về sự kiện trên do một linh mục thừa sai người Pháp (M.E.P.) viết bằng tiếng Pháp, mà tiếng Pháp không có chữ “á, ằ”, nên họ viết theo âm “La Vang”. Từ đó người Việt chúng ta cũng quen gọi “La Vang” luôn.”
---------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 02 năm 1858 và những ngày kế tiếp, tất cả là 18 lần
Lộ Đức là trung tâm hành hương quốc tế. Tôi được diễm phúc hành hương đến Đức Mẹ Lộ Đức. Từ Rôma qua hướng Tây Ban Nha, vượt đỉnh Pyrénées đến miền Nam nước Pháp. Lộ Đức nằm ở một vị trí khá hẻo lánh, thuộc một tỉnh nhỏ. Nơi đây, từng giờ từng phút, khách thập phương tấp nập đổ về để dâng lễ, cầu nguyện và xin ơn với Đức Mẹ.
Khi bước vào Vương Cung Thánh Đường Vô Nhiễm Nguyên Tội, tôi thấy bên phải, có phiến đá cẩm thạch ghi lời tuyên bố long trọng của Đức Giám Mục Laurence về những lần hiện ra của Đức Mẹ:
"Chúng tôi tuyên bố rằng Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 02 năm 1858 và những ngày kế tiếp, tất cả là 18 lần trong hang động Massabielle, gần thành Lộ Đức (Lourdes); rằng sự hiện ra này mang tất cả những tính cách của sự thật, và các giáo hữu đều đã tin là chắc chắn. Chúng tôi xin dâng cách khiêm nhượng sự phán đoán của chúng tôi cho Sự Phán Đóan của Đức Giáo Hoàng, Vị được giao trọng trách chèo lái Giáo Hội hoàn vũ ".
Hang Đá Nơi Đức Mẹ Hiện Ra
Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần tại Hang đá Lộ Đức, từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 07 năm 1858.
Ngày 28 tháng 07 năm 1858, Đức Giám Mục địa phận Lộ Đức đã thiết lập Ủy Ban Điều Tra về những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại hang đá Massabielle. Công việc điều tra kéo dài trong 4 năm.
Trang web: lourdes-france.com, cho biết công việc nghiên cứu điều tra tỉ mỉ và sự phân định sáng suốt, trong lời kinh nguyện. Sau bốn năm, ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Giám Mục, nhân danh Giáo Hội, nhìn nhận những lần hiện ra là đích thực. Giáo Hội nhìn nhận chính thức những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, dựa trên chứng từ xác quyết của cô Bernadette Soubirous.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII chấp thuận mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức và Đức Giáo Hoàng Piô X cho phép toàn thể Giáo Hội mừng lễ này vào ngày 11-2 hàng năm.
Hành hương về Lộ Đức, tôi được hiểu biết thêm nhiều về lịch sử và sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi qua thiếu nữ Bernadette.
Bernadette là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc, không biết viết, con một gia đình nghèo ở Lộ Đức. Gia đình cô tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam. Nơi tồi tàn này, cả gia đình gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette làm nơi nương thân. Đức Mẹ muốn chọn một cô bé nơi nghèo hèn để làm sứ giả của Mẹ.
Theo lời kể của Bernadette: Hôm đó là thứ Năm, ngày 11.02.1858, cô được nghỉ học, Bernadette xin phép mẹ đi nhặt củi. Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới tiến đến một hang động gần đó mà dân làng quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay nhặt củi, từ trong hang đá, một thiếu nữ diễm lệ xuất hiện và đứng trên một tảng đá, ánh sáng bao trùm cả hang Massabielle. Theo lời cô mô tả, người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ diễm lệ chỉ mỉm cười. Trong cơn xúc động, Bernadette lấy tràng chuỗi từ trong túi áo ra và bắt đầu đọc kinh Kính Mừng. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi Mân Côi, người thiếu nữ làm hiệu cho cô tiến lại gần hơn. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn.
Cô về nhà kể lại biến cố ấy, nhưng chẳng ai tin cô. Chính cha mẹ cô cũng không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng như có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó khiến cô vẫn trở lại hang đá ấy.
Sau lần này, cô còn được trông thấy “người thiếu nữ diễm lệ” hiện ra 17 lần nữa.
Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18.02.1958, người thiếu nữ ấy mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không? Ta không hứa sẽ cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”.
Trong 15 ngày tiếp đó, người thiếu nữ đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều. Cô kể: “Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy sám hối, hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây, hãy đến uống và rửa ở suối này, phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải. Trong vòng 15 ngày ấy, Bà còn nói với tôi ba điều và dặn tôi không được nói với ai. Tôi vẫn trung thành giữ kín. Sau ngày thứ 15, tôi hỏi Bà ba lần liên tiếp: Bà là ai? Nhưng Bà chỉ mỉm cười. Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư. Lúc ấy, Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực: ‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU’”. Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng Pháp là: “Je suis l’Immaculée Conception”, và dịch sang tiếng Việt Nam là: ‘Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội’.
Các bậc khôn ngoan chống đối, dân chúng xúc động, cảnh sát thẩm vấn Bernadette nhiều lần. Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa. May mắn là cô không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng tỏ ra bất bình, còn Bernadette vẫn luôn giữ được thái đô khiêm tốn lịch sự.
Ngày 25.2.1858, một đoàn người cảm kích theo cô, sau khi cầu nguyện Bernadette đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi quì xuống. Theo lệnh của “người thiếu nữ diễm lệ”, cô Bernadette cúi xuống lấy tay cào đất, rồi lật một hòn đá nhỏ lên. Bỗng dưng một dòng nước vọt lên. Dòng nước đó đến nay cứ chảy mãi, cứ 24 tiếng đồng hồ là có khoảng 120.000 lít nước chảy ra.
Khách hành hương đang lấy nước suối Đức Mẹ Lộ Đức
No comments:
Post a Comment