Saturday, May 18, 2019

Nước Mỹ Đón Chờ

Vuong Vu 

Chúng tôi bỏ nước ra đi một cách tình cờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Gần như cả nhà đi được hết mà chẳng cần quen biết gì, và cũng chẳng phải chúng tôi hay ho gì---tất cả là định mệnh. Khi vận nước đổ xuống đầu cả nhiều triệu người thì chẳng có ai hay cả, kể cả Việt Cộng họ cũng không chọn được ngày 30 tháng 4 năm đó.

Nhưng định mệnh này của chúng ta đã không phải do trời đất xếp đặt mà do bàn tay của các nước lớn. Nếu Mỹ không bỏ rơi, nếu Nga và Trung Cộng không giúp thì sẽ không có cái ngày 30 tháng 4 đó. Định mệnh chúng ta nằm trong toan tính quyền lợi của họ. Từ ngày lập quốc tới giờ chúng ta chưa có một lãnh đạo nào tạo được một nền giáo dục để dạy dỗ, giáo dục và đào tạo ra những công dân có khả năng làm việc cùng nhau để quyết định vận mạng của nước mình. 

Mấy ngày trước đó, chúng tôi theo dõi tin tức từ đài VOA, hoặc BBC trên chiếc radio transitor nhỏ bằng 2 bàn tay của bố tôi, tất cả những tin tức khác trên báo chí VNCH hay của VC đều không thể tin được. Và hàng đêm tôi leo lên mái che lầu ba nhìn khắp phía để ghi nhận, để nhớ những ngày thành phố thân yêu đang giãy chết, để cầu nguyện trong vô vọng một phép lạ sẽ đến: chúng tôi đang ở trong một tình trạng rất nguy hiểm. 

Gia đình chúng tôi di cư từ bắc vào nam năm 54. Lâu lâu ông bà bố mẹ kể cho chúng tôi nghe về hành trình chạy trốn của họ. Ông tôi đã từng bị đấu tố về tội điạ chủ cường hào ác bá, bố tôi bị người trong họ dọa giết vì đi học trường Bộ Binh Thủ Đức, bà tôi dù mù chữ đã khôn ngoan thoát được một nốt chặn trên đường vào nam. Bà đọc theo người đi trước khi VC chặn đường bắt đọc được chữ mới cho qua trong một chương trình “Xóa Mù Chữ" gì đó,... 

Bây giờ (1975) không những bố tôi, anh rể tôi làm chức tá trong quân đội, mà anh tôi và tôi cũng là cấp úy; thêm vào đó anh tôi dậy Anh văn, còn bố tôi dậy thêm ở Hội Việt Mỹ, những tội lỗi nghiêm trọng trong một xã hội sắp tới. Gia đình tôi sẽ bị coi như có nhiều nợ máu với nhân dân VN dù chưa giết một ai. Tôi biết rằng mình sẽ phải trả một cái giá cắt cổ khi họ vào đây, nhưng làm sao thoát đi? 

Bố tôi quen biết nhiều, cả vài tuần nay chạy khắp chốn tìm chỗ đi, vài bữa ghé nhà với khuôn mặt lo lắng, chán nản. Tôi mới chân ướt chân ráo chạy từ Hội An qua Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu về tới nhà tháng trước---tôi còn chưa làm quen lại được với Saì Gòn thì biết đâu mà chạy! 

Sau một hai ngày tôi trốn được về tới Sài Gòn, một người bạn thân tới thăm, người nhà tôi kể cứ một hai ngày nó ghé qua hỏi thăm tôi một lần. Nó mong tôi được bình an và cũng đang tìm thêm tin tức rời khỏi đây, một nơi sắp biến thành ngục tù cho dân miền nam, nơi mà chúng tôi tự nguyện từ bỏ tất cả công lao bao năm để cầu mong ra đi an toàn tới một nơi mà không biết mình có thể kiếm được việc làm nuôi thân hay không. 

Chừng vài ngày trước luật giới nghiêm ban hành, nó chở tôi ra bến tàu xem người ta tranh nhau chiếm chỗ trên những chiếc tàu vô chủ, với hy vọng mong manh là chiếc tàu mình lên sẽ có phép lạ nhổ chiếc neo và gío đưa nó đến một nơi nào đó. Bạn tôi bảo, “Vui lắm, tao ra đây xem họ mấy ngày rồi, nhiều gia đình vừa bước lên là ở dưới có một đám nhào tới giựt xe, gỡ bánh xe, ăn cắp đồ. Mà tức cười là cũng có nhiều người trên tàu đi xuống, chắc họ ở đó lâu rồi chán.” Tôi thấy đúng như vậy, hai con tàu đậu sát nhau, đặc kín người đứng trên boong cười, nói, khóc, la, tay vung vẫy nhìn xuống con đường và những người phía dưới đang thảnh thơi nhìn họ như xem kẻ khùng. Cũng có vài con tàu khác đang neo sát bờ sông, nhưng hai con tàu này nhộn nhịp nhất. Trên đường về nó hỏi tôi nếu biết đường đi thì cho em nó theo, nó sẽ ở lại với mẹ, tôi nói với nó tôi cũng đang khùng đây. 

Những ngày sau chúng tôi toàn nghe tin tức xấu, cả VOA và BBC đều nói chắc chắn VC sẽ tiến chiếm Sài Gòn, chỉ là không biết đó sẽ là ngày 30 tháng 4. Vài ngày trước đó, hàng đêm trên nóc sân thượng tôi nhìn bốn phía để thấy vài viên đạn pháo kích rơi vào một nơi nào đó trong thành phố, có một hai quả rơi trong khu vực nhà tôi. Mới đầu anh em tôi sợ lấy nệm lót quanh tường tầng một rồi bảo mọi người xuống ngủ, nhưng chỉ được một đêm, sau đó đồng ý với nhau, “Trời kêu ai nấy dạ!” 

Một vài đêm tôi đã thấy những đoàn trực thăng, rất nhiều, bay hàng một đẹp mắt, tôi đoán họ đang đưa người di tản ra hạm đội 7 như báo và radio nói. Trước ngày cuối cùng, không nhớ đài VOA hay BBC nói VC tuyên bố sẽ tắm máu Sài Gòn khi chúng vào. 

Tôi kể cho anh tôi nghe về những con tàu đậu trên sông, về những người đi lên đi xuống, những người đợi chờ để lấy cắp toàn bộ phương tiện di chuyển của người trốn chạy, về bản tin tắm máu trên radio,... Cuối cùng chúng tôi đồng ý đặt cược trên một con tàu nào đó với quyết định sẽ về nhà ngay sau lệnh đầu hàng vì sợ sẽ bị đánh hay bắn chết tại chỗ. Dẫu vậy chúng tôi hãy còn do dự lắm, quá nhiều rủi ro với nỗi ám ảnh từ chuyện những người đi xuống mà không biết sẽ về nhà bằng gì, hay còn nhà mà về không. Tôi đề nghị với anh hãy để mẹ tôi quyết định. 

Mẹ tôi bị tai biến đứt mạch máu phần lớn phải nằm giường từ mấy tháng nay. Vừa nghe chúng tôi kể xong, bà bảo đi ngay thôi; có lẽ kinh nghiệm từ cuộc tản cư năm 54 đã dậy cho bà biết cộng sản là gì. Bà không biết họ còn có cho đấu tố không, nhưng hình ảnh người bố chồng quì gối, cầm gạch dang hai tay ám ảnh bà suốt đời. 

Ngay tối hôm đó chúng tôi thu dọn đồ đạc, chị dâu và em gái nấu thật nhiều cơm, anh em tôi dấu tất cả quân phục và những gì dính líu đến quân đội lên pla-phông, tầng ba. 

Sáng 30 tháng 4 chúng tôi bồng bế dắt díu nhau đi, mướn một cái xe xích lô, còn lại 2 cái xe máy và một cái xe đạp chúng tôi dẫn dắt nhau tiến ra bờ sông. 

Tới nơi 2 chiếc tàu đậu song song mà tôi và bạn đã thấy nhiều ngày trước vẫn còn đó, buổi sáng cảnh hoạt động không nhộn nhịp bằng, nhưng vẫn vậy. Chưa biết sẽ chọn chiếc nào thì chúng tôi thấy gia đình một người quen đi xuống, anh nói cho chúng tôi biết đã ở trên đó vài ngày rồi, giờ chịu không nổi với thời tiết và sự khổ nên đi về. Vì những người chung quanh chưa biết gia đình anh về luôn nên chỗ họ ở chưa có ai chiếm. Chúng tôi dọn vào ngay, khỏi phải quyết định sẽ phải chọn con tàu nào vì tàu nào cũng đông nghẹt, chỉ cần kiếm một chỗ cho ba, bốn người đã rất khó khăn. 

Thằng em trai xung phong ở dưới coi chừng xe, tôi và vài đứa em còn lại đứng ngay trên boong nhìn xuống phù trợ. Đứng được chừng một tiếng, nó bảo về xem nhà và nếu gặp bố tôi thì rủ ông đi luôn. Nó đi cả tiếng không trở lại, sốt ruột tôi bỏ đi tìm. Những con đường trở nên khá vắng và có một cái im lặng lạnh lùng mà tôi chưa từng cảm thấy ở Sài Gòn. Nhà cửa phần lớn đóng im ỉm, lâu lâu thấy nhóm người hôi của, khiêng tv, bàn ghế, …., của những gia đình khác; người ta bắt đầu tập phân chia tài sản cho công bằng. 

Tôi ghé ngang nhà, bà giúp việc nhìn tôi ngạc nhiên, bà bảo bố tôi chưa về và em tôi cũng không ghé lại. Tôi lo lắng và tức giận không biết làm sao đành đánh một vòng nhỏ rồi quay lại hy vọng sẽ gặp được nó, nhưng không--- tôi đã không bao giờ có dịp nhìn thấy nó nữa. Tôi bỏ cuộc chạy ra bến tàu vì đó là chuyến đi không mua vé, tàu có thể khởi hành bất cứ lúc nào. 

Trước khi ra đến đường tôi gặp người bạn thân của anh tôi tới thăm. Vừa đi tôi vừa kể cho anh nghe mọi chuyện. Anh bảo ra thăm chúng tôi một lát rồi về vì anh còn mẹ già phải phụng dưỡng. Ai cũng vui mừng khi gặp lại nhau, anh hỏi thăm mọi chuyện, đến khi hỏi xem chúng tôi mang gì theo thì mới bật ngửa khi biết chúng tôi mang nhiều cơm ít nước. Anh dắt tôi qua bên kia đường mua những chai nhựa 1 gal rồi mua nước đổ vào đó. Tôi đi lính ba năm, vừa chạy loạn từ miền trung về mà không hề nghĩ đến; những galon nước đó mới là thứ quan trọng nhất. Nói chuyện hơn một tiếng mà hãy còn quyến luyến, thình lình hai ba viên pháo kích rơi cách chúng tôi chừng 100 mét. Mọi thứ nhanh chóng biến thành hỗn loạn, người ta hò hét, khóc lóc, chạy ngược xuôi; người bạn anh tôi mau chóng bỏ xe nhảy lên phụ giúp. Tôi nghe từng tràng súng máy nổ, tiếng kim loại va chạm như xe cộ đụng vào nhau bên cạnh những tiếng huyên náo khác. Rồi tôi thấy chiếc tàu kế bên từ từ lướt qua. Đó là một trong những lúc tôi thấy thất vọng cùng cực. Trong giây phút đứng bất động nhìn nghe mà tôi không biết gì cả đến khi thấy người ở tàu bên kia nhảy sang tôi mới bừng tỉnh. 

Thì ra khi tàu tôi di chuyển, đứng gần boong nhìn sang con tàu kia tôi bị ảo giác. Mừng không thể nào tả được tôi vội chạy lại đỡ những đứa bé bị cha mẹ nó ném sang cùng với đồ đạc trước rồi nhảy theo sau, nhưng rất nhiều cha mẹ đã không qua kịp, và vài người còn rớt xuống sông. Đã có vài chục em bé đã trở thành mồ côi trong vài phút. 

Con tàu chạy được chừng một tiếng hay hơn thì những người có radio cho biết tổng thống Dương văn Minh đọc diễn văn đầu hàng---bạn còn nhớ lời anh em chúng tôi giao ước với nhau trước khi lên tàu không? 

Dọc đường chúng tôi thấy xác một ca nô lớn bị bắn chìm trên sông, người ta đồn nó chở một ông nhà văn, nhà báo nổi tiếng mà tôi quên tên. Những người điều khiển bảo chúng tôi đừng đứng lên sợ VC thấy bắn vào tàu. Chừng tới tối, chúng tôi ra tới biển, họ bảo biển gần Vũng Tàu, tôi nhìn vào bờ, thấy đèn của hàng đoàn xe mà tôi đoán là xe vận tải của VC. Nhìn nó nhiều người sợ, họ nâng đỡ nhau với câu, “Chỉ chừng vài tiếng nữa thôi mình ra tới vùng biển quốc tế là không sợ tụi nó nữa.” 

Có thể vì nhiều người nhảy sang tàu tôi nên nó trở thành qúa chật chội, tối đó tôi kiếm mãi mới thấy một chỗ ngủ ngồi trên cầu thang, và tôi hoảng sợ thức giấc trong giấc mơ bị VC bắt lại. 

Trời vẫn còn tối khi tôi bị đánh thức bởi nhiều tiếng ồn, mở mắt ra mới biết đã tới gần một tàu của hạm đội thứ 7. 

o0o 

Đây là lần đầu tiên tôi được tiếp đón như một công dân Mỹ tương lai: chỉ là những con sóng dập dềnh, tiếng loa xua đuổi và cả những tràng đạn.

Người ta kể Mỹ không cho lên tàu vì họ đã đón qúa nhiều người rồi và trong đêm không thể kiểm soát được. Hình như có nhiều tàu khác lớn nhỏ bao vây và xin họ cho lên cũng không được. Khi tàu chúng tôi giả bộ bị chết máy thả tàu tới gần thì bị cảnh cáo bằng loa và một tràng đạn át tiếng sóng biển khiến chúng tôi phải lùi lại chờ sáng. 

Lúc đó tôi mới thấy rõ ràng quả thật có nhiều tàu lớn nhỏ xung quanh, trong đó có một xà lan với nhiều bao cát chống đạn chất cao ngang ngực, trên đó có vài người nằm không biết chết hay sống. Chiếc xà lan có vị linh mục chỉ huy và họ là những người đầu tiên được vớt. Tàu Mỹ không chịu vớt chúng tôi và nhiều tàu, ghe khác. 

Không làm gì hơn được chúng tôi phải nghe lời khuyên đi tiếp tới Singapore sẽ được tiếp tế lương thực, nhiên liệu và tin tức. Nhân viên trợ giúp người tị nạn ở Singapore vừa đe dọa vừa khuyên bảo để phân chia đồng đều, hợp lý số người tị nạn trên các tàu, và cung cấp thêm thức ăn, nước uống, nhờ đó mà chúng tôi được ăn uống đủ no và có chỗ nằm thoải mái. Họ cũng san sẻ tài công kinh nghiệm để điều khiển những con tàu khốn khổ tới Guam, điều đó rất cần thiết cho chuyến đi xa vì tàu của chúng tôi đã được điều khiển bởi những tài công nghiệp dư.

Trong thời gian qua Guam, tôi thưởng thức cái cảm giác sống lại, dấu nỗi buồn vì thất lạc người nhà, tạm ngưng những lo âu trong lòng. Mọi người trên tàu vừa chắc chắn đã qua nguy hiểm, không còn sợ chết đói, chết khát,..., chúng tôi dễ dàng bỏ qua những điều khiếm khuyết hàng ngày như những tấm giấy vệ sinh bay lạc vào bữa ăn, “Ê, ê, đừng đi cầu lúc người ta ăn uống chớ, nhịn một chút đâu có chết.” Những câu nói đại loại như vậy mà lại gây ra nhiều tràng cười lây lan trong gió biển.

Chúng tôi thường chỉ nói với nhau về những ước vọng về tương lai, tưởng tượng ra những gì mình sẽ làm để sinh sống trong một xã hội mới hoàn toàn xa lạ---từ thức ăn đến tiếng nói. Có một lần bạn anh tôi bảo chắc chúng tôi sẽ xin được những việc liên quan đến vệ sinh như đổ rác chẳng hạn, “...những công việc dơ dáy đó chắc người Mỹ không ai muốn làm, chỉ cần mình cố gắng không ngại dơ bẩn là dư sức kiếm sống…”.

Những Bước Chân Đầu Tiên 

Cuối cùng Guam cũng hiện ra, chúng tôi đi hàng một, trước khi vào trại mỗi người được phun lên khắp người một thứ bột trắng để khử vi trùng. Mặc dù phần lớn hiểu sự cần thiết nhưng vẫn có nhiều lời than phiền rằng người Mỹ đã kỳ thị, coi chúng ta như những kẻ dơ bẩn,... Tôi không nhớ rõ nhưng hình như chúng tôi được bố trí ở trên lầu một căn trại lính. Đời sống mới từ từ thành hình, suy tư và lo âu bắt đầu quay trở lại. Dư bệnh đứt mạch máu của mẹ tôi quay trở lại, và bà được bệnh viện trong trại tị nạn điều trị, tạm thời không phải lo ngại nhiều. Tôi rất cám ơn lòng can đảm của mẹ đã không tỏ lộ sự đau đớn vì thất lạc chồng, con và cháu mà làm cho chúng tôi phải trầm cảm hơn. Bệnh viện lính ở đây cũng đã mổ cho tôi một mụn nhọt lớn ở cườm tay trái. Tôi không hài lòng mấy khi biết rằng họ nhét một miếng gạc nhỏ phía trong rồi băng lại phía ngoài. Tôi nghĩ họ phải săn sóc nó đàng hoàng hơn chứ không phải nhét một miếng gạc sau khi mổ. Tôi luôn nghĩ mình phải được tôn trọng hơn, may mắn hơn dù tận thâm tâm tôi biết tôi đã rất may mắn.

Chỉ trong vài ngày ở đây ngủ giường có nệm, ăn cơm gà nướng, thịt cá, uống sữa,..., là tôi quên cái mừng rỡ chạy thoát VC, ngủ ngồi, thiếu ăn trên chiếc tàu đầu tiên. 

Chúng tôi không được phép ra khỏi trại lính. Mỗi lần bước tới hàng rào ngăn cách, tôi mong muốn được ra ngoài, dù là ra một thành phố nhỏ xíu, dù là không biết mình sẽ làm gì ở đó. Tôi mong muốn mau được thoát ra khỏi tình trạng tạm bợ này càng sớm càng tốt, nhưng đã chẳng giúp được gì, mọi chuyện đã có anh tôi lo. Khi người ta đặt càng nhiều trách nhiệm lên vai người đàn ông thì càng làm họ trở lên mạnh mẽ hơn, nhưng chúng có thể làm gãy vai nhiều thanh niên.

Chúng tôi được phát thêm quần áo, những món đồ cũ được bày ra trên đất cho chúng tôi tha hồ lựa chọn mỗi người vài cái. Phần lớn là mặc không vừa, nhưng với sự sáng tạo của người tị nạn chúng lại thành một thứ giúp chúng tôi có việc làm. Buổi tối khi lên đèn, chúng tôi mang số quần áo không vừa đó ra con đường chính, trao đổi, hay bán lại. 

Hai bên con đường dưới ánh đèn, vài chục người ngồi dọc hai bên bày bán, không những quần áo mà còn những thứ họ mang theo nay không cần nữa. Có lẽ thực sự bán mua chỉ là cái cớ, chợ đêm diễn ra khá lặng lẽ, nhưng cũng đủ làm chúng tôi tìm lại chút bình thường trong cuộc sống. Chúng tôi không có tiền để mua gì cả, nhưng bán được ít tiền, tôi được vài chục xu, và anh tôi cho thêm một ít nữa. Tổng cộng tôi có 35 xu, đủ mua một gói thuốc trong cái máy kéo, nhưng sau khi bỏ đủ tiền vào, tôi kéo không được gói nào. Tôi cứ đứng tần ngần tiếc nuối trước máy kéo mãi đến khi người đứng sau hỏi và giải thích là máy không nhận tiền 1 xu. Đó là tất cả số tiền tôi có, ngày hôm sau tôi mon men lại những anh có vẻ khá giả xin thuốc.

Mỗi ngày chúng tôi ra lắng nghe loa phóng thanh, đọc thông báo dán trên một cái bảng, và tìm hỏi những người có vẻ quen biết về những người còn lại. Mỗi khi nghe tin có người tị nạn mới chúng tôi ùa ra xem, hỏi thăm ơi ới, trông đợi, trông đợi... cho đến khi người cuối cùng đã vào từ lâu. 

Trong trại có một số người tới hơi lâu mở tiệm hớt tóc, vừa có tí tiền, vừa bớt lo mà lại biết thêm nhiều tin tức. Hầu hết chúng tôi hỏi han nhau về cách ra khỏi trại sớm, về cách kiếm việc làm,...; những người có thân nhân đã ra khỏi trại, hay ở Mỹ đã lâu được đặt biệt săn đón. Phần lớn nhìn về tương lai phía trước ở nước Mỹ, nhưng không phải ai cũng vậy. 

Sau một thời gian ngắn ở đây có nhiều người muốn về VN. Họ làm áp lực, phao tin đồn Mỹ đã dụ dỗ, thậm chí bắt cóc con nít làm con tin để buộc cha mẹ phải đi theo làm nô lệ,..., đủ mọi loại tin. Cuối cùng những người đó tổ chức biểu tình đòi quyền được về, và Mỹ phải nhượng bộ cấp cho họ một trong những con tàu đã đưa họ đến để trở về.

Không biết tiếng Anh cũng là một trở ngại gây ra nhiều chuyện buồn cười. Một lần có một bà đứng trước tôi ngao ngán nhìn miếng gà chiên được người lính Mỹ gắp vào điã, bà ta lấy tay chỉ vào khay gà, người lính lại gắp thêm cho bà một miếng lớn nữa. Bà ta lại lấy tay chỉ và lần này nói bằng tiếng Việt, “Trời ơi ngày nào cũng gà chiên, ăn ngán tới cổ, cho tôi cái đùi nhỏ thôi ông ơi.” Người lính lại gắp thêm cho bà miếng gà nữa, bây giờ đĩa của bà không còn chỗ, anh ta vẫy tay cho bà đi tiếp, miệng nói, “next”. 

Tôi cũng muốn giúp bà và người lính hiểu nhau, nhưng tiếng Anh của tôi chắc cũng không hơn bà ta bao nhiêu, thêm vào đó tôi thấy mình khá dửng dưng với nhiều thứ đang xảy ra. 

Hình như cũng có người giống tôi, tôi thấy họ thản nhiên đổ từng đĩa thức ăn còn nhiều vào thùng rác. Tôi chưa đến mức đó, nhưng phản ứng mỗi người dưới mỗi hoàn cảnh rất khác nhau, anh tôi xung phong làm việc, tìm tòi thêm tin tức, dò hỏi mọi cách để đưa gia đinh tôi sớm được vào nước Mỹ.

Nhờ anh mà chúng tôi mau chóng được chuyển tới Camp Pendleton ở San Diego vì tình trạng gia cảnh. Rồi chúng tôi cũng không ở đó lâu, gia đình anh được bảo trợ trước và anh kiếm cho chúng tôi một gia đình bảo trợ khác trong vài tuần. Có nhiều người phải ở lại Guam và Camp Pendleton nhiều tháng mới có người bảo trợ.

Tôi đã rất háo hức khi được chuyển tới camp Pendleton, nhưng thực ra thời gian ở đó còn tệ hại hơn ở Guam. Thay vì được ở trong nhà, nằm giường, khí hậu ấm áp giống VN như ở Guam, khi đến camp Pendleton, chúng tôi ở trong một cái lều lớn chứa được mấy gia đình, mỗi người một cái ghế bố nhà binh, cứng, chật và không cản được khí lạnh vào đêm. Họ phát cho chúng tôi thêm mỗi người một cái áo lạnh lính rộng thùng thình và hai cái mền, nhưng vẫn không đủ ấm, tôi phải khó khăn lắm mới có thể ngủ. Tôi lo cho mẹ, nhưng chưa hề nghe bà than phiền lần nào. Mỗi lần nhìn từng hàng lều khổng lồ dựng lên trên đất cỏ, tôi thấy ngao ngán. 

Những ước mơ và lòng tin vào một tương lai tươi sáng làm công nhân vệ sinh ở Mỹ từ từ tàn lụi trong tôi theo từng ngày tôi ở trong camp này. Có phải nước Mỹ chỉ nhỏ bé như Guam và camp Pendleton, tôi tự hỏi?

VuongVu

No comments:

Blog Archive