Hồi ức 30 tháng Tư và Đời Tỵ Nạn Cộng sản
Giọt Mưa Thu
Ngày mới qua Mỹ, mỗi lần lễ Giáng Sinh và Tết Tây sắp đến là tôi cảm thấy buồn da diết vì nhớ quê nhà quá đi thôi. Trời mùa Đông mau tối, mới hơn năm giờ chiều trời đã tắt nắng.
Nhìn cảnh xe cộ chạy nối đuôi nhau, đèn xe chiếu sáng như một dải sao băng kéo dài bất tận và người người đang lo đi mua sắm mà tim tôi thắt lại, lòng tôi chùng xuống với bao nỗi đắng cay, xót thương nhớ về ngày Tết ở quê nhà. Tôi nhớ căn nhà xưa, nhớ cha mẹ, nhớ anh chị em sum vầy mỗi khi Tết đến. Đời sống bên này, lúc đó thật cô quạnh và tẻ nhạt, mặc dù bên cạnh tôi còn có các con nhưng chúng còn quá nhỏ. Các con tôi đâu đã hiểu biết sâu xa để chia xẻ nỗi buồn này.
Không ai bảo ai mà hầu như mọi người ai cũng coi ngày Giáng Sinh như một ngày lễ hội chung cho người Việt Nam nhất là người công giáo. Gia đình tôi theo đạo Phật nhưng cũng coi ngày Giáng Sinh như một ngày lễ vui để gia đình họp mặt đông đủ vào tuần lễ cuối năm Dương lịch. Bây giờ nó đã trở thành một tập tục khó bỏ. Các con của tôi cũng háo hức mong đợi đến ngày này để được mẹ mua cho những món quà xinh đẹp đúng như ý mong ước và cũng bày vẽ nấu nướng món gà tây theo phong tục nơi đây. Có lẽ lúc đó ai cũng dùng ngày vui của người làm của mình cho đỡ nhớ quê nhà, nay nó đã trở thành một tập tục mới không thể thiếu vì “Nhập gia tùy tục.”
Những năm đầu còn ở Concord, tôi phải lái xe lên tận Oakland để tìm mua thực phẩm Việt Nam ở chợ Tàu và hỏi xem ngày nào là Mùng Một Tết Âm lịch. Về đến nhà là tôi ghi ngay vào tờ lịch để ghi nhớ.
Một ngày vào chiều 30 Tết, tôi nấu một mâm cơm cúng ông bà và những người thân trong gia tộc đã khuất theo lễ nghi truyền thống mà tôi thấy mẹ tôi hay làm khi xưa ở quê nhà. Tôi vừa khấn lạy vừa khóc vì buồn nhớ nhà quá. Trong lúc chờ nhang tàn, tôi vào trong phòng nằm khóc rấm rứt.
Con bé út mới tám tuổi thấy tôi nằm khóc, nó hỏi:
- Ai chọc cho mẹ khóc vậy?
Tôi nói:
- Mẹ nhớ nhà quá con à!
Con bé nói:
- Nhà mình đây mà, tại sao mẹ lại nhớ hở mẹ? Tôi ôm con vào lòng và bật khóc nức nở vì tủi thân và thương con còn nhỏ dại, chưa hiểu nỗi đau thương trong lòng tôi. Nó không biết là mình cũng có Quê hương, cội nguồn, có nhà cửa gia đình, nhưng nay bỗng dưng mất tất cả, mất hết thật rồi! Căn nhà ở thuê này đâu đủ ấm cúng bằng căn nhà mà tôi cùng gia đình sum họp nơi quê nhà. Khi qua Mỹ năm 1975, con tôi đâu có biết hình ảnh Quê hương Việt Nam như thế nào vì nó mới có ba tuổi rưỡi. Tôi nhớ lúc vào trại tị nạn ở Fort Chaffee, Tiểu bang Arkansas, không có sữa cho con uống vì khi qua cửa khám xét an ninh ở đảo Wake, họ bỏ hết thuốc men và mấy hộp sữa Guigoz tôi mang theo cho con bú.
Lúc đó tôi muốn xin giữ lại nhưng không biết nói tiếng Anh thông thạo để giải thích rằng đây là hộp sữa bột rất cần cho con tôi bú. Không có sữa, nó nhịn bú bình vì sữa tươi của Mỹ lạt quá và mùi vị khác lạ, tôi tưởng con tôi sẽ chết dần vì không bú, không ăn và quá ốm. May mắn sao, có người cho biết là trong trại có PX (Post Exchange = cửa hàng bán lẻ cho Quân đội), họ cho người tị nạn được vào mua. Tôi mua mì gói về, xả nước nóng trong bồn rửa mặt đến khi nước thật nóng mới hứng để đổ vào tô mì gói làm canh cho con ăn. Trong trại tị nạn lúc đó, khi nào nghe nói bữa ăn có thịt gà là ai cũng xếp hàng đi ăn; còn hôm nào có cá là ít người đến vì người Mỹ họ không dùng gia vị đậm đà như người Việt nên mùi cá tanh lắm, rất khó ăn. Bữa ăn nào cũng có một quả táo hay một quả cam và một hộp sữa tươi nhỏ kèm theo khẩu phần ăn. Còn chỗ ở thì cứ hai lần một tuần thay tấm trải giường, mền, áo gối.
Chính phủ Mỹ đã cung cấp và phục vụ nơi ăn chốn ở cho người tị nạn thật là chu đáo và đầy tình nhân ái. Tôi nhớ một chuyện có thật mà ai nghe qua cũng không thể nhịn cười được:
- Có một bà cụ đi ngoài đường (trong trại tị nạn) vừa nhai trầu vừa nhổ nước trầu xuống đất, gặp lúc xe Quân cảnh (QC) Mỹ chạy ngang qua trông thấy, họ tưởng bà cụ ói ra máu nên hai người Quân cảnh nhảy vội xuống xe bế xốc bà cụ đưa lên xe, bà cụ la ơi ới nhưng QC vẫn cứ chở đi vì họ biết chắc có hỏi gì thì bà cụ cũng chẳng hiểu. QC chở bà cụ vào Bệnh viện trong trại. Đến lúc nhờ người thông dịch nói giùm là bà cụ ăn trầu chứ không phải ói ra máu, bấy giờ họ mới cho bà cụ về.
Hàng tuần cứ đến chiều tối đều có ca nhạc do các Nhạc sĩ như Phạm Duy và Khánh Ly hát, còn thêm các ca sĩ Amateur ở trong trại lên hát giúp vui. Những người di tản có đầy đủ gia đình trông họ thật hạnh phúc và vui vẻ. Riêng tôi thì buồn quá, ở trong căn trại với đàn con thui thủi chẳng biết gì. Chỉ nghe người ta đi xem Khánh Ly và Phạm Duy hát hò rồi về kể lại cho nghe.
Buổi sáng cũng như buổi chiều, mỗi góc trại đều có xe “van” to ngừng ở đó cho cà phê và bánh ngọt ăn không phải trả tiền. Riêng cà rem là phải mua hai mươi lăm xu một cây. Lúc đó khi mua cho các con tôi ăn, tôi tính nhẩm qua tiền Việt Nam:
- Trời ơi, một cây cà rem trị giá đến một ngàn hai trăm năm mươi đồng tiền Việt Nam vì trước khi di tản tôi đổi năm ngàn đồng tiền Việt Nam mới được một dollar.
Tôi tội nghiệp cho các con tôi còn cha mà chẳng khác nào mồ côi. Nhìn đàn con còn ngây thơ, vô tư chỉ biết hiện tại được vui chơi với nhau mà nước mắt tôi lăn dài theo tiếng cười đùa của các con vang lại. Chúng đâu có hiểu nỗi khổ tâm lẫn sự lo sợ của tôi vì không biết được tương lai sẽ đi về đâu. Lúc rời bỏ Quê hương tôi mới có ba mươi lăm tuổi, một mình với đàn con dại năm đứa, lớn nhất 14, 12,10, 7 và nhỏ nhất là 3 tuổi rưỡi. Chồng tôi là Quân nhân VNCH đã kẹt lại vào ngày cuối cùng.
Tôi và năm con nhỏ được di tản đi ngày 28 tháng 4 năm 1975 tại phi trường Tân Sơn Nhất cùng với rất nhiều gia đình khác theo chương trình của Mỹ cho vợ con Quân nhân di tản đi trước nhưng tôi đâu có biết giờ phút đó lại là chuyến sau cùng. Cũng do những người qua sau kể lại tôi mới được biết thêm tin tức: phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 28 tháng 4. Nghe xong tin này, tôi thầm cám ơn Trời Phật đã cho mẹ con tôi ra đi được bình an vì chiếc C130 US. Air Force vừa cất cánh vào khoảng 3 giờ chiều là nửa giờ sau VC pháo kích vào phi trường TSN. Có lẽ tin tình báo biết trước là VC đã vào đến Sài Gòn nên khi xe bus qua khỏi trạm kiểm soát ở phi trường là xe đi thẳng vào đuôi máy bay C130 đã mở sẵn và mọi người trên xe bus đều lần lượt vào bên trong khoang máy bay rất thứ tự. Mọi người đều ngồi dưới sàn máy bay vì C130 là loại máy bay vận tải cho nên không có ghế ngồi, chỉ có hai dãy ghế hai bên thôi, nhờ vậy mới di tản được nhiều người. Sau khi ổn định chỗ ngồi xong là máy bay cất cánh ngay.
Chiếc C130 bay thẳng đến đảo Wake vì đảo Guam quá đông người rồi. Ở đảo Wake đúng một tuần, chúng tôi được chuyển đến trại Fort Chaffee.
Ở trong trại Fort Chaffee được hơn một tháng, tôi nghe người ta kể có tàu Việt Nam Thương Tín đang chuẩn bị trở về Việt Nam, ai muốn về thì đến văn phòng Cao ủy tị nạn làm thủ tục giấy tờ cho về. Tôi đi tìm để ghi tên về vì nghĩ rằng tuy đất nước bị Cộng Sản cai trị nhưng không lẽ họ giết hết người miền Nam thì họ sống với ai? Chẳng lẽ họ muốn diệt chủng dân miền Nam khi đất nước đã nằm trong tay của chính họ? Tôi cố tưởng tượng và suy đoán như vậy để yên tâm và tin tưởng ngày trở về được an toàn và được sống trong sự bảo bọc của gia đình, cha mẹ và anh chị em. Với cái tuổi ba mươi lăm, một nách năm đứa con dại lại không giỏi Anh văn vì với trình độ Tú tài ở Việt Nam, tôi chọn Pháp văn là Sinh ngữ chính, còn Anh văn là Sinh ngữ phụ, chỉ có 4 giờ một tuần trong hai buổi học thì làm sao có đủ khả năng để nói và viết thông thạo được. Dù sau này tôi có đi làm nhưng chỉ là người bán sỉ thuốc tây duy nhất ăn hoa hồng của Unix Dược Cuộc. Các demi-gross tại Saigon và những người đi tỉnh mua thuốc qua tôi; họ chỉ cần đặt hàng qua điện thoại rồi tôi lên hãng mua thuốc qua đơn đặt hàng qua tên Pharmacy của cháu tôi rồi họ đến nhà tôi lấy thuốc. Công việc buôn bán thuốc tây của tôi cũng không vất vả nhiều. Tất cả giấy tờ hợp đồng mua bán đều dùng chữ Việt hoặc chữ Pháp là chính. Tôi bán thuốc tây từ năm 1971 cho đến ngày mất nước.
Những người bạn của chồng tôi biết được ý định muốn trở về Việt Nam của tôi, họ đã khuyên tôi nên ở lại để lo tương lai cho đàn con hơn là trở về vì chồng tôi là Quân nhân, chưa chắc có còn được ở nhà hay đã bị giết hoặc bị cầm tù rồi. Họ dặn những người quen làm cách nào ngăn cản đừng cho tôi ghi tên đi về. Cuối cùng tôi thấy cũng có nhiều người cùng hoàn cảnh như tôi nên tôi đành phải can đảm đương đầu và chấp nhận hoàn cảnh. Sau này tôi có nghe tin những người trở về trên tàu VNTT đã bị Chính phủ CSVN bắt ở tù hết và những Quân nhân VNCH đều bị đưa đi học tập cải tạo. Thật là một chọn lựa sai lầm. Tôi may mắn đã đổi ý nên thoát được cảnh sống trong địa ngục trần gian dưới bàn tay máu của Đảng CSVN cai trị.
Sau này tôi được biết ông Trung Tá Nguyễn Xuân Trân làm cùng chỗ với chồng tôi trong Bộ Tổng Tham Mưu cũng bị kẹt lại. Bà vợ của ông Trân ở chung với tôi cùng một building số #1687, nhờ qua tin tức này nên chúng tôi mới biết nhau. Bà Trân hơn tôi trên 10 tuổi nên các con của bà cũng lớn tuổi hơn các con tôi. Bà Trân khuyên tôi nên ở lại và theo gia đình bà ghi tên đi định cư cùng một nhà thờ Catholic bảo trợ cho có bạn đồng hành và đỡ lo sợ. Bà Trân kể rằng chồng bà có căn dặn là nếu ông không đi được thì ráng ở lại nuôi con cho chúng ăn học nên người. Nếu có cơ hội may mắn thoát được, ông sẽ qua sau và sẽ đi tìm gặp lại gia đình. Nhưng cuối cùng không có tin tức gì về ông Trân cho đến bây giờ. Theo lời bà Trân kể lại, ông bà và gia đình di cư vào Nam năm 1954 vì thấy rõ bản chất người Cộng Sản là tàn ác và vô nhân đạo qua những cuộc đấu tố cải cách ruộng đất. Với những kinh nghiệm này, bà Trân đã an ủi và khuyên tôi phải can đảm sống để nuôi con chứ trở về Việt Nam thì không thể thoát khỏi cảnh trả thù của Cộng Sản.
Tôi xem bà Trân như người chị cả và tôi yên tâm đi theo gia đình bà, sau này có thêm một gia đình bà bạn nữa, chồng cũng bị kẹt lại. Thế là ba gia đình cùng hoàn cảnh xuất trại ngày 8 Tháng Bảy năm 1975. Chúng tôi đến cùng một sponsor là nhà thờ họ đạo Catholic (USCC) ở Marceline, một Quận nhỏ (town) có khoảng 200 cư dân, đa số là nông trại, thuộc Kansas City, Tiểu bang Missouri. Họ đạo rất tốt, họ cấp cho mỗi gia đình ở một căn nhà nhỏ có đầy đủ tiện nghi. Chúng tôi ở cách xa nhau chỉ một block đường, đi bộ khoảng năm, mười phút là đến.
Tháng 7 trời vào Thu, lá vàng rụng tả tơi ngập đầy sân, tỉnh nhỏ buồn hiu hắt, nhà cửa đóng im ỉm chẳng thấy một bóng người; trong khi ở Việt Nam thì nhà nào cũng mở cửa, người qua kẻ lại nhộn nhịp. Hai cảnh sống khác hẳn nhau và cuộc đổi đời cũng quá nhanh làm tôi không kịp định thần để chấp nhận nó một cách dễ dàng. Tôi gần như quẫn trí vì lo sợ cho tương lai không biết sẽ như thế nào nếu phải sống ở đây, một cái town quá nhỏ, tuy dân chúng hiền lành nhưng có vẻ quê mùa.
Thỉnh thoảng tôi trông thấy mấy ông bà già ngồi đong đưa trên chiếc ghế xích đu trước hiên nhà. Ôi, nhìn cảnh này làm tôi càng buồn và nhớ quê nhà quá đỗi, tôi bật khóc ngon lành làm các con tôi nhìn ngơ ngác, chúng chẳng hiểu vì sao mà tôi khóc. Mùa Đông nơi đây tuyết ngập ngang cổ chân nếu đi bộ ra đường. Cả ba gia đình chúng tôi được nhà thờ và dân chúng trong cái town nhỏ bé tiếp nhận thật là nồng hậu. Mỗi buổi sáng mở cửa trước ra là thấy một thùng quà, khi thì cả một thùng táo, khi thì rau trái đủ loại họ trồng ở farm đem đến, đôi lúc có cả thùng quần áo cũ nhưng trông vẫn còn đẹp và tốt như mới. Người Mỹ họ thẳng thắn và thực tế nhưng với cảm tính của người Việt Nam, tôi lại cảm thấy tủi thân khi đối diện với hoàn cảnh giống như mình chỉ là cây tầm gởi, bơ vơ, ăn nhờ ở đậu trên xứ người, không thân nhân và họ hàng.
Các thầy cô giáo rất là dễ thương và tốt. Không biết họ xin ở đâu được toàn giầy “ba ta” còn trong hộp mới nguyên vừa đúng với chân của từng đứa học trò Việt Nam mới nhập học. Những ngày nghỉ học, cô giáo đem xe đến từng nhà đón mấy đứa nhỏ đi pinic hoặc đi xem movie.
Lần đầu tiên nhìn thấy tuyết rơi thật là đẹp, giống như những sợi tơ trời bay lất phất phủ trắng xóa cả vạn vật. Sáng nào trước khi đi học, các con tôi cũng ra hốt tuyết làm snow man đứng sừng sững trước nhà. Nhìn các con vẫn vô tư ăn học, chẳng thấy đứa nào nhắc đến chuyện nhớ quê nhà. Điều này làm tôi cảm nhận thấy rõ là người mẹ chính là nguồn sống bình an của con, là tàng cây bóng mát che chở cho chúng không thấy sợ hãi và lo âu tuy vắng bóng người cha là rường cột gia đình.
Chỉ trong vòng hai tuần lễ định cư, ông cha đã đưa người đến phỏng vấn tôi và hai bà bạn đi chung để đi làm ở một xưởng may nón cũng trong một town. Cậu con trai lớn của bà Trân làm thông dịch. Lúc cậu ấy nói đến làm giờ phụ trội sẽ được thêm tiền, tôi buộc miệng nói: Overtime phải không? Thế là hôm sau tôi là người đi làm trước, trong lúc con gái út của tôi còn nhỏ mới 4 tuổi, sáng nào cũng phải đánh thức nó dậy sớm để đem gởi cho bà cụ già người Mỹ hàng xóm trông giùm. Vừa thương con vừa thương cho cái thân mình sáng nào cũng phải lội tuyết đi đến nhà bà Mỹ làm chung hãng may để đi xe nhờ. Cái rét lạnh của tuyết làm ruột gan tôi thắt lại. Buổi chiều đi làm về tôi ghé đón con, thấy nó nằm co ro trên thảm xem TV, bên cạnh có một ly sữa tươi và một đĩa bánh mì hot dog, tất cả còn nguyên có nghĩa là con tôi không chịu ăn uống gì.
Trong lúc làm việc, đôi lúc bà Supervisor đứng đằng xa gọi tôi bằng cách dùng ngón trỏ ngoắc ngoắc, tôi ghét cái cử chỉ này lắm vì nghĩ họ coi thường mình nên tôi tỏ vẻ không vui khi đến gặp. Sau này, tôi thấy ai cũng dùng lối gọi nhau như vậy nếu đứng từ xa, thế mới biết mỗi chủng tộc có một phong tục, tập quán của riêng họ. Một tháng sau họ thấy tôi làm việc có vẻ được, thế là bà bạn đi chung cũng bị đưa vào làm luôn. Riêng bà Trân có lẽ họ thấy lớn tuổi lại có các cậu con trai lớn vừa đi học vừa đi làm nên họ để bà ở nhà.
Sống ở đây gần sáu tháng mà tôi cứ tưởng như thời gian dài cả thiên thu. Tôi suy nghĩ rất nhiều về vấn đề học vấn và tương lai của các con tôi. Đây chỉ là một cái town nhỏ, người dân đa số sống về nông trại, nếu các con tôi lớn lên ra khỏi bậc Trung học rồi làm sao lên Đại học nếu không có người dẫn dắt, đưa đường chỉ lối? Và còn thân tôi nữa, không lẽ chỉ làm nghề thợ may trong xưởng may nón nơi đây suốt đời? Nghĩ như vậy tôi buồn quá. Tôi phải tìm con đường sống tốt đẹp hơn cho các con tôi và tôi nữa. Muốn được như vậy, chính tôi phải là người có khả năng, có đầy đủ bản lĩnh và tháo vát. Tôi không thể vì sợ hãi mà nhụt chí, không thể để nước mắt lúc nào cũng rơi làm tôi yếu lòng. Nghĩ như vậy, tôi liền gởi thơ liên lạc với cô em họ ở Thành phố Concord miền Bắc California, nhờ cô giúp cho tôi qua bên đó. Tôi biết được địa chỉ của cô Mai là nhờ ba tôi ở bên Việt Nam gởi thơ cho cô Mai. Thơ ba tôi gởi sang Pháp qua địa chỉ của các cháu con bà chị của tôi đi du học trước năm 1975, rồi nhờ các cháu chuyển qua Mỹ. Ba tôi báo tin cho cô Mai biết là tôi đã qua Mỹ, nhờ cô tìm mẹ con tôi để giúp đỡ vì tôi ra đi có một mình với 5 đứa con dại và chồng tôi đã bị kẹt lại, đã bị đi học tập cải tạo không biết ngày nào về.
Khi viết thơ cho cô Mai tôi phải nói thật với cô là tôi có đem theo được một số tiền dollars và một số vàng nếu bán đi chắc sẽ đủ để thuê nhà ở khoảng một năm vì nghe nói nhà cửa bên đó thuê khoảng hai trăm dollars một tháng tùy theo nhà nhỏ hay lớn. Giá vàng ngày còn ở trong trại Fort Chaffee bán ra cho ngân hàng DEAK... CO. (Washington) INC. giá chỉ có 170 dollars/ một lượng. Tôi còn giữ tất cả giấy tờ bán vàng, vé máy bay và giấy tờ xuất trại để làm kỷ niệm ngày đổi đời của tôi. Như vậy một tháng tiền thuê nhà bằng hơn một lượng vàng. Tôi phải nói liều lĩnh như vậy để cô ấy không lo ngại phải nuôi mẹ con tôi và tôi hứa khi qua được bên đó tôi sẽ tìm việc đi làm ngay, bất cứ nghề gì hợp với sức khỏe và khả năng. Lúc đó tôi không biết gì về vấn đề tiền trợ cấp an sinh Xã hội của Chính phủ, cứ nghĩ là mình phải tự túc lo cho cuộc sống. Tuy lo sợ lắm nhưng tôi phải liều để tìm cho mình và các con một con đường sống có tương lai hơn.
Cám ơn Trời Phật, vào những ngày cuối khi Saigon còn đang hấp hối thở, phải nói là tôi rất may mắn đã lấy tiền từ từ hằng ngày trong suốt gần một tuần thì vài ngày sau Ngân hàng Việt Nam Thương Tín đóng cửa. Tôi đem số tiền vừa lãnh ra trả cho chị tôi vì lúc trước tôi mượn làm vốn để mua thuốc, chị tôi không nhận, bà nói đem gởi lại trong Ngân hàng vì bây giờ số tiền này chỉ là tiền giấy, giá vàng lên quá cao gấp 10 lần khi tôi mượn. Nhưng cuối cùng bà chị tôi cũng phải nhận vì sau khi tôi vừa rút được hết số tiền thì vài ngày sau ngân hàng Việt Nam Thương Tín đóng cửa vì hết tiền. Mỗi lần lấy tiền ra là tôi mua vàng ngay, vàng lên giá hằng ngày đến giữa Tháng Tư là hoàn toàn không còn vàng để mua nữa. Nhờ có chút ít vốn mang theo nên tôi mới có nhiều cơ may để tính toán cho cuộc đổi đời này.
Còn hai bà bạn đi chung thì họ không nghĩ như tôi vì con cái họ lớn rồi, tất cả họ đều nương tựa vào người con trai lớn đang tìm đường đi Kansas city hoặc Missouri để vừa học đại học vừa tìm việc làm.
Khi nhận được thư của cô em bà con đồng ý giúp tôi qua Cali, tôi mừng lắm. Tôi đến nhà thờ nói chuyện với ông cha ngay về chuyện tôi muốn di chuyển đến Cali. Khi lên nói chuyện với ông cha, tôi đem theo quyển tự điển Việt-Anh, Anh-Việt của Lê Bá Công nhận được từ trong trại tị nạn Fort Chaffee. Chữ nghĩa tiếng Anh tôi học từ Trung học Đệ nhất cấp đến Đệ nhị cấp đã lâu, nay bỗng dưng nó lần lượt chui ra từ khối óc tưởng chừng như đông đá vì suy sụp tinh thần qua cuộc đổi đời tàn khốc đầy đau thương và nước mắt. May mắn tôi nhớ từ từ được một ít chữ để đem ra nói chuyện với cha Mỹ.
Cách phát âm của tôi ngày đó hoàn toàn sai, vừa sai Văn phạm vừa thiếu chữ để dùng, nhưng tôi vẫn cố gắng diễn tả bằng đủ mọi cách. Cha nói thì tôi đoán, còn tối nói thì cha cũng đoán luôn chứ không ai hiểu nổi ai. Tôi cũng biết trước như vậy nên có đem theo tập giấy trắng và cây viết. Tôi viết xuống những gì mình muốn nói, đến chữ nào bí thì lật tự điển ra chỉ cho cha xem. Cha nói tôi nên đi xe lửa rẻ tiền hơn vì nhà thờ không có tiền mua vé máy bay. Tôi lắc đầu không chịu khi nghe cha nói đi xe lửa 3 ngày mới đến Cali, tôi sợ lắm vì một mình với năm đứa con nhỏ lỡ dọc đường xảy ra chuyện gì thì biết nhờ ai giúp đỡ khi tiếng Anh nói không được. Tôi phải nói dối với cha là cô em họ sẽ gởi tiền nhờ cha mua vé máy bay cho 6 mẹ con tôi qua Cali. Cha đồng ý ngay. Thế là cuối cùng hai bên cũng hiểu được nhau nhờ cuốn tự điển của ông Lê Bá Công cứu giúp; cuốn tự điển này nó theo tôi đi chu du từ Marceline đến Concord (California) rồi xuống đến San José mới chấm dứt.
Sáu vé máy bay vào khoảng gần năm trăm dollars, một vé giá $76.70, lúc đó là một số tiền rất lớn nhưng tôi đành phải chịu. Tôi phải nhắm mắt đưa chân để mong đánh đổi một cuộc sống mới khác với cảnh sống hiu quạnh ở nơi này nhất là tương lai của các con tôi.
Khi viết lại đến đây, tôi mới biết rằng con người tuy nhỏ bé nhưng ý chí và khối óc nó không bé nhỏ nếu mình biết tận dụng nó.
Tôi rời Marceline ngày 10 tháng 4 năm 1976 và đến Thành phố Concord, miền Bắc California cùng ngày.
Hai vợ chồng cô em ra đón, gia đình tôi về ở chung với gia đình cô gần 4 tháng vì hai vợ chồng cô ấy thuê căn nhà khá rộng nên cô nói với tôi chịu khó ở chung lúc đầu cho đỡ tốn tiền nhà, sau này nếu tìm được căn nhà nào gần nhà cô thì hẳn dọn ra. Hai vợ chồng cô Mai có hai đứa con nhỏ và ba đứa cháu, gia đình qua Mỹ trước vào cuối năm 1974. Tôi cũng đồng ý ở chung vì mới qua không thông thạo đường sá, ngôn ngữ tiếng Anh không giỏi, chưa có việc làm, đó là điều làm cho tôi chùn chân và lo lắng.
Thành phố Concord đa số là người Mỹ trắng, công việc hiếm hoi, cô Mai phải đi làm cho Hotel một giờ 3 dollars 50 cent. Mỗi lần đi làm về tôi nghe cô ấy than mệt mỏi lắm, tôi lại nghĩ đến thân phận của mình. So với cô ấy, tôi nhỏ con và ốm yếu hơn nhiều mà công việc gì cũng cần phải có kinh nghiệm mới có thể tìm được việc làm. Vì lo nghĩ nhiều nên tôi kém ăn, ít ngủ và cơ thể suy yếu dần. Tôi đã đau nặng vì thiếu máu và chóng mặt nên không thể đứng vững được, hai chân của tôi sưng phù giống như bị bệnh phù thũng. Vợ chồng cô Mai vội đưa tôi vào nhà thương, Bác sĩ bắt phải ở lại đến gần hai tuần để vào nước biển và uống thuốc cho lại sức. Nhờ có chồng cô Mai thông dịch, bác sĩ biết được hoàn cảnh của tôi đơn độc với năm đứa con còn nhỏ từ Việt Nam mới qua nên Bác sĩ khuyên tôi phải nghĩ đến năm đứa con còn nhỏ, tôi phải cố gắng tịnh tâm và giữ gìn sức khỏe mới sống được để nuôi con; nếu tôi chết thì năm đứa con tôi sẽ phải vào Viện mồ côi chứ vợ chồng cô Mai không đủ tài chánh để nhận nuôi theo luật của Chính phủ đề ra cho người bảo lãnh nuôi (foster parent).
Bác sĩ cũng khuyên tôi không nên nghĩ nhiều đến chuyện gia đình còn kẹt ở Việt Nam; điều quan trọng là phải sống để nuôi con còn nhỏ dại ở bên này trước. Nghe chồng cô em thông dịch lại như vậy, tôi vừa thổn thức khóc vì tủi thân vừa nắm tay ông Bác sĩ và gật đầu tỏ cho ông biết là tôi cám ơn ông và cũng để ông hiểu rằng tôi sẽ nghe lời ông khuyên nhủ.
Về nhà được hai hôm, vợ chồng cô em họ mới đưa tôi đến Bộ xã hội xin tiền trợ cấp vì tôi có giấy của Bác sĩ trong nhà thương chứng nhận là tôi còn rất yếu, không đủ sức khỏe. Thế là tôi nhận được tiền xã hội chu cấp từ ngày mới đến Concord, nghĩa là tôi nhận một lúc 5 tháng tiền trợ cấp. Tôi đưa lại cho vợ chồng cô em tiền nhà và tất cả tiền food stamps. Người tị nạn ai cũng nghĩ là gia đình nào có con còn nhỏ dưới 18 tuổi, không có chồng hoặc vợ, người Mỹ gọi là single parent, đều được hưởng tiền trợ cấp của Bộ xã hội, đó là họ hiểu sai. Theo luật thì dù không có chồng hay vợ mà đứa con nhỏ nhất đúng 7 tuổi, người đàn ông hay đàn bà đều phải tìm việc đi làm, Bộ xã hội cắt hết mọi trợ cấp nếu không có lý do chánh đáng. Khi nào tiền lương làm không đủ sống, bấy giờ mới được giúp đỡ thêm cho đến khi tự túc được.
Nhờ biết được như vậy, tôi lại phải lo tìm đường để đi tiếp vì biết chắc chắn là không thể sống ở Thành phố Concord này nếu không có một nghề tương đối hợp với khả năng và sức khỏe. Tôi phải nghĩ đến sức khỏe của tôi trước như lời ông Bác sĩ trong nhà thương khuyên nhủ. Tôi nói với cô em bà con là tôi muốn thuê nhà ở riêng vì nay đã có tiền trợ cấp nhưng hình như vợ chồng cô không muốn tôi thuê nhà ở riêng. Cuối cùng tôi đành phải nhờ một gia đình mới quen khi đi họp mặt những người Việt Nam mới định cư quanh vùng Contra Costa County tại nhà thờ công giáo ở Walnut Creek. May mắn họ tìm giùm được một căn Apartment gần với ba bốn gia đình người Việt ở quanh đó. Tôi muốn ở riêng để nấu ăn theo ý của mình và chăm sóc các con được chu đáo hơn, nhất là được thoải mái thì tinh thần bớt căng thẳng. Tôi phải cám ơn vợ chồng cô em bà con, nếu không có sự giúp đỡ lúc ban đầu thì không biết tương lai mẹ con sẽ ra sao trong những ngày tháng tới.
Nhờ ở gần những gia đình bạn mới này tôi mới có dịp đi theo họ xuống San José thăm thú tình hình. Tôi có ghé tiệm thực phẩm Mê Kông ở đường số 4, down town San José để mua những thức ăn Việt Nam như bún khô, mì gói, gạo, nước mắm v.v... Khi đó tôi mới biết mặt ông bà Nhạc sĩ Anh Việt là Đại tá Trần văn Trọng, người Nhạc sĩ nổi tiếng với nhiều bản nhạc bất hủ như: Bến Cũ, Lỡ chuyến đò, Thơ Ngây v.v... Tôi còn được gặp những người trong Quân đội VNCH cũ, họ kể chuyện ai còn ai mất, ai đi được và ai bị kẹt lại. Nghe họ kể nhưng những người đó tôi không quen biết ai cả. Điều thú vị nhất mà tôi quan tâm là họ nói ở San Jose có rất nhiều trường dạy nghề do Chính phủ đài thọ, nếu học theo Chương trình huấn nghệ của CETA còn được cấp thêm tiền, tôi không nhớ là bao nhiêu. Thế là khi trở về lại Concord đầu óc tôi bớt căng thẳng và tôi quyết định đi tìm con đường sống mới một lần nữa cho tương lai trước mặt đang chờ đón mẹ con tôi ở San José.
Nhưng tôi đâu có quen biết ai ở San José mà nhờ? Biết dòng sông nào là trong hay đục để lội qua? Thôi thì đục hay trong gì cũng phải lội qua rồi mới biết chứ cứ ngồi một chỗ chờ sung rụng thì đến kiếp nào? Tôi tự hỏi và tự trả lời trong đầu như vậy. Tôi phải tranh thủ với thời giờ vì con gái út của tôi còn chưa đến 2 năm nữa là 7 tuổi rồi. Tôi phải đi học để biết nói và viết tiếng Anh, nếu không thì sẽ thành câm và điếc nơi xứ người. Tôi phải vươn lên để sống còn. Nghĩ như vậy, nước mắt tôi lại giàn giụa chảy trong đêm khuya nằm trăn trở bên con.
Tôi vừa đậu xong bài thi viết lái xe hơi và cũng vừa nhờ một cậu thanh niên ở gần nhà tìm mua giùm chiếc xe cũ hiệu OPEL và nhờ cậu ấy tập cho tôi lái xe luôn. Cũng may là cậu này chưa tìm ra việc làm, còn ở chung với cha mẹ nên mới có thì giờ rảnh tập cho tôi lái xe. Tôi nhìn thấy xe cộ bên Mỹ chạy nhanh quá mà sợ, nhất là đường sá nhiều đèn xanh đỏ, nhiều lằn vạch trắng, vàng mà tối mắt.
May mắn là tôi đã biết lái xe trong mấy năm khi bán thuốc tây, nhờ vậy khi qua đây lái xe tự động tương đối rất dễ dàng đối với tôi vì ở Việt Nam lái xe sang số phức tạp hơn nhiều. Vậy mà tôi thi đến lần thứ ba mới đậu chỉ vì đậu xe Parallel không được và quẹo phải không quay đầu ngó chừng xe bên cạnh.
Có chiếc xe và đậu được bằng lái xe giống như tôi vừa có thêm một đôi chân mới thần tiên để bay bổng đi xa hơn, lẹ làng hơn và nó sẽ đưa tôi vượt qua bất kỳ đường đi khó khăn nào.
Tôi theo gia đình người quen ở gần nhà xuống San José khoảng ba lần và tôi đã gặp được một người quen mới di chuyển từ Missouri đến San José. Tôi nhờ tìm giùm nhà thuê ở dưới đó và tôi quyết định đi ngay không một chút đắn đo, sợ hãi như xưa nữa vì thời gian sẽ không chờ đợi một ai và cơ hội tốt khó đến với mình hai lần. Hình như tôi đã là một con người khác có nhiều nghị lực hơn, nhiều tự tin hơn và nhiều hi vọng ở tương lai hơn. Cũng chính nhờ người quen này thuê xe U-haul chở đồ đạc từ Concord xuống San José giùm, còn tôi chở 5 đứa con đi freeway 680 South theo sau, gần một giờ mới đến được San José thì trời đã tối.
Tôi di chuyển từ Concord xuống San José vào năm 1978. Thành phố Concord cách San José vào khoảng 60 miles. Những năm từ 1977 đến 1981, người Việt Nam rủ nhau di chuyển về San José chưa nhiều. Ngành điện tử mới bắt đầu đi lên và công việc về điện tử rất dễ kiếm với đồng lương tương đối khá cao so với những ngành nghề khác, công việc lại nhẹ nhàng. Người Việt Nam làm Assembler không cần đi học trường lớp, chỉ cần được chỉ dạy thực tập vài tuần là làm việc rất nhuần nhuyễn và khéo tay hơn người Mỹ và Mễ. Người Việt Nam mau thành công nơi xứ người nhờ vào trí thông minh, chịu khó và siêng năng. Sau này người Việt Nam di chuyển về San José ngày một đông thêm. Đất lành chim đậu là vậy.
Vừa xuống đến San José được một tuần là tôi nhận được tập giấy chương trình ghi danh đi học của Đại học cộng đồng San José City College gửi đến nhà. Vừa xem qua chương trình học, tôi thật mừng quá đỗi vì có nhiều lớp dạy về điện tử cho từng cấp bậc. Khi tôi nhận được tập giấy này thì chỉ còn một ngày chót để đến trường ghi danh. Nhờ có chiếc xe hơi và cái bằng lái mà tôi mới đạt được giấc mộng đổi đời. Hôm sau tôi lái xe đến trường để xếp hàng ghi danh chọn lớp học. Từ nhà đến trường khoảng 12 miles và phải hơn nửa giờ lái xe nếu không đi lạc đường. Lúc đầu không có ai chỉ dẫn nên tôi đã chọn hai lớp học không đúng vì lớp cao quá, tôi phải bỏ. Ngày đó freeway 680 chưa làm xong, tôi phải lái xe đi đường trong rồi mới vào Freeway 280 North để đến trường.
Riêng các con tôi, vừa dọn nhà xong là tôi đưa đến trường đi học ngay, năm đứa học ba trường khác nhau, 2 đứa lớn học High School, 1 đứa học Junior high và 2 đứa nhỏ hơn học Elementary School. Sáng nào tôi cũng phải chở các con tôi đến 3 trường ở 3 địa điểm khác nhau. Cứ khoảng ba bốn tháng là tôi phải mua cái bản đồ mới, nó rách tươm vì cứ đi lạc đường hoài mặc dù trước khi đi đã xem kỹ rồi viết ra giấy cho dễ nhớ.
Tháng đầu tiên tôi đi học đã được gặp vài người đặc biệt: nhạc sĩ Anh Việt học cùng một lớp điện và lớp algebra 1 và Giáo Sư Toán Đinh Tiến Lãng trong lớp Pháp Văn, đa số người Việt Nam chọn Pháp văn thay cho lớp Ethnic để đỡ phải mất thì giờ học bài, hình như khoảng 10 năm sau mới có thêm lớp Việt ngữ. Nếu lấy AS degree thì mới cần học lớp này vì bắt buộc phải đủ 20 units về General Education và 40 units về lớp điện tử.
Cuối cùng những người theo học rơi rụng từ từ vì đủ mọi lý do. Trong lớp học về điện tử của tôi có khoảng 5 hay 6 người Việt Nam còn theo học đến cuối, một nửa hơi lớn tuổi từ 35-45 trong đó có tôi và một nửa khoảng trên 20-30 tuổi. Bây giờ qua đây phải đi học lại để có mảnh bằng đi làm kiếm sống cho qua đoạn đường gian nan đổi đời này. Đôi lúc trông chúng tôi giống như những ngày còn trẻ đi học vậy.
Mỗi lần thi Midterm hay Final, sau khi ra khỏi lớp là xúm nhau lại hỏi xem câu này làm như thế nào, câu kia giải đáp ra sao rồi cùng nhau ôm bụng cười vì làm Toán đại số (Algebra 1) tuy dễ đối với chúng tôi vì nó là hàm số bậc nhất, chỉ tương đương với lớp đệ Ngũ hay đệ Tứ mà thôi nhưng vì đầu óc bị căng thẳng đủ thứ trong cuộc đời nên có người quên đổi dấu cộng (+) hoặc trừ (-) khi gặp bài toán mà những con số trong đó có đến hai ba cái dấu ngoặc đơn hoặc kép. Người Việt Nam chuyên môn làm toán tính nhẩm trong đầu cho nhanh nên thường xuyên bị lộn dấu giữa +/-, bị vài lần như vậy nên chúng tôi bàn nhau chớ có dại dột mà đi ngang về tắt, cứ từng Step by Step như Mỹ cho chắc ăn, có mảnh bằng càng sớm càng tốt để kiếm sống trước tiên.
Có mấy lớp tôi phải học buổi tối vì ban ngày người ta ghi danh đầy rồi. Nhiều bữa tôi đang làm lab. nửa chừng, phải thu dọn đem gởi trong phòng lab. Và năn nỉ nhờ giữ giùm, tôi phải về đón con và lo cho chúng bữa cơm chiều xong rồi mới trở lại làm tiếp để còn viết lab. Nộp cho thầy ngày hôm sau là thời hạn chót. Mỗi lần đi về trên con đường Senter Rd. Nối dài từ đường Story đến đường Tully Rd. là tôi sợ lắm, tôi không nhớ ngày đó đã có Kelly Park chưa. Con đường này lúc đó hai bên trồng toàn cây Walnut ngút ngàn, không có đèn đường, chỉ có một lane đi và một lane về. Tôi vừa sợ ma lẫn sợ người.
Tôi tưởng tượng, nếu thình lình có ai đó đứng giữa đường thì chắc chắn 100% tôi phải cán qua để đi chứ nhất định không ngừng hoặc xe chết máy ngay giữa đường chắc tôi cũng chết vì đau tim. Lạy Phật, suốt gần ba năm học tôi chưa bao giờ bị tai nạn đó.
Học full time mới hoàn tất trong 2 năm, còn học làng chàng như tôi vì phải lo đưa đón con, lo chợ búa cơm nước nên gần 3 năm tôi mới hoàn tất xong vì tôi cố gắng học thêm mấy lớp Anh Văn cho vững để đi làm. Lúc đó bộ xã hội còn dễ dàng cho người tị nạn.
Tôi hoàn tất mảnh bằng AS degree năm 1981 và tìm được công việc làm ngay sau đó. Trong gian khổ nhưng tôi cũng gặp nhiều may mắn, có lẽ phải nói là vì tôi liều mạng cũng là một phần trong đó. Tôi nghĩ nếu tôi không can đảm và liều mạng chắc không được như ý ngày hôm nay.
Khi tôi học xong và có việc làm vào năm 1981 thì cây cầu 680 đã hoàn thành. Thế là tôi thoát khỏi cảnh phải lái xe qua đoạn đường ma quái đó để đi vào 280 N. và 101 N.
Tôi cám ơn Trời Phật đã giúp cho mẹ con tôi qua được cơn hoạn nạn nhiều gian nan, nhiều nước mắt và nhiều khổ đau.
Sau khi có việc làm rồi, ổn định được cuộc sống, tôi vẫn phải lo tiếp đến những người thân còn ở Việt Nam. Chồng tôi đã bị bắt đi học tập cải tạo ở ngoài Bắc cùng với số đông bạn bè kẹt lại. Mỗi lần nhận được thơ bên nhà gởi qua kèm theo thơ của chồng tôi viết trong trại “cải tạo” gởi về, tôi đều sắp xếp mua những thứ chồng tôi cần ghi trong thơ. Mua xong món nào là gạch ngang để nhớ. Món nào tôi cũng đều phải mua 1 thành 3 vì 2 người em chồng cũng bị đi “học tập cải tạo”, không lẽ mua cho chồng mà không cho em chồng cũng tội nghiệp. Mua đồ dùng theo đúng trong thư ghi đầy đủ xong, tôi phải tìm cách gởi tiền mặt kèm theo để cô em dâu chồng tôi làm lộ phí đi thăm nuôi. Còn ba tôi và gia đình hai người em thì gởi riêng từng gia đình, không dám gởi chung nhau vì sợ phân chia không đồng đều. Một năm tôi lo gởi khoảng 2 lần tùy theo thơ bên nhà gởi qua. Sau này bên Việt Nam cho gởi tiền qua dịch vụ bên Mỹ nên đỡ vất vả hơn là phải đi tìm mua đồ rồi đóng thùng, rồi khệ nệ đi gởi tốn tiền cước phí, tốn cả thì giờ.
Riêng ông Trung Tá Nguyễn Xuân Trân kể như mất tích, không có tin tức gì.
Tội nghiệp bà Trân, mỗi lần điện thoại nói chuyện với bà, tôi đều không cầm được nước mắt vì bà cứ khóc và than thở:
- Chắc ông Trân tôi chết thật rồi bà ơi. Hơn 15 năm không có tin tức gì cả. Tôi về Việt Nam hai lần, đến nhà cũ tìm người quen để hỏi thăm nhưng không có ai gặp ông Trân tôi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngay cả khi tôi ra Bắc thăm bà cụ tôi, ai cũng nói không bao giờ gặp.
Tôi phải nói vài lời chia buồn và an ủi bà rồi xin cúp máy kẻo bà than khóc quá làm tôi cũng đau lòng vì hoàn cảnh của chồng tôi cũng như cá đang nằm trên thớt, chưa biết ngày nào được ra.
Bà Trân có vẻ quê mùa nhưng tánh tình ngay thẳng và tốt bụng. Bà chết vào năm 1993 vì bệnh ung thư sau khi qua San José thăm tôi khoảng 6 tháng sau đó. Tôi có gọi một số bạn bè quen biết đến chùa Đức Viên để làm lễ cầu siêu 49 ngày cho Bà và tôi có để hình của bà lên bàn thờ chung với cha mẹ và chị tôi. Tôi đã mất đi một người bạn tốt cũng là một người chị kết nghĩa mà tôi thương quý.
Gõ đến đây, nước mắt tôi lại rơi xuống bàn phím rồi... Nghĩ lại một đời người có biết bao nhiêu là đắng cay, đau khổ trong lúc niềm vui thì không được nhiều.
Những ngày cũ vẫn chưa phai nhòa trong trí nhớ của tôi...
***
Chồng tôi ở tù 13 năm mới được thả ra vào năm 1988 và đến năm 1991 mới được đoàn tụ với gia đình theo diện HO.
Bốn mươi năm trôi qua thật nhanh như một cơn gió thoảng. Đời người như nằm trong cơn lốc xoáy kinh hoàng, cuốn trôi đi trong bão táp mà không làm sao để chống đỡ. Tất cả đều nằm trong định mệnh, số phần của may rủi.
Tôi đã nhận nơi đây là Quê hương thứ hai vĩnh viễn. Thân xác sẽ nằm trên Quê hương thứ hai này vì nơi đây đã cưu mang gia đình tôi và đàn con thơ dại của tôi nay đã nên người và đã thành danh. Tôi rất mãn nguyện. Cuộc đời còn lại này không còn gì để tôi phải bon chen và oán trách nữa. Bây giờ tôi đã có 8 cháu nội và ngoại, thêm hai chắt ngoại là tổng cộng 10 đứa cháu.
Ngày mới định cư ở Mỹ, tôi nghĩ mảnh đất này chỉ là nơi tạm dung vì lòng còn hướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nhưng nay thì nỗi mong ước đó đã dần phai nhạt và mất hẳn vì Cộng Sản còn đang làm chủ trên Quê hương tôi. Nước Mỹ nay đã là Quê hương thứ hai của tôi, nay đã được bốn thập niên rồi, không còn là mảnh đất tạm dung nữa.
Không biết sau này khi tôi chết đi và nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chấm dứt cai trị thì các con tôi có muốn tung cánh chim tìm về nguồn cội của tổ tiên không? Và chúng có muốn trở về sinh sống trên mảnh đất quê hương không? Tôi nghĩ chắc là không vì những cây non dại ngày xưa tôi bứng mang theo qua đây, bây giờ cây đã già và rễ đã mọc quá sâu xuống mảnh đất tự do, cởi mở và nhiều tình người này rồi.
Chúng có về chăng thì chỉ về để thăm cho biết nguồn cội, biết mảnh đất Quê hương của Tổ tiên hình cong chữ S ra sao mà thôi.
Đất nước Việt Nam thương yêu của tôi có được Hạnh phúc, Tự do và Công bằng hay không thì chỉ đặt hy vọng vào một ngày không còn chế độ Cộng Sản tàn ác, vô nhân tính mà thôi.
Giọt Mưa Thu
No comments:
Post a Comment