Wednesday, May 22, 2019

Tô Thùy Yên vừa ra đi vĩnh viễn tại Houston, Hoa Kỳ

Từ Thức

blank
Nhà thơ Tô Thùy Yên (ảnh: dutule.com)

Người Việt làm thơ rất nhiều, nhưng thi sĩ, rất hiếm. Thi sĩ một mình một chiếu như TTY, còn hiếm hơn nữa. 


Để tưởng niệm nhà thơ vừa nằm xuống, không gì hơn là đọc lại ‘’ Ta Về ‘’, '' Chiều trên phá Tam Giang '' Tất cả ngôn ngữ, phong thái TTY phảng phất trong đó. 

Thơ TTY bài nào cũng dài, như nỗi buồn không cùng của tác giả, nhưng đọc, sẽ tiếc là quá ngắn.

Thơ TTY chững chạc, cổ điển như thơ Đường, nhưng mới lạ, táo bạo hơn thơ mới. Đạo mạo như một người đứng tuổi, từng trải, nhưng trẻ, mạnh, vũ bão như thanh niên. Không Bắc, không Nam, không Sài gòn, Hà Nội, bởi vì đó là tiếng thở dài, tiếng khóc, cái quặn đau của người Việt ( hỡi ơi, trời đã bỏ rơi dân ! ). Đặc Việt Nam, nhưng mở rộng ra những chân trời mới. Đau xót, bi quan nhưng bao dung ; đứng ngoài, đứng trên cái thù hận, để thấy cái bát ngát của đất trời, rất zen, rất thiền ( Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui vì những nỗi lẻ loi ) Từ ngữ TTY đài các nhưng gần gũi, sáng tạo cực kỳ nhưng tưởng như dễ dãi. Vừa lạ, vừa thực. Điều đó không dễ. Có người dùng chữ lạ, nhưng giả tạo, không thực, chỉ lộ cái lập dị. Có người viết thực, nhưng nhàm. Bởi vì sự thực trong thơ, trong nghệ thuật, nó khác với sự thực ngoài đời. Nó cô đọng hơn sự thực ngoài đời. Nó thực hơn sự thực.

Nhiều thi sĩ nổi tiếng vì một, hai câu thơ. Những câu như vậy rải rác trong mỗi bài thơ TTY. 

TTY ra đi, bỏ dở thiên trường ca về nỗi đoạn trường của một thi sĩ, và qua đó, của một dân tộc. '' Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/ Đành không trải hết được lời ta '', nhưng một đời người làm sao trải hết được lời của một dân tộc điêu linh như dân tộc Việt 

Sáng dậy nghe tin TTY '' đi xa '', cứ muốn tin là fake news, là chuyện dỡn. Nhưng hôm nay không phải là ngày cá tháng Tư. Đành gật gù như Thâm Tâm : '' Người đi, ừ nhỉ, người đi thực '' 

Đi xa như lạc trong trời đất
Thủy tận sơn cùng xí xóa ta
Cõi chiều đứng lại, khóc như liễu
Có thật là ta đã đi xa ? ( Đi xa. TTY )

Xí xóa được người, nhưng thủy tận, sơn cùng sẽ bó tay, làm sao xoá được Ta Về, Phá Tam Giang ...?






TA VỀ
Tô Thùy Yên



Ta về một bóng trên đường lớn 
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai 
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ 
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay 



Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp 
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu 
Mười năm mặt sạm soi khe nước 
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ 



Ta về qua những truông cùng phá 
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may 
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ 
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay 



Chỉ có thế. Trời câm đất nín 
Đời im lìm đóng váng xanh xao 
Mười năm, thế giới già trông thấy 
Đất bạc màu đi, đất bạc màu 



Ta về như bóng chim qua trễ 
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa 
Ai đứng trông vời mây nước đó 
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ 



Một đời được mấy điều mong ước 
Núi lở sông bồi đã mấy khi 
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động 
Mười năm, cổ lục đã ai ghi 



Ta về cúi mái đầu sương điểm 
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời 
Cảm ơn hoa đã vì ta nở 
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi 



Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa 
Làng ta ngựa đá đã qua sông 
Người đi như cá theo con nước 
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng 



Ta về như lá rơi về cội 
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay 
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống 
Giải oan cho cuộc biển dâu này 



Ta khóc tạ ơn đời máu chảy 
Ruột mềm như đá dưới chân ta 
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó 
Người thức mong buồn tận cõi xa 



Ta về như hạt sương trên cỏ 
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời 
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt 
Tội tình chi lắm nữa người ơi 



Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ 
Mười năm người tỏ mặt nhau đây 
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi 
Đành uống lưng thôi bát nước mời 



Ta về như sợi tơ trời trắng 
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh 
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng 
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can 



Lời thề buổi ấy còn mang nặng 
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra 
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ 
Mười năm ta vẫn cứ là ta 



Ta về như tứ thơ xiêu tán 
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên 
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách 
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền 



Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ 
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ 
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ 
Khách cũ không còn, khách mới thưa 



Ta về khai giải bùa thiêng yểm 
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi 
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ 
Một lần kể lại để rồi thôi 



Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn 
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà 
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở? 
Mười năm, cây có nhớ người xa? 



Ta về như đứa con phung phá 
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu 
Mười năm, con đã già trông thấy 
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu 



Con gẫm lại đời con thất bát 
Hứa trăm điều một chẳng làm nên 
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn 
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên 



Ta về như tiếng kêu đồng vọng 
Rau mác lên bờ đã trổ bông 
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng 
Chờ anh như biển vẫn chờ sông 



Ta gọi thời gian sau cánh cửa 
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu 
Ta nghe như máu ân tình chảy 
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau 



Ta về dẫu phải đi chân đất 
Khắp thế gian này để gặp em 
Đau khổ riêng gì nơi gió cát 
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm 



Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa 
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà 
Tình xưa như tuổi già không ngủ 
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa 



Ta về như giấc mơ thần bí 
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui 
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng 
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi 



Bé ơi, này những vui buồn cũ 
Hãy sống, đương đầu với lãng quên 
Con dế vẫn là con dế ấy 
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen 



Ta về như nước Tào Khê chảy 
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ 
Thân thích những ai giờ đã khuất 
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa 



Người chết đưa ta cùng xuống mộ 
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao 
Khóc người ta khóc ta rơi rụng 
Tuổi hạc ôi ngày một một hao 



Ta về như bóng ma hờn tủi 
Lục lại thời gian kiếm chính mình 
Ta nhặt mà thương từng phế liệu 
Như từng hài cốt sắp vô danh 



Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa 
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời 
Ai đó trong hồn ta thổn thức 
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi 



Ta về như hạc vàng thương nhớ 
Một thủa trần gian bay lướt qua 
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn 
Đành không trải hết được lòng ta



____________________________________



CHIỀU TRÊN PHÁ TAM GIANG 



1.
Chiếc trực thăng bay là mặt nước
Như cơn mộng nhanh
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát
Cát hôn mê, nước miệt mài trôi
Ngó xuống cảm thương người lỡ bước
Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ
Chiều dòn tan, nắng đọng nứt ran ran
Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ
Thơm cả thiết tha đời
Rào rào trận gió nhám mặt mũi
Rào rào trận buồn ngây chân tay



Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma
Ta ngó thấy thuỳ dương gãy rủ
Từng cây như nỗi bất an già
Ta ngó thấy rào chà cản nước
Từng hàng như nỗ lực lao đao
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc
Từng ngôi như mặt đất đang gào
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt người làm tên lính nguỵ



Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt im
Chuyện cũng thành vô ích
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung
Thi thể chẳng ai thâu
Nào có chi đáng kể
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?



Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi thoả chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...?
Các việc ngươi làm
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
Nên ngươi hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau



Ta tự hỏi vì sao
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?)
Và ta tự trả lời
(Có bao giờ ngươi tự trả lời?)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt
Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành



Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận
Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông



2.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận



Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài Gòn không còn buổi tối nữa)
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi



Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn
Quyển sách mở sâu đêm
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỷ
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ
Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi nép hàng hiên sướt mướt
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đoá hoa nở gấp rút
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ



Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nổi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới
Giờ này thành phố chợt bùng lên



Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận



Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân



Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!



3.
Chiều trên phá Tam Giang
Mày nhìn con nước xiết
Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm
Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành
Mà rồi mày bỏ dở
Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường
Trên mịt mùng nghi hoặc
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào
Còn lưu hậu chua cay hoài vọng
Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp
Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man
Đụt tuổi già bình an vô tích sự
Như lau lách bờm sờm trên mặt sông nhăn
Cùng cái chết
Cái chết lâu như nỗi héo hon dần
Làm chính mình bực bội
Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn
Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp
Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh
Bởi mày không đủ dạn dày trình diễn tới lui cơn thất chí
Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người
Với từng ấy tấn tuồng bần tiện
Rút ra từ lịch sử u mê
Gió thổi thêm đi, gió thổi thêm đi
Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh
Mày mặc kệ



Chiều trên phá Tam Giang
Có gã hề cuồng buông tiếng cười lạnh rợn
Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng
Dớn dác ngó



Tô Thùy Yên



6-1972






Theo bản tiểu sử trên Wikipedia, nhà thơ Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, đã nổi tiếng từ thập niên 1950s tới nay. Ông là tác giả bài thơ Chiều trên phá Tam Giang mà một phần của nó đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc.

Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gò Vấp. Cha là chuyên viên phòng thí nghiệm Viện Pasteur, Sài Gòn, sau về công tác ở Bệnh viện Chợ Rẫy.
Thuở nhỏ học trung học Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, có ghi danh theo học ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở.
 
Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) trước khi xuất hiện và nổi tiếng trên tạp chí Sáng Tạo. Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Ông là người miền Nam duy nhất trong nhóm Sáng tạo.
 
Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị. Chức vụ cuối cùng là thiếu tá, trưởng phòng Tâm lý chiến.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị nhà cầm quyền CSVN cầm tù ba lần, tổng cộng gần 13 năm. Cuối năm 1993 cùng gia đình sang Hoa Kỳ theo hồ sơ tù nhân chính trị, định cư ở Houston, tiểu bang Texas.
 
Tác phẩm đã ấn hành:
-- Thơ tuyển (xuất bản ở Đức năm 1994; Minnesota, Hoa Kỳ, 1995).
-- Thắp Tạ (An Tiêm, Houston, Hoa Kỳ, 2004).
 
Nhà phê bình văn học Thụy Khuê trong bài viết “Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá” ghi nhận về nhà thơ Tô Thùy Yên:

"Đi từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cô đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc...
 Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hùng nhào nặn thành một tâm hồn "tráng sĩ" hiện đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đầy. Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông.

Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về...”

Nhà thơ Du Tử Lê trong bài viết nhan đề “Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” nhận định:

Tô Thùy Yên, theo tôi, là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn... Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do (rất ít), thì hầu hết những bài thơ ký tên Tô Thùy Yên là thơ có vần, điệu. Đôi khi vần, điệu của ông, nơi những bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ....

Một nét đặc thù khác trong thơ Tô Thùy Yên là chủ tâm sử dụng khá nhiều ngôn ngữ Nam…rặc. Chủ tâm này rất đáng kể; nếu người đọc nhớ lại rằng, đó là những câu thơ được viết trong khoảng thời gian 1956 tới 1975, trên một diễn đàn cổ súy văn chương… mới. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ngôn ngữ đặc biệt kia, trong Tô Thùy Yên Thơ Tuyển (TTY/TT) in năm 1995, tại Hoa Kỳ.”
 
Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc trong bài viết “Tô Thùy Yên – thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người” ghi nhận về thơ Tô Thùy Yên:

“Tô Thùy Yên là kẻ được chọn. Cũng là kẻ được trao ban. Và như một con người Việt Nam, ông đã sống vượt lên và vượt qua, trong một nghĩa nào đó, những kinh nghiệm, những cảm xúc và những suy tư của con người thời đại nói chung. Những giọt nước của trí tuệ và cảm xúc, hắt lên phần đất Việt Nam, nơi những con sóng dâng lên từ Tây Phương và Âu Mỹ kia, ông có tiếp nhận. Ông trải nghiệm được cái sức sống và hơi mát trong sự tiếp nhận ấy. Nhưng cuộc đời của một con người Việt Nam, đặc biệt của một nhà thơ Việt Nam, như Tô Thùy Yên, đã đẩy ông chạm mặt với sự đau khổ và cô đơn ngay trong tình yêu, chạm mặt với chiến tranh, với cái chết, với cái bao la rờn rợn mang mang của vũ trụ đang đè lên kiếp sống mỏng manh, heo hắt, chỉ chợt loé tàn của kiếp người. Cái siêu hình ấy chụp bắt lấy nhà thơ và đẩy hắn trở về đối mặt với chính nó trong cõi con người. Ở đó, hắn lớn lên. Hắn trở thành lớn lao. Nhưng khốn khổ…
  
Nhà thơ Tô Thùy Yên trong bài trả lời phỏng vấn do Nguyễn Mạnh An Dân thực hiện trên mạng Dutule.com/Vanviet.info nói về cái nhìn của ông về văn chương:

“...Nói chung, trước kia cũng như sau này, đối với tôi, văn chương vẫn chỉ là một chứng từ sao lại về sự thất bại của con người trước cuộc sống. Mặt khác, đối với văn chương, có lẽ tôi là người mắc chứng cầu toàn dù tôi hiểu rõ rằng sự hoàn chỉnh, ở bất cứ lãnh vực nào, cũng chỉ là một khái niệm chớ không thể là một thực tế. Bài thơ nào của tôi dẫu có được sửa tới sửa lui bao nhiêu lần, khi đọc lại, tôi vẫn cảm thấy hình như chưa phải vậy. Tôi rất dễ bị ray rứt, dằn vặt chỉ vì một tứ chưa ổn, một chữ chưa đắc. Thậm chí nhiều khi tôi cảm thấy hối tiếc sao đã lỡ viết ra chi vậy...”

Đặc biệt là khi được hỏi về bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang do Trần Thiện Thanh phổ nhạc và khi nhìn lại về cuộc chiến Việt Nam, nhà thơ Tô Thùy Yên trả lời Nguyễn Mạnh An Dân:

“...Một tác giả tự trọng không bao giờ nên giải thích thêm nữa về tác phẩm của mình. Yếu tính của nghệ thuật là tự nó nói lên, đúng hơn là gợi lên, bằng những phương tiện đặc thù của mỗi tác phẩm những gì mà người nghệ sĩ muốn truyền đạt. Chung cho tất cả những bài thơ khác của tôi, chớ chẳng riêng gì với bài Chiều Trên Phá Tam Giang, tôi xin phép không phải làm một việc vô ích nữa là phụ chú. Còn giả dụ bây giờ nếu phải viết lại bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang, tôi có giữ nguyên cái nhìn như cũ không? Tôi sẽ trả lời là có mà chẳng phải ngần ngừ gì. Chiến tranh, nhất là chiến tranh ủy nhiệm huynh đệ tương tàn, bao giờ lại chẳng gây thương tổn nặng nề cho nhân phẩm?”
 

Một trong các bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tô Thùy Yên là bài Ta Về, sáng tác năm 1985 khi còn trong Việt Nam, về sau in trong tập “Thơ tuyển” ấn hành năm 1995 ở hải ngoại. 

No comments:

Blog Archive