Wednesday, May 22, 2019

Nỗi Nhớ Tháng Năm


Trần Ngọc Ánh


Ở tiểu bang có cư dân Việt Nam đông nhất nhì nước Mỹ này thì gọi phố Bolsa là thủ đô của người ty nạn Cộng Sản cũng phải thôi, nơi đây còn là trung tâm của Văn hóa, nghệ thuật, là khu vui chơi giải trí, chợ búa sầm uất buôn bán nhiều mặt hàng phong phú đa dạng như bên nhà,  cả phần ẩm thực hợp khẩu vị Việt Nam cũng không thiếu món gì ở đây. 

Bởi vậy nên mới có những ông bà cụ sống ở đây mấy chục năm mà không cần biết tiếng Mỹ, vì mọi giao tiếp đều gặp người Việt phục vụ tận tình, từ taxi đến bác sĩ, từ trong tiệm cà phê đến ngoài chợ trời, từ tờ báo tin tức hàng ngày đến chương trình ca nhạc trên TV, đâu đâu cũng là tiếng Việt lời Việt nên đôi khi quên hẳn mình đang ăn nhờ ở đậu bên Mỹ, cách quê nhà xa lắc xa lơ.

Có lẽ vì nhà xa, vì tuổi cao sức yếu nên chúng tôi cũng ít lái xe xuống núi đến vùng Bolsa , nơi có nhiều đồng hương của mình sinh sống để tham dự những sinh hoạt cộng đồng ở đó. Bạn bè của anh thì nhiều, hầu hết là anh em quen biết từ bên quê nhà trước ngày mất nước, ai cũng ngót nghét “bảy- tám bó” tuổi đời và hơn bốn mươi năm tuổi trọ trên đất nước tạm dung này nên thỉnh thoảng được dịp gặp nhau là chúng tôi mừng lắm. Bạn bè của tôi thì đa phần gắn bó từ thời đi học nên trẻ hơn chút xíu, qua đây ở rải rác khắp nơi, lâu lâu tổ chức họp mặt đông vui hết biết,  cho mấy ông bà tám có cơ hội mà tha hồ í ới. 

Không nơi nào có nhiều các tổ chức cộng đồng như ở vùng Thủ Đô tị nạn này, hội đồng hương trên bốn vùng chiến thuật, gần như tỉnh nào cũng có tên, rồi cựu giáo chức, cựu sinh viên học sinh từ Bưởi Chu văn An, Quốc Học Huế đến Gia Long Trưng Vương, Petrus Ký, Văn Khoa Sàigòn ..

Còn các cựu quân nhân thì từng binh chủng đều có những hội nhóm để kết nối với nhau. Thường thì vào dịp lễ Tết cuối năm hay những kỹ niệm đặc biệt, các con đường chánh của khu Bolsa rợp bóng cờ vàng bay phất phới bên cạnh cờ Mỹ, có hiểu biết về những khó khăn của cộng đồng Việt đầu tiên khi dựng được cột cờ trên vùng đất Bolsa để hình thành khu thị tứ sầm uất ngày nay, mới thấy tinh thần quyết chí dũng cảm của các anh quân nhân 30 năm trước đã xin với chính quyền sở tại, để ngày 18 tháng 3/1989 lá cờ Việt Nam Cộng Hòa được chính thức kéo lên tại đây, lá cờ là biểu tượng của Tự Do, của hồn thiêng sông núi Việt Nam, lá cờ khẳng định một tinh thần quốc gia, một sắc dân ty nạn Cộng Sản đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ.

Lá cờ đã làm tôi bật khóc khi ngày đầu tiên đến Mỹ nhìn thấy nó được tung bay trước cổng chùa ở một thành phố nhỏ hẻo lánh bên Texas xa xôi, tôi xúc động như thể mình tìm được cái gì đó quý giá, thiêng liêng lắm đã thất lạc từ lâu. Lá cờ là tuổi trẻ của tôi suốt những năm tháng hồn nhiên, hình ảnh lá cờ bay phất phới trong sân trường lộng gió mỗi sáng thứ hai đầu tuần mấy mươi năm trước cứ khiến tôi nhớ hoài, bây giờ cũng vậy, mỗi lần tham dự một buổi họp hội đoàn nào đó, cứ chào cờ là tôi thấy lòng mình rưng rưng và khi nhạc cho phút mặc niệm trổi lên là tôi ứa nước mắt, không biết tủi thân cái gì, thương cho mình hay thương cho quê hương bỏ lại .Có lẽ cả hai.  

Các ông bạn của nhà tôi thì đủ thành phần quân dân cán chính, hồi nào bên nhà còn trẻ trung, bay bướm. Sau biến cố 75 tan nát đời trai, không bầm dập vì tù tội thì cũng xơ xác làm thuyền nhân. Bây giờ khi tạm an cư lạc nghiệp ở xứ người , thì mới thấy tóc mình bạc trắng, chân cẳng mỏi nhừ, bạn bè trang lứa bây giờ cũng xấp xỉ trên dưới 80 hết rồi, hỏi sao không buồn đủ kiểu. Mà người già thì hay nhớ về quá khứ , hay nhắc chuyện năm nẳm năm nao, nên khi có dịp gặp nhau,  hẹn ngồi quán cà phê quen thuộc nào đó, các ông cứ xúm xít mày tao mi tớ bàn chuyện thời sự, tin tức thế giới hay chuyện chính trị ở bên nhà,  nhắc chuyện lính tráng hồi xưa, chuyện bạn bè ai còn ai mất, ai nằm viện dưỡng lão, ai mới li dị vợ, ai mới về Việt Nam rước con ghệ nhí qua .Ôi thôi đủ thứ chuyện để nói trong khói thuốc mờ ảo và ồn ào,lâu lâu có chêm tiếng Mỹ tiếng Đức nghe sao giống y chang một góc Sài gòn, 

Thật ra không phải nhóm nào cũng sôi nổi như vậy, có vài ông sống khép kín hơn trong nổi buồn riêng, ít lang thang ngoài đường, bạn bè chí cốt ghé nhà chơi thì uống vài chai bia, khề khà chuyện cũ , rồi khoe mới in cuốn sách hay làm xong tập thơ, loay hoay ký tặng bạn. Bên này ngoại trừ những cây cổ thụ có tên tuổi trên văn đàn từ trước ngày di tản thì các văn nghệ sĩ coi viết lách văn chương như một nhu cầu không thể thiếu, còn những cây bút sau này tại hải ngoại lại xuất phát từ nổi buồn xa xứ, các tác phẩm hầu hết đều xoay quanh chủ đề ghi lại những giai đoạn khốn khổ, tù đày, vượt biển, sự chia ly, mất mát, bước đầu gian nan lập nghiệp trên quê người, nỗi niềm nhớ nhung cách trở..

Nói chung là chuyện buồn thời di tản được các nhà văn viết lại dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Thỉnh thoảng có thể loại biên khảo giá trị cho những chuyên đề như văn học hay triết lý tôn giáo. 

Thật ra tôi chỉ là loại ếch ngồi đáy giếng, nghe ké những câu chuyện của các lão bối khi trà dư tửu hậu, hay đọc ngấu nghiến mớ sách vở có được trong nhà rồi đưa ra nhận xét như vậy, nhưng có một sự thật là viết văn làm báo bên này chỉ để cho dzui thôi chứ không gọi là kinh doanh để sanh lời, viết một cuốn sách cả tháng trời, có khi thai nghén tác phẩm còn lâu hơn thai nghén baby, bỏ tiền túi đem in ra, chi phí tổ chức ra mắt sách, bán được phân nữa số lượng là hú hồn đủ vốn, còn gởi nhà sách bán thì giá bìa chỉ còn 50%, mà lâu lắm mới hết, chủ yếu là có sách để dành tặng bạn bè gần xa cho vui tình thân hữu. Các tờ báo phát hành hàng ngày hay hàng tuần ở địa phương chắc cũng sống nhờ vào quảng cáo mới tồn tại lâu dài. 

Nhưng dù lời lỗ thế nào thì phải thừa nhận rằng sách vở báo chí ở hải ngoại là vô cùng phong phú, nó tạo ra bộ mặt giá trị của cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới, các tác phẩm từ thơ ca đến văn học đều được viết bằng máu và nước mắt trong đớn đau lao tù hay những gian khổ chết sống trên biển cả trong hành trình tìm Tự Do của những người Việt không chấp nhận sống với Cộng Sản tàn độc bất nhân, chính xã hội đã đẩy người dân đến bước đường cùng để họ phải tìm mọi cách đào thoát ra khỏi nơi ruột rà máu thịt của họ Mỗi dòng chữ phản kháng chính là bản cáo trạng dành cho ngày tàn của chế độ độc tài, mà các tác giả là những nhân chứng sống sót sau cuộc tàn sát dã man của Cộng Sản kể từ sau 1975. 

Phải thành thật mà nói những cây bút hải ngoại sau này hầu hết đều không phải là dân cầm bút chuyên nghiệp như các bậc đàn anh danh tiếng trên văn đàn từ trước, nhưng sức viết của họ rất mạnh mẽ, ngòi bút thể hiện sự khát khao về một Tự Do, nhân quyền cho quê hương VN, họ viết như một nhu cầu cần được giải tỏa, tâm trạng của kẻ ly hương bao giờ cũng thiết tha cháy bỏng khi nghĩ đến quê nhà, tác phẩm xuất phát từ trái tim , từ nỗi lòng chân thật của tác giả chứ không phải viết theo đơn đặt hàng hay chịu áp lực của bất cứ phe nhóm chính trị nào. Cốt lõi giá trị của dòng văn học hải ngoại là ở chỗ này. Tôi đã nghĩ như vậy.

Có dịp tham dự một buổi ra mắt sách ý nghĩa hay nghe một chương trình ca nhạc có chủ đề, Tôi ra về mà lòng cứ nao nao, hình như tác giả, tác phẩm đó đã nói thay cho mình biết bao điều mà mình chưa kịp nói. 

Tháng 5 trời Bolsa nắng vàng rực, nhìn lá cờ Việt Nam tung bay thong dong trong gió mà nhớ về tháng 5 của quê nhà mấy mươi năm trước với biết bao biến động tang thương xảy ra cho người dân miền Nam thì không thể nào nguôi ngoai được, nếu nói như người Mỹ “ I forgive but I can’t yet forget” thì đối với cộng đồng người Việt tại hải ngoại này sự phẩn uất căm hờn trước bao đau đớn mất mát trong những ngày đen tối của lịch sử sẽ mãi mãi không bao giờ quên. Tha thứ ư? Thong thả,  đợi đấy.

(Tháng 5/2019)
Trần Ngọc Ánh

No comments:

Blog Archive