Tuesday, March 11, 2025

Lăng Minh Mạng Huế

March 7th, 2025

Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu Lăng, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 15 km. Nhìn trên bản đồ, lăng nằm gần ngã ba Bằng Lăng, nơi hai con sông Hữu Trạch và Tả Trạch hợp dòng thành sông Hương.

Lăng Minh Mạng do vua Thiệu Trị cho xây dựng trên núi Cẩm Kê từ năm 1840 đến 1843. Trước đó, vua Minh Mạng phải mất đến 14 năm cân nhắc, chọn lựa việc tìm đất xây lăng mộ cho mình. Ông cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu lăng.

Tháng 4 năm 1840 lăng bắt đầu xây dựng, nhưng vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20-01-1841).

Vua Thiệu Trị nối ngôi, tiếp tục công trình với 10,000 lính và thợ theo đúng họa đồ của vua cha để lại.

Tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào an táng ở Bửu Thành, việc xây dựng lăng tiếp tục đến năm 1843.

Nhà bia

Vua Minh Mạng

Vua Minh Mạng hay Minh Mệnh (1791-1841), tên húy là Nguyễn Phúc Đảm, vị vua thứ hai của Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ông là con trai thứ tư của vua Gia Long. Ông trị vì từ ngày 14 tháng 2 năm 1820 đến khi qua đời.

Theo sử sách, Minh Mạng được đánh giá là vị vua anh minh tài giỏi nhất trong 13 vua triều Nguyễn. 21 năm trị vì, ông đưa đất nước thành hùng mạnh nhất Đông Nam Á. Ông xây dựng một quân đội vững mạnh, dẹp được các cuộc nổi dậy trong nước và chiếm những vùng đất xứ Chân Lạp và một phần Vạn Tượng. Ông cải tổ, bãi bỏ những chức vụ không cần thiết, phân chia địa lý cả nước thành 31 tỉnh, đổi tên nước Việt Nam thành Đại Nam… Ông đã cho xuất bản cuốn Đại Nam Thống Nhất toàn đồ năm 1838. Bản đồ Việt Nam khi ấy thể hiện lãnh thổ có diện tích lớn hơn 1.7 lần hiện nay.

Theo thống kê từ sử sách và thế phả dòng họ Nguyễn, vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, trong số đó có 43 người vợ từng sinh nở; 142 người con gồm 78 hoàng tử, 64 hoàng nữ.

Cảnh quan lăng Minh Mạng

Lăng Minh Mạng

Tôi đến lăng Minh Mạng hai lần, cách nhau 10 năm. Lần thứ hai sau khi lăng được trùng tu năm 2023. Theo ý tôi, đây là lăng đẹp nhất trong số các lăng ở Huế xét theo quy mô, hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc, có ý nghĩa triết lý nhân sinh rất hay.

Qua cổng vào soát vé có tên gọi là Tả Hồng Môn là đến sân hình vuông rất rộng gọi là sân chầu hay Bái Đình. Đứng ở đây nhìn thấy Đại Hồng Môn là cổng chính cao 9 mét. Cổng này chỉ mở một lần duy nhất khi đưa quan tài vua Minh Mạng vào lăng. Hai bên có Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn

Trên sân chầu có hai hàng tượng. Tượng voi ngoài cùng đến ngựa, tượng quan võ (có cầm thanh kiếm), quan văn (cầm án bài). Tiếp đến có tượng hai con nghê bằng đồng.

Bước lên khoảng 15 bậc cấp cao đến Bi Đình, có tấm bia “Thánh đức thần công” bằng đá, vua Thiệu Trị viết về công đức của cha mình (1842). Gạch lát nền màu cam đen xen kẽ. Đứng ở Bi Đình nhìn thấy bức tường bao quanh khoanh vùng lăng tẩm, hồ nước, đồi thông, hoa cỏ rất đẹp…

Lối lên Bửu Thành

Tiếp đến là một khoảng sân rộng lớn có 4 cấp lên thoải dài làm thành các sân chầu có cao độ khác nhau.

Đặc biệt ở lăng Minh Mạng, khách đi lên cao rồi xuống thấp liên tục. Các công trình cao thấp theo kiểu kiến trúc xưa âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng, đặc biệt của lăng tẩm.

Lăng và tẩm nằm trên trục chính gọi là trục Thần Đạo dẫn từ Đại Hồng Môn đến Bửu Thành phía sau cùng.

Khu tẩm thờ nằm trong vòng tường thành kép kín hình vuông, trổ cửa 4 mặt. Cổng tam quan chính của khu tẩm là Hiển Đức Môn bằng gỗ, có cổ lâu.

Qua Hiển Đức Môn đến điện Sùng Ân, có nhà tả hữu hai bên (Hữu Tùng Viện và Tả Tùng Viện), nơi thờ những vị đại thần có công, chuẩn bị đồ lễ cúng bái …

Hiển Đức Môn

Điện Sùng Ân mang nét kiến trúc cung đình Huế, trên mái trang trí pháp lam kiểu “nhất thi nhất họa”, một bài thơ rồi đến một bức tranh, có hai con rồng chầu bình hồ lô thể hiện sự ấm no hạnh phúc

Trong điện Sùng Ân có bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu. Kết cấu nhà bằng gỗ, cột gỗ sơn son thếp vàng. Lưu trữ những di vật của triều Nguyễn… Hai cửa hai bên dẫn ra phía sau. Có hai công trình bổ trợ khác là nhà hai bên.

Đến Hoằng Trạch Môn, kiểu cửa vòm xây gạch, kết thúc phần tẩm để bước vào phần lăng. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện để bắt đầu một thế giới mới thư nhàn, siêu thoát và vô biên.

Hoằng Trạch Môn là nơi du khách thường dừng lại lâu nhất để ngắm toàn cảnh lăng vì rất đẹp, nhất là vào mùa hoa sứ.

Từ Hoằng Trạch Môn nhìn sang Minh Lâu

Từ đây nhìn xuống hồ Trừng Minh, có 3 cây cầu đá bắc qua. Chính giữa là cầu Trung Đạo nằm trên trục chính Thần Đạo, hai bên là cầu Tả Phù và Hữu Bật. Xung quanh là đồi thông, hoa lá, cỏ cây xen giữa những công trình kiến trúc làm nên một phong cảnh hữu tình, ngoạn mục.

Qua cầu Trung Đạo, bước lên các bậc cao đến Minh Lâu, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn, được coi là chỗ dừng chân cho nhà vua trước khi vào cõi vĩnh hằng

Tiếp đến là hồ Tân Nguyệt hình trăng non ôm lấy Bửu Thành. Hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Lối kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật, nhân tố tác thành vũ trụ.

Cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt và tiếp đến là 33 bậc tầng cấp dẫn lên nơi yên nghỉ của nhà vua gọi là Bửu Thành và Huyền Cung.
Cầu Thông Minh Chính Trực

Bửu Thành là một đồi thông nhân tạo, rừng thông xanh tạo cảnh quan khá yên ắng, vẻ u tịch. Cổng vào Bửu Thành chỉ được mở mỗi năm một lần vào ngày giỗ của nhà vua.

Bửu Thành có vòng tường thành hình tròn bảo vệ mộ phần nhà vua nằm giữa tâm đồi có tên là Khải Trạch Sơn. Huyền Cung là cung điện xây ngầm trong lòng đất, nơi đặt thi hài của nhà vua.

Sau khi vua Minh Mạng băng hà, quan tài của ông được đưa vào Huyền Cung qua đường hầm (Toại Đạo) và lấp lại vĩnh viễn, không ai biết vị trí chính xác ở đâu.

Chuyện kể rằng, thời các di tích chưa được quan tâm, giới trộm mộ đã từng đào kiếm mộ vua nhưng không thấy được đường đi, họ phải bỏ cuộc vì sợ sập bẫy.
Bửu Thành

Giở lại lịch sử, người ta cho rằng, nhà Nguyễn rất sợ việc đào trộm mộ vì lo ngại bị trả thù bởi con cháu nhà Tây Sơn. Do vậy các vua triều Nguyễn coi trọng việc giấu hài cốt, họ trả nhiều tiền cho người thiết kế đường hầm, sau khi xây xong người thiết kế bị giết để giấu mối, trừ tai họa về sau.

Dù đã đến lăng Minh Mạng hai lần nhưng có dịp tôi sẽ đến nữa vì cảnh quan quá đẹp, đầy chất nhạc và thơ, nghĩ về triết lý: chết không phải là hết mà bước sang một thế giới mới với nhiều điều tốt đẹp.

Về phong thủy, người ta cho rằng từ trên nhìn xuống, lăng Minh Mạng như dáng người nằm an nghỉ, đầu gối vào núi, chân duỗi ra hai con sông Tả Trạch và Hữu Trạch, hai nửa hồ Trừng Minh tạo thành hai cánh tay người đang nằm.

Lại cũng có người cho rằng, do việc xây dựng lăng Minh Mạng quá tốn kém sức người, của cải… nên đến vua Thiệu Trị, ông di chúc cho đời sau cần làm lăng đơn giản, không tốn kém nhiều, do đó về quy mô lăng Thiệu Trị không bằng.

Sân chầu lớn có cao độ khác nhau




No comments:

Blog Archive