Ðôi Mắt Phượng
Nguyễn Đạt Thịnh-
Đây là một câu chuyện thật, người kể lại câu chuyện là Bác sỉ là người chồng trong
cuộc (câu chuyện)......
Thật quá thương tâm, cảm động. Chắc film ĐÔI MẮT PHƯỢNG phải hay lắm......
Một câu chuyện rất cảm động và kinh hoàng
.
Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng
của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn
phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)
Tôi lập gia đình năm 22 tuổi, ngày còn là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo
“chờ ra
trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.”
Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng
tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp;
thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Ðịnh, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi,
“Phượng đẹp ngây ngất.”
Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung
học. Tôi chờ; một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi
gặp nhau. Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng; tôi chỉ biết là Phượng rất
đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được
nàng. Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi; sức hút của Phượng là sức hút
ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Ðôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ; tôi
không thích hai chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không một
người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không
bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng vì
Phượng. Chỉ một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi đã mọc sừng.
Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng
không nhìn mọi người một cách thản nhiên như người ta nhìn những vật vô tri quanh mình.
Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm
thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình, Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ đôi mắt gây
ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó - ông Thợ Tạo - mới đúng là người tôi phải oán trách. Ði đôi với cặp mắt tình tứ là
một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng
manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy, dù chỉ có đồng rưỡi nhung lai có ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người”
theo nghĩa trắng của nó. Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn
còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối. Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu
quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê
vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Ðiều đó cần được giải thích rõ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng
đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và
tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn
luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.
Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, lả để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14
tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.” Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền
với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Ðiều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên
lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với
bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi. Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm; chỉ ngay sau khi cái
bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”
Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt.
Anh ta oang oang bảo chúng tôi,
“Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con
các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”
Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng,
“Các anh chỉ có 10
ngày ăn thôi ư? Ðừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”
Trước
mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “không có gì quý bằng độc lập, tự
do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải
“người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ
thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”
Ðề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm
vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau
này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ
không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị,
thèm khát ngụm nước tự do.
Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi:
Tôi bị giam 2 tháng hơn thì một buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ
thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố. Bản chất hiền lành, tôi
không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ
tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình
thức trừng phạt vì trọng tội trí thức. Lên đến văn phòng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt,
đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó. Giọng đầy cải lương, nhân vật số một
của trại giam bảo tôi,
- Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đình.
Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi
không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến
“nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình. Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn
Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt
vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhung mịn màng làm lòng
tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên
ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó. Vợ tôi nghẹn ngào,
- Bé Mai nhớ anh lắm.
Bé Mai! Ðứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh
nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.
Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi
văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy:
- Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, Tuần sau lại được thăm nuôi nữa.
Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản
trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong
phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.
Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi
ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị.
Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa
chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi. Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng
thiết tha nhưng nghiêm trọng,
- Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc
dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.
Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra; quên không được, tôi
cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong
lòng người chồng.
Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi,
- Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có sinh kế gì hết.
Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon. Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa
ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.
- Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh, tôi bảo vợ. nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của
2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được uu đãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung
những đầy ải với họ.
Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự
chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi
thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động. Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn
đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn,
không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy
được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái
khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một
phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói còn trong xác người.
Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy
chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng
dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi
từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong
tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy. Một cán bộ bảo tôi,
- Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.
Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so
sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.
Bốn giờ chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải
bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong
thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một
thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt một năm trời tôi phải sống trong chế độ
“quản chế của nhân dân”; tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa
là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét
là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa. Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một
đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xòm gọi tôi đến coi chứng
bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và
không có cách nào hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt,
- Anh đi học tập ra mà còn như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống
cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?
Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt,
-" Lang băm tư bản.”
Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa
tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo
như không. Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít; đa
số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ
qua câu nói chí tình,
- Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.”
Bà vợ của
một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.
Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ
ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà
xuống đến tận chân thang của xã hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách.
Những lần đầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”
Phần tôi,
tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường,
trồng cây, thông cống, ... . Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Ðôi
khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế. Thêm một lần nữa, tôi tuyên
dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền
Nam. Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn
bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra.
Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.
Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam. Tôi
không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi về việc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi đầu chịu phép
trước guồng máy xã hội mới. Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất
nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu
của cả hệ thống vũ trụ.
Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một tình trạng ngượng ngập khó tả, Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt
Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm
thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà. Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho
chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long
Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống
với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào
nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.
Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về,
Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho
cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt
quay ra rồi bảo tôi,
- Mình ăn với em.
Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng
thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn
uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế. Những
đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống xong, vợ tôi
kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục
thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy
nàng bảo tôi,
- 8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Ðằng.
- Ðón tầu? Ðể đi đâu?
Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói,
- Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.
Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.
- Vàng đâu mà em có đến 10 cây?
Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh
mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy
phong trần. Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào,
- Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.
Tôi ôm Phượng vào lòng; giữa một xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù
Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng
vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp
nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi. Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa sung sướng
trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục
nhã của vợ. Phượng bảo tôi,
- Em chỉ đủ tiền đóng cho mình; nhưng em với con vẫn đi theo mình.
Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm
rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến
Bạch Ðằng. Ðàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Ðồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những
người đi lậu, không đóng vàng.
- Người ta đi lậu nhiều lắm,
Phượng bảo tôi.
- Em cũng trà trộn vào đám người đó; không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?
Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải
quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.
Ðêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi,
- Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?
- Anh tin. Anh yêu mình.
- Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.
Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực,
còn chưa đủ nữa hay sao. Vợ tôi thở dài,
- Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má.
Thật ra em không muốn mình buồn.
Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.
- Em có con?
tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc,
- Mình tha cho em.
Ðứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác
phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là
trách nàng.
- Ngày mai em muốn cho con cùng đi?
- Nếu mình đồng ý.
Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử
thần.
Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc
xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng
tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi
nàng gởi nuôi thằng Vinh, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.
Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn; nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi
đã có mặt; nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung
phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết. Phượng bảo tôi,
- Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.
Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt
ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con
lên.
Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Ðồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào
dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc
đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la
lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng
chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục
đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.
Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương
thương yêu chỉ còn là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Ðến lúc này các
“giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu.
Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi
tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần. Phần
ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao tử
trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi
sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ
chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm
mái nhà cho trẻ con.
Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi
bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem
sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con. Tôi bảo Phượng,
- Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.
Phượng thủ thỉ bên tai tôi,
- Em thương mình, Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.
Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói.
Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa
để cầm hơi. Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm
vừa nói,
- Cho tôi xin thêm chút cơm.
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm,
thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.
- ÐM quân ăn cướp. Ðã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.
Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm
được một nắm về mái lều to bằng manh áo, tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì.
Tôi an ủi vợ,
- Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.
Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng
không vững.
Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam, điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong
tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam. Tôi góp ý với những
người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam. Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ
nạt ngang,
- Anh biết gì mà nói.
Ðến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt
nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng
trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa; tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng
rên nho nhỏ. Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén
nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất
hàm hỏi tôi,
- Trước kia anh làm nghề gì?
Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai,
-Thưa ông, tôi làm bác sĩ.
- Biết chích không?
- Dạ biết.
Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách
thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Ðường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa
vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn
thêm được một miếng thịt. Ðược dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi lại có
thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một
hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn. Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp
Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến
nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.
Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh
táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ
phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm, và ho. Nỗi khổ
tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp
kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.
Nhờ hành nghề bác
sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài
thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.
Ðến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi
gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái áo khác ra căng lều. Lần này
tôi có ý cột kỹ tay áo vào thành tầu. Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến
chuyển lớn đang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.
- Tới rồi. Thấy đất rồi.
- Cảm ơn trời phật.
Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.
Giọng quát của một giới chức,
- Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.
Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán,
- Chắc là Mã Lai.
- Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.
- Không chừng Nam Dương.
- Rất có thể là Úc.
Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được chuyền sang tâm hôn tôi
mà không cần một lời nói. Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng
tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang
chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không
nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu
đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục, trên
những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền
nào thỏa mãn bằng tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện,
- Hình như hòn đảo nhỏ quá.
- Vâng,” tôi lơ đãng đáp.
- Không chắc đã có người trên đảo.
- Vâng.
Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn
dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương
nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu
dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu. Ða số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.
- Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.
- Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.
- Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.
Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là
quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa vòng đảo, tàu
chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ. Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia,
thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng,
trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào
một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên
hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15
thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng, nhưng
người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa. Nhờ người coi chừng
thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt
Phượng lên đảo.
Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu,
nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam. Ðó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san
hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó
chứ chưa nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái
áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
- Ðau đít quá ba ơi, bé Mai nhăn nhó nói.
Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng,
- Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.
Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom
trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một
chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí. Phượng reo mừng,
- Đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.
Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Ðồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là
nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát. Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi
cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm,
nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con
thứ nhì để dành.
- Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy, Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh; tôi lo lắng bảo Phượng,
- Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.
Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi
mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.
Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên
tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa. Ðêm hôm
đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa
để đục đá chôn người xấu số. Ðó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn.
Lý do thứ nhất khiến
chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả.
Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc.
Lý do
thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.
Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc thì nhìn thấy
xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ còn thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng
đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đã bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất. Tôi rùng mình. Suốt 2 năm chinh
chiến tôi cũng đã chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết
nào làm tôi khiếp đảm hơn. Thượng Ðế ơi, người đã sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh
vật khác, sao người lại còn bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm gì? Ðể chứng minh là con người cũng
không hơn gì loài cầm, loài thú ư?
Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nhìn tôi, Phượng bảo,
- Mình đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay mình.
- Em không đi đâu hết, tôi gạt phăng.
Vợ tôi nhìn tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không bình thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với
nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta
đánh nhau chỉ vì những chuyện không đâu. Tình trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng.
Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ,
- Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh
anh.
Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nhìn thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu
Phượng gục vào vai, tôi vỗ về,
- Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.
Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói.
Chúng tôi đã đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không còn một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên
vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, thì chỉ vài phút sau đã có người đến đập lần thứ nhì, hy vọng vớt vát một chút
gì còn xót lại.
Ðến tuần thứ nhì không ai còn dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đã ăn thịt
đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Ðể thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ
thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy
cá mập. Nhìn những con cá hung hãn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm
phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng
vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển. Mượn cái đầu của một bà lão vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi
chờ cá mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40
kí, trườn vào bẫy. Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi.
Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá
mập thứ nhì đã lại trườn vào bẫy trước tiếng reo hò mừng vui của hơn 100 con người đói khổ. Thịt cá mập
béo ngậy và tanh rình, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành
nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.
Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không còn một thứ gì có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người
liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên
khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có võ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở
thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.
Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi,
- Mình có còn tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt thì cặp mắt đó đã nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ còn là một cái xác
nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần
như không bao giờ hé mở. Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con.
Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu,
đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối
cùng.
Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của
đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của tình phụ tử ủ ấp. Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong
gió biển cắt da; khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi,
"Con có khá hơn không mình? "
Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đã chết chưa, nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra
được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đã thiếp đi trong mòn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi
thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lý nhất, thể chất vẫn giữ nguyên
những đòi hỏi bình thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái Bình Dương, tôi ngủ
ngon lành.
Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói lòa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không
còn nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng
trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng. Những người chung quanh nhìn tôi; cặp mắt họ
không thiện cảm, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái
khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đã quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm
với ai chút gì nữa cả. Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi
Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi,
- Em đi tìm con?
Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.
- Họ đã xẻ thịt bé Mai?
Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc; tôi lặng đi, tê tái. Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi
không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không còn
khả năng khóc, than.
Sáng hôm sau, sau một vòng đi tìm thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và tình cờ
khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh còn tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên
vì từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa bò từ khi mới lọt lòng. Phượng bối
rối nhìn tôi, trong lúc tôi nhìn bé Vinh: môi đứa bé đỏ lòm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt còn mới
trên đầu vú. Tôi tìm thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu.
Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm
tôi trở thành góa bụa sớm hơn. Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách gì Phượng. Ðiều độc
nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc tìm kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số
người đói khát thì đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không còn tìm ra bất cứ một thứ
gì, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.
Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi tìm được một con của khá lớn. Phượng ăn
gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.
Suốt tuần sau, tôi chỉ tìm được vài con ốc. Nhìn những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi
không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.
Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng; tiếp theo là tiếng reo hò. Bàng hoàng
choàng dậy, tôi nhìn theo hướng nhìn của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại. Tim tôi ngừng
đập; cuối cùng trời vẫn còn có mắt, chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn còn Phượng, còn người vợ mà
trong hoạn nạn tôi thấy tình yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với
cặp mắt đa tình của Phượng. Trong tiếng reo hò của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo
vợ,
- Hôm trước em hỏi anh có còn tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh
tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.
Nhưng tôi đã lầm. Ðối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đã vĩnh viễn nhắm mắt,
quay mặt đi. Con tầu tôi đang nhìn theo là một ngư thuyền của Ðài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi
cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là
một cuộc trả giá. Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đòi một số vàng lớn mới chịu cứu
chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đòi hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như
tôi ngồi lặng thinh, dự thính.
Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá
kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu
cuộc ghi danh, góp vàng. Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt
thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung
Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo,
- Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.
Thì ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng
tôi được chở ra tàu; một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe. Yếu
đuối, tôi ngã mấy lần, Phượng mở mắt nhìn tôi, cặp mắt tình tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đã mất thần.
Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không còn nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng
đã mất hết nước; giải pháp độc nhất còn lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm gì có thứ đó trên một ngư
thuyền. Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo hình
thức thủy táng. \
Tôi dứt câu chuyện vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng Vinh,
-Ba hứa ngày con
học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ con cho con nghe; ba đã thực hiện lời ba hứa.
Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi,
- Ba đau khổ nhiều quá, lời nó nghẹn lại.
- Con thương ba.
Tôi vuốt tóc nó,
- Ba thương con.
- Con muốn vinh danh mẹ, thằng Vinh bảo tôi.
Năm đó nó 26, vừa ra trường thuốc Austin, và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hertman, Houston, nơi tôi
làm việc.
- Bằng cách nào? tôi hỏi nó.
- Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Ðan Quế tranh đấu giải thể chế độ cộng sản dã man đã
giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ suốt cuộc đời.
- Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội, tôi bảo Vinh. Tiếng nói của con
sẽ lớn hơn, vì có một đối tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.
Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần Quang trở lại trường đại học; môn
học mới của nó là điện ảnh. Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đã vẽ xong từ năm ngoái bức tranh
quảng cáo cuồn phim đầu tay ÐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn Phượng Vinh. Nó đóng vai trung
úy quân y của Sư Ðoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Blog Archive
-
▼
2015
(1258)
-
▼
May
(122)
- Oan trái Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
- Dấu "Hỏi Ngã" Trong Văn Chương Việt Nam Cao Chán...
- Ngọn đồi cuối cùng Bản đồ trận Xuân...
- Where to Go During an Earthquake In light of the...
- Một Sự Sai Lầm Tai Hại. Trong bài viết mới đây củ...
- Nghĩ Về 2 Bản Án - Trần Mộng Lâm -
- Chuyện “bức tử” một bức tượng Hồi ức 30/4/1975 ...
- Chuyện bà T. vợ tù “cải tạo” Ái Hoa Cuối th...
- Cơ quan USDA Mỹ đã ra lệnh cho Lee's Sandwi...
- 15 Điều bạn nên buông bỏ để có được hạnh ph...
- NGÀY GIỜ dễ phát sinh BỆNH TẬT ***Thỉnh thoảng mìn...
- Chốn Cũ Trường Xưa (Bình Đại Quê Tôi) (Viết cho...
- Xuân Florida, Tuyệt Vời Tác giả: Sao Nam Trần ngọ...
- HẤP HÔN TRƯỚC KHI ....Thời gian nghỉ hưu thường tạ...
- Tàn cơn binh lửa : Tân Phú Trung - Hóc Môn - . “ t...
- Chuyện chạy tội cho VC thãm sát dân Huế trong Tết...
- Chiếc nhẫn rơi giữa đời Năm 2014 vừa ...
- Đường CATINAT Trong quyển “Nam kỳ phong tục nhơn ...
- Bộ tộc sinh sống như trong thần thoạiNhiếp ảnh gi...
- Vài chuyện trời ơi của du khách Trung Cộng ...
- Trả Thù một cách rất kiên nhan Chiếc xe với bả...
- Hotmail là gì mà hay quá vậy? Anh chàng da ...
- Họa Sĩ Pháp Đã Vẽ Việt Nam Như Thế Nào? ...
- World' s tallest statues Statues are built as cel...
- Tiền thật tiền giả Tin tức truyền thông...
- Mậu Thân Đợt 2 : “Chợ Cây Quéo & Chợ Cây Thị” ...
- Có Một Ông Chồng Đang Ngoại Tình Tác giả: ...
- Làm Thế Nào Để Thân Tâm Được An Lạc? Người ta ...
- Ván Cờ Sinh TửLời vào truyện.Có bao giờ chúng ta n...
- Hồi ức 30 tháng Tư và Đời Tỵ Nạn Cộng sản Giọt ...
- Mất Gốc !!! Nhiều khi thành thực quá cũng gâ...
- Nghị Quyết S219 Tôn Nữ Hoàng Hoa
- DÒNG NHẠC LÊ HỰU HÀ ...
- chuyện chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận Cao Vị...
- Nhức Nhối Con Tim Tràm Cà Mau Đâu phải t...
- Tiếng Việt mến yêu Bùi Bảo Trúc Mấy chục ...
- Bà Mẹ Quê Philato Có nhiều cách gọi về song thân...
- "Ngày mai đi nhận xác chồng" 1968 - ngay sau trận...
- “Thằng bố vợ tôi”. Gọi bố vợ bằng thằng là điề...
- Hòa Hợp Hòa Giải là hành động phản bội và tội ác ...
- Bí Ẩn 30.4.1975: Tại sao Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam? ...
- Những câu chuyện để đời của bà hoàng Từ Dũ ...
- HIỂU SAI NÊN DỊCH SAI - HIỂU ĐÚNG NHƯNG DỊCH SAI...
- Thất Vọng Hay Ngậm Ngùi ? Bài 1
- Cần Đối Phó với những Lời Ngụy Biện của ...
- Cuộc di tản của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Cộ...
- Càng nói, càng viết, càng... dốt Bùi Bảo Trúc ...
- Luật S-219, Biết Rồi, Khổ Lắm, Nói Mãi. Ngày 3...
- TỪ BI VỚI MÌNH....Hãy thương chính bản thân mì...
- Thành phần gia đình có nợ máu với nhân dân Kim Khá...
- Bao lâu chúng ta nên giặt đồ một lần? Giặt gi...
- Họ đã nói những gì? Buddha:Three things canno...
- Cánh hoa dù Lời và Nhạc: Dương Đình ...
- 40 năm Quốc Hận và Con đường Tương lai Dương N...
- Bài 2: Trách Nhiệm của Tổ Chức Cộng Đồng Montreal...
- Thiên đường cho người về hưuNắng ấm và giấc mơ có...
- TRÒ CHƠI CHỮ TRONG CHÍNH TRỊ (nhân vụ những người...
- Hội Chứng Con Ngựa Thành Troie.
- Mỹ: CHAMP - Vũ khí siêu đẳng, không sát thương, l...
- Tắm kiểu Nhật. Tắm trà xanh, tắm táo, tắm rượu......
- TÀI LIỆU VỀ VỤ NGÔ THANH HẢI ( CANADA) ĐỆ TRÌNH ...
- Nhận xét thái độ của cộng đồng Montreal ngày 3 thá...
- 8 loài hoa lan có hình dạng “hiếm có khó tìm” trê...
- PHÁT MINH KHOA HỌC BẮT CHƯỚC THIÊN NHIÊN ...
- Những Bí Mật Về Đời Sống Và Cái Chết Của Vương P...
- Sự Thật Phũ Phàng Tác giả: Nguyễn Hữu Thời <
- Chuyện cô gái Xứ Thần Nông mất quần Phương Toà...
- Dạy con trẻ thói lưu manh Nếu bạn đặt một câu hỏi ...
- Môn Văn Học - Đề bài: “Xung quanh bạn, những ...
- TAM TẠNG THỈNH KINH ? Trần Thanh Châu sưu ...
- Phát Súng Ân Huệ Y sĩ Thiếu tá Võ Thương Sau k...
- Quốc Hận 30 tháng Tư năm 2015 Lão Ngoan Đồng ...
- Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập Trúc Gia...
- Cấp cứu bệnh nhân đau tim rất đơn giản, bạn cũng c...
- Cách đơn giản để đuổi gián, muỗi, kiến mà không p...
- Cái giá của phép màu Một cô bé bảy tuổi nghe cha ...
- Tướng Phạm Ngọc Sang, Phượng Hoàng Gãy Cánh
- Chôn Một Chế Độ Tác giả: Trần Thiện Phi Hùng ...
- Lời tiên tri của Ngô Đình Nhu Nguồn : Người Săn ...
- Dắt rùa đi dạo Ngày nào cũng vậy, người dân qua...
- THÁI THANH Hoàng Hải Thủy
- NGHỀ NAIL VÀ THỐNG ĐỐC CUOMO Ngày 7 tháng 5 nă...
- Bị ăn quỵt đau vẫn phải ngậm miệng Văn Quan...
- "ĐƯỜNG TĂNG " ...
- Bài diễn văn đầy tâm huyết của Tổng thống...
- CHUỘT CẮN KHỐ RÁCH Một đệ tử quyết...
- 1. Dung mạo đẹp- từ đâu đến… Tác giả: Biê...
- NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI LIÊN BANG HOA KỲ CÔNG NHẬN...
- 10 quốc gia có dân số học thức nhất thế giới. ...
- Cô gái giao liên Saigon-An Giang 40 năm sau ...
- Nhan sắc bà Ngô Đình Nhu qua ống kính phóng viên ...
- Siêu máy bay của Tổng Thống Obama xịn đến mứ...
- Câu Chuyện Hy Hữu
- MẸLêtamanh
- Những quy tắc giao chiến của Không lực Hoa Kỳ tại...
- Trung Quốc với kế hoạch 4 sân bay khống chế...
- Nghề đi tu ĐINH LÂM THANH Văn hóa truyền thố...
- 20 BÀI HỌC VÔ GIÁ GIÚP BẠN SỐNG TỐT VÀ Ý NGHĨA HƠ...
- Võ Thị Hảo: Cần hành động để ngăn chặn một vụ 'Nhâ...
- NGƯỜI ANH HÙNG THÁNG TƯ 75 HIỂN LINH (Người phi c...
-
▼
May
(122)
No comments:
Post a Comment