Tuesday, November 4, 2008

TÔI LÀM TÔI BỎ ĐẠO

Phạm Nguyễn Định

Tôi sẽ khó trả lời cho đúng nếu có ai hỏi tôi theo đạo gì. Nhà nghèo theo cha mẹ tha phương cầu thực, tôi về sống tại một cái làng nhỏ nằm bên cạnh tỉnh lộ đi lên Tây Ninh. Nói tới Tây Ninh chắc không ai xa lạ gì với Toà thánh Cao Đài ở Long Hoa với cái chợ tươm tất khang trang nằm chính giữa những con đường đất bụi đỏ được làm nên theo hình bát quát đồ. Trong nhà tôi có bàn thờ Phật nhưng ba mẹ tôi lại thờ cúng theo tập tục đạo Cao Đài. Hai ông bà thường dắt tôi lên tỉnh thăm Tòa Thánh hàng năm khi tôi còn học ở tiểu học trường làng. Tôi đã sống và quen với mùi nhang khói đó.

Phía sau làng, đi ra khỏi cuối ấp chiến lược một khoảng xa là đến bờ sông Vàm Cỏ Đông. Ở đó, bên cạnh bến đò ngang với cái cầu nhỏ như cầu khỉ vậy thôi, thú thật tôi chưa thấy ai đi đò lần nào, là ngôi chùa nhỏ cũ rong rêu, xiêu vẹo nằm dấu mình đằng sau một cây đa lớn trên mô đất cao. Xung quanh chùa là mấy miếng đất khô năm nào cũng chỉ trồng bắp, chưa thấy lúa bao giờ. Lúc đó, năm tôi học lớp nhì lớp nhất, tình hình còn bình yên lắm. Sau giờ học bọn tôi tụ tập, đá banh trên miếng đất sát cạnh cửa sau chùa, cho đến khi mệt đừ thì chạy vào hậu liêu tìm ông sư già xin nước uống. Trong chùa, tôi không thấy ai khác hơn là ông sư già ốm người nhưng trông còn khỏe, ngày nào cũng thấy ông mặc bộ đồ màu vàng như bông vạn thọ tàn với vài chỗ vá qua vá lại. Những ngày lập đông, sáng sớm trên đường đến trường trong màn sương lờ mờ, tôi thường nghĩ tới ông, không biết giờ ông có lạnh. Tôi thích nhất là được ngồi với ông trong chánh điện, trước tượng Phật lớn, nghe ông hỏi chuyện học hành, chuyện ba mẹ anh em. Tôi thích cái xâu chuỗi đen bóng như hột trái nhản mà ông lần từng hạt trong tay. Tôi nhìn nó say mê không biết chán.

Ông thường bảo tôi nghe lời cha mẹ và chấp tay xá xin đức Phật ban phước lành cho con học hành ngoan giỏi. Ông hiền lắm. Tôi không biết tên mà chỉ gọi ông bằng "ông Sư Sáu" như dân làng thường gọi. Ba mẹ thấy tôi thường đi chơi dưới Chùa chớ không tụ năm tụ ba đánh đáo, đánh bài như đám con nhà giàu đầu chợ nên mừng ra mặt. Đi đâu ông cũng đi bộ, trừ khi phải đón xe lam về chợ quận nhưng ít khi thấy lắm. Ông cũng có tài hốt thuốc nam cho nên trong làng trong ấp, ai đau yếu bệnh họan hơi hơi gì đó đều gọi ông, ông đến ngay dù ban đêm ban hôm. Một năm chùa có ngày vui nhất là ngày cúng rằm tháng bảy vì hôm đó dân làng mang bánh trái xôi chè xuống chùa cúng vái. Chuông chùa cũng đổ nhiều lần hơn ngày thường. Tôi không biết ông có ăn hết những thứ đó hay không nhưng hai ba ngày sau tôi vẫn còn được ông cho mấy cái bánh bò đỏ rực. Tôi không biết đức Phật ra sao, nhưng qua hình ảnh ông sư sáu, trong trí óc non nớt của mình lúc bấy giờ tôi tin rằng đức Phật hiền và tốt lắm. Giặc giã nổi lên dần từ ngày tôi thi đậu vào đệ thất trường tỉnh. Súng bắt đầu nổ và có lần nhà trong làng bị cháy. Ba mẹ tôi bảo những người phía bên kia, thường về tấn công làng vào ban đêm là quân du kích Việt cộng. Tôi chẳng biết người bên kia là ai, họ làm gì nhưng tôi thương mấy chú bác nghĩa quân, đêm nào cũng mang súng đi canh giữ đường này ngỏ kia thấy tội nghiệp. Từ ngày lên tỉnh học, mỗi lần về thăm nhà cuối tuần là lần nào cũng xuống chùa thăm ông sư sáu cho được.

Thường thì vào buổi trưa thay vì chiều tối như trước vì chùa ở ngoài ấp chiến lược, mà ngoài này thì không còn mấy an ninh như xưa. Ông sư sáu giờ cũng vậy, cũng ốm yếu, cũng bộ đồ màu vàng phai, cũng chén cơm nước tuơng rau muống luột. Tôi kể cho ông nghe chuyện học chuyện trường, chuyện bạn bè chuyện phố chợ ngựa xe. Ông vò đầu tôi khuyên ráng học. Mấy trái bắp khô treo trên sàn ngang hậu liêu hình như cũng còn đủ như trước kia. Như vậy chắc là ông ăn ít lắm. Rồi ngày tháng đi qua, nước sông mỗi ngày cứ hai lần nước ròng nước lớn, tôi mang cái hình ảnh ông sư sáu hiền như ông Phật đó theo mình khi sống đời ở trọ trên chợ tỉnh. Tôi theo thằng bạn thân vào gia đình Phật tử của ngôi chùa lớn trên đường Trần Hưng Đạo. Mỗi chiều sinh hoạt, nhìn ngôi chùa lớn, điện đuốc sáng choang, nền gạch bóng láng bao nhiêu tôi lại nhớ và thương ông sư sáu già quê mình bấy nhiêu. Gần giữa năm đệ thất, trước ngày nghỉ tết mấy hôm, về lại nhà, ba mẹ nói cho biết là ông sư sáu đã chết. Tôi sững sờ chết trân khóc ngất. Ba mẹ dẩn tôi xuống chùa. Cái chùa nhỏ đã sụp xuống gần hết cho tới phía hậu liêu nơi ông nằm ngủ. Cây đa ngó ra sông cũng ngã rụi một phần. Tôi theo ba mẹ đến thắp nhang trước mộ ông, cái mộ còn thơm mùi đất mới. Theo lời ba mẹ tôi, đêm đó, quân du kích việt cộng từ phía bên kia mật khu Bời Lời vượt sông sang tấn công trụ sở xã rồi đốt chợ làng. Họ bắt vài anh chị lớn đi theo. Lính nghĩa quân và điạ phương quân trong đồn lớn phản công, đánh bật ra khỏi chợ và đuổi theo họ xuống tận chùa. Quân Việt cộng đã bắn mọt-chê và súng máy tới tấp lên chùa trước khi rút qua sông. Chùa sập và lửa cháy lớn quá, mấy người lính cùng dân làng xung quanh dập tắt được thì không còn kịp cứu ông nữa rồi. Cả làng phụ nhau an táng ông ngay hôm sau.

Làng đã không còn tiếng chuông chùa kể từ ngày đó và cũng từ đó, từ ngày ông sư sáu hiền như Phật mất đi, tôi bắt đầu thù ghét những người phía bên kia, những người mà dân làng gọi là du kích Việt cộng cho đến bây giờ. Đất nước tôi ngổn ngang trăm mối, chiến cuộc tràn lan khắp làng khắp xã. Tôi may mắn đứng bên lề vận nước trong khi bạn bè đã nhập cuộc vào lính chiến đấu quyết bảo vệ cho được quê hương miền Nam. Có nhiều người đã nằm xuống khi tuổi đời chưa quá tuổi hai mươi. Trong những năm tháng này, thử đếm lại đầu ngón tay, có biết bao nhiêu chuyện xảy ra từ phía những người tu hành theo đạo Phật. Phật giáo xuống đường, biến động miền Trung, tự thiêu vì đạo pháp, Phật giáo phía Aán Quang gậy gộc gây hấn phía Phật giáo Viện hoá đạo…... Tên tuổi Thích Quảng Đức, Thích Trí Quang, Thích Tâm Châu, Ni Sư Huỳnh Liên, Hoà thượng Tinh Khiết, Hòa thượng Trí Độ, Thích Nhất Hạnh và còn còn nhiều nữa nổi như cồn, báo chí đăng hình ngày một, kể cả báo chí tây phương. Trong lúc tình hình miền Nam rối bời trăm mối, chánh quyền lo chống đở mọi bề, từ thù trong giặc ngoài thì những người này, những vị cao tăng cao thế chẳng những không ra tay tế độ, cứu giúp chúng sinh, bằng cách phụ đở chống giữ quê hương, mà còn cùng nhau tranh lợi tranh quyền xé tan miền Nam ra trăm mảnh. Cái hình ảnh ông sư sáu hiền như Phật mà tôi mang theo đời mình làm tôi chán ngấy và bất bình ra mặt, nhưng chưa đến nổi thù ghét như tôi đã thù quân Việt cộng của xã. Miền Nam tự do thân yêu của tôi mất vào tay cộng sản bắc quân năm 1975. Tôi cùng gia đình bồng bế nhau vượt biển.

Tôi vẫn mang hình ảnh ông sư sáu theo mình từ ngày bỏ nước ra đi và tôi vẫn coi mình là người theo đạo Phật. Giờ thì chắc không còn ai lạ gì chuyện xấu xa, chuyện nhơ bẩn của những ông thầy, ông thượng tọa này ông đại đức kia ở nước ngoài từ Mỹ châu, Âu châu đến Úc châu đăng hàng ngày trên báo chí của người Việt hải ngoại. Tên mấy ông này ai nấy đọc riết rồi cũng nhớ rành rành. Hành động, mưu đồ tiếp tay kẻ thù cộng sản chiếm đoạt quê hương không phải vì Phật dạy mà chỉ vì cái "mộng bá đồ vương thiếu lâm trường hận" của mấy ông cao tăng đã được phơi bày ra đó. Trí Quang đã làm gì, Nhất Hạnh đã ra sao, người Việt không cần tìm bằng chứng đâu cho xa xôi. Hồi ký bút ký đủ loại từ thượng vàng tới hạ cám đều có cùng chung kết luận về họ. Đọc "Giặc Thầy Chùa" của Đặng Văn Nhâm sẽ ớn người rợn tóc gáy kêu trời, hởi ơi đức Phật của tôi đâu có làm gì nên tội. Dù không dám quả quyết những gì Đặng Văn Nhâm viết đúng một trăm phần trăm, nhưng nếu nói theo xác xuất sai biệt khách quan thì theo tôi, theo những gì có thật ban ngày ban mặt như người ta biết, ít ra những điều này có thể có mươi phần trăm là sự thật. Chưa có bài viết nào phản đối kiểu "ăn nói hàm hồ, ngậm máu phun người" của ông Đặng từ những cao tăng có tên trong sách, tôi hy vọng rằng vì quý vị này vì là những chân tu đã đạt thành chánh quả cho nên chấp tay phán đọc hai chữ thiện tai thiện tai. Nói về tà dâm, một trong những giới cấm thì cũng đã có bao nhiêu vị cao tăng đã trở thành dâm tăng. Còn tham lam thì cứ hỏi thật lòng mình đi, hình như ông thầy nào cũng chạy đôn chạy đáo xây chùa dựng miếu lớn hơn chùa khác, có Phật tử nhiều thì chùa có nhiều tiền hơn. Không biết quý vị cao tăng này cần tiền để làm gì.

Nếu kể cho trọn thì không biết bút mục nào viết cho hết. Hình ảnh một ông thượng tọa vào tiệm cho thuê mướn băng video hỏi phim tình dục chút chút, một ông đại đức chủ chùa chăm chú lo chuyện tiền vô tiền ra, một bà sư cô lái xe hơi chạy gom hụi đầu trên xóm dưới, một ông khác ăn lén thịt gà sau hậu liêu và nhiều cái khác nữa so với hình ảnh ông sư sáu nghèo khó bữa đói bữa no mà tôi mang theo trên đường tha phương, đã làm tôi không còn mấy tin vào đạo pháp nữa. Tôi khinh dễ, tôi khi rẻ bọn này, bọn đội lốt thầy tu lấy đời làm đạo. Bên cạnh đó, tôi cũng khinh khi bọn cận thần bao quanh, thất học hay trí thức, bảo dạ gọi vâng để kiếm chút bổng lộc, rồi kéo bè kéo lũ chúc cung tận tụy phá nát đạo hạnh. Đối với tôi, thầy tu nào, thứ cấp nào trước đây đã tiếp tay, góp sức, nối giáo cho giặc Cộng chiếm miền Nam dù trực tiếp hay gián tiếp, tôi đều coi họ là kẻ thù.

Là kẻ thù cho nên tôi không cần phải kính trọng dù có mặc bao nhiêu lớp cà sa vàng nâu thẳng nếp. Tu hành, là sư làm sao không biết rõ cái gì là "xân xi hỉ nộ ái ố". Thế mà bọn cao tăng này xân xi hỉ nộ ái ố gấp trăm lần người phàm phu tục tử. Ông nào cũng có hai chữ ham muốn to tướng trong đầu. Là đại đức thì muốn thành Thượng tọa, là thượng tọa thì muốn thành Hòa thượng rồi phải là chủ tịch này chủ tịch kia. Không có chùa thì muốn chùa, có một thì muốn có hai ba, không có tiền thì muốn tiền..Ít không đủ phải họp hành để tìm ra cách kiếm thêm. Tôi chán ngấy khi đứng trước mặt họ, nếu tôi căm hận kẻ thù bao nhiêu thì tôi khinh rẻ bọn này bấy nhiêu.

Từ đó, tự thấy mình không còn đủ niềm tin với đạo pháp và tự thấy mình không thể nào gọi kẻ bị mình khinh bỉ là thầy được nữa, cho nên sau lần giỗ cuối cùng của ông sư sáu với chén cơm trắng và mấy miếng chao, trong cái mờ mờ của khói nhang, tôi cầu xin đức Phật từ bi tha thứ cho tôi được làm tôi bỏ đạo.

No comments:

Blog Archive