Sunday, June 16, 2019

Chuyện Một Nhà Văn

Nguyên Nhung

Nguyễn là một nhà văn. Cứ tạm gọi như thế, khi ngoài giờ đi làm việc kiếm sống như mọi người, chàng còn có thú viết. Nguyễn có một số bài đăng rải rác trên các báo địa phương, có một số độc giả ái mộ, nên nghiễm nhiên được truy tặng là nhà văn, mặc dù chàng biết muốn đạt được danh hiệu ấy, chàng còn phải viết tướt khói ra, mới được ngồi vào cái chiếu văn chương đầy chữ nghĩa.

Thôi mặc kệ, gọi như thế cho vui, mặc nhiên chàng cũng miễn cưỡng nhận là mình đứng vào hàng văn nghệ sĩ, dù chưa in được cuốn sách nào. Bạn bè có nhiều người khuyến khích chàng ra mắt sách cho có một cái gì để nhớ, nhưng do tình cờ Nguyễn cũng được biết thêm nhiều cái bạc bẽo của người cầm bút. Giai đoạn phôi thai cho đứa con tinh thần đã lắm nhọc nhằn, khi in xong cuốn sách lắm tác giả tự nhiên như bừng tỉnh một cơn mơ, nhìn những thùng sách cao nghều nghệu như núi chất lên nhau, nỗi hứng khởi ban đầu đã pha trộn cảm giác chán chường. Chưa kể nỗi đoạn trường khi bị những con buôn sách thiếu lương tâm bóc lột, khiến người viết văn còn dọ dẫm trên hành trình văn hoá lắm lúc muốn bật ngửa ra dở khóc dở cười vì sách. Tuy vậy chàng cũng nôn nao hình dung một ngày nào đó, khi đứa con tinh thần của mình chào đời, với niềm vui của lòng chàng và sự chia xẻ nồng nhiệt của bạn bè, cũng như độc giả bốn phương.

Ngày xưa, lúc còn là sinh viên, Nguyễn cũng sáng tác khá nhiều truyện ngắn, ông thầy học cũng từng khuyến khích chàng bằng câu:"Dù chỉ có một người đọc và hiểu mình, thế cũng đủ khi ta có một người tri âm, tri kỷ”. Điều ấy đúng, nhưng không đúng với hoàn cảnh của chàng hiện tại, đồng lương thì eo hẹp, chỉ đủ lo cho gia đình mà nghĩ đến chuyện in sách, với vợ chàng đúng là chuyện "ruồi bu". Chàng cũng có nghĩ ngợi, bỏ mấy ngàn đồng bạc in một tuyển tập truyện ngắn, bạn bè khua chiêng đánh trống lên, may ra trong buổi ra mắt sách chàng tiêu thụ được một mớ, còn bao nhiêu vác về nhà nhìn nét mặt cau có của vợ, chàng lại chịu không nổi.

Thế là Nguyễn co vòi trước cái mộng làm nhà văn, để có chút tên tuổi với thiên hạ. Đối với chàng, viết lách là thú tiêu khiển tao nhã, giải tỏa những uẩn ức của lòng, chia xẻ cảm nhận về cuộc sống với những người xung quanh. Con người dù có thành công bao nhiêu, thế nhưng đến một tuổi nào đó cũng cảm thấy cần có một góc riêng sống thật với mình, không gì hay hơn là làm bạn với âm nhạc, văn chương, sách vở, có dăm người bạn đồng điệu để mà trao đổi, hạnh phúc nhất cho cái tuổi không còn trẻ trung và sức lực để tranh đua với đời nữa.

Sang Mỹ, trôi giạt vào khu chung cư đa số là người Việt Nam, Nguyễn cảm thấy dễ chịu như chàng đang sống trên mảnh đất quê hương. Khu chung cư nằm trên ngọn đồi thấp, một con dốc thoai thoải xuống dòng suối um tùm cây lá, ven bờ là con đường mòn có dấu chân người, Nguyễn biết đám trẻ con vẫn hay la cà đi hái những trái dâu dại.Thỉnh thoảng, trong những buổi sáng rảnh rỗi, Nguyễn thơ thẩn một mình dọc theo bờ suối. Mặt nước phẳng lặng nổi lềnh bềnh những chiếc lá khô, Nguyễn tưởng đấy là những chiếc thuyền con, đã chở hồn chàng ngược về dĩ vãng, nơi có dòng sông êm đềm chốn quê nhà.

Đúng là văn sĩ có khác, vợ chàng lắm lúc rất bực mình vì cái tật đãng trí và vớ vẩn của chồng. Chỉ cần đi dọc theo con suối ấy, Nguyễn cũng có vô khối cái nhìn về sự sống đang hiện diện quanh chàng. Lũ chim chóc chuyền cành hót véo von trên cành dâu chín màu tím thẫm, vài con bướm lượn lờ trên những bông hoa dại, một con cá nhảy lên đớp mồi trên mặt nước lao xao, tất cả như cùng chàng tận hưởng cái đẹp của thiên nhiên. Chàng thấy dễ chịu quá, cần gì phải đi đâu xa, cần gì phải tụ họp những chốn đông người, người ta cứ ao ước đi đến nơi này chốn nọ mới hưởng hết sinh thú của cuộc đời. Ở đây, ngay tại chốn này, khi lòng chàng thanh thản thì chàng đã được hưởng hết cái mỹ miều của trời đất, nó đâu hẹp hòi gì và nào của riêng ai, cứ để hồn thênh thang với tám phương, bốn hướng.

Khu chung cư chàng ở thuộc loại cũ kỹ lâu đời, người chủ Mỹ đã mừng rỡ khi đẩy được vào tay những người di dân Việt Nam, lại được một số tiền rất khá. Khi lọt vào tay những người chủ Việt Nam, bộ mặt của khu chung cư đổi sắc, từ vẻ hoang tàn của khu nhà dột nát, bỗng dậy lên sức sống dưới bàn tay khéo léo của những người Việt cần cù, chịu thương chịu khó.

Đằng trước và đằng sau mỗi nhà là một khoảng đất trống sát đường đi rộng chỉ độ một mét, vậy mà những bà cụ già, những người phụ nữ lớn tuổi không đi làm, đã chịu khó vun vén để trồng những khóm hành ngò, rau thơm, những giàn bầu bí, khổ qua, đậu ván. Nguyễn hay lang thang đi dạo quanh xóm, nhìn mảnh vườn rau quê hương xa vời vợi trong tâm tư chàng, đang được những bàn tay của bà con lối xóm gây dựng lại trên mảnh đất xứ người. Nó thể hiện nụ cười của cả một dân tộc hiền hòa, khi vợ chàng thiếu một nắm húng quế cho tô phở, thiếu quả ớt cho bát nước chấm, lúc chàng khoan khoái thưởng thức món thịt bò quấn lá lốt, phết mỡ hành và đậu phọng giã nhỏ, bà hàng xóm đã cho vợ chàng những thứ rau cần thiết.

Sự thật, thỉnh thoảng họ cũng có cãi nhau, chén bát còn có lúc xô huống gì con người có tiếng nói. Họ hay phàn nàn nhau về chỗ đậu xe, khi lũ trẻ có bạn bè từ nơi khác tới cứ đậu bừa bãi lên "parking" của người khác. Họ rầy rà nhau một lúc, cũng lời qua tiếng lại một hồi, nhưng khi lắng xuống lại lý luận "ba xu" một chút rằng cái chỗ ấy có phải của ông của cha gì mà giữ, lại mất đi tình hàng xóm bấy lâu nay.

Đa số đàn ông trong xóm đi làm, còn phụ nữ ở nhà giữ trẻ, nấu cơm. Nguyễn thích nghe bà già người hàng xóm miền Trung nói lối, nó ngộ nghĩnh và đậm đà màu sắc thi ca dân tộc, một bà cụ miền Nam chỉ thích tuồng cải lương, xem những phim có hậu như Bao Công xử án Quách Hòe, Phạm Công Cúc Hoa, Đời cô Lựu v.v... Đại loại các bộ phim phải có chung, có thủy, có tình người. Họ cũng đọc sách báo, nhưng có nhiều nhà văn viết theo lối mới, khó hiểu, từ ngữ cầu kỳ kiểu cách, Nguyễn cũng chưa hiểu nổi họ nói gì thì đám dân mộc mạc ở đây cần gì biết cho mất công. Ngay như là vợ Nguyễn, nàng cũng chỉ thích đọc những bài đơn giản, trắng ra trắng, đen ra đen, không nhuôm nhuôm mờ mờ ảo ảo, bởi vậy mà lối viết của chàng cũng ào ào, chằn chặt như tiếng dao băm trên thớt, như tiếng bát đũa khua lanh canh, xủng xoảng của trẻ con háu đói trước mâm cơm.

Đám trẻ ở đây có mòi nhiễm lối sống Âu Mỹ, thích sự yên tĩnh của những căn nhà riêng biệt đóng kín cửa, họ cố làm ăn và lôi cả nhà ra khỏi cái khu chung cư nghèo nàn, nhếch nhác. Chỉ tội nghiệp những người lớn tuổi, cũng phải chạy theo đám con cháu để hòa nhập vào xã hội phương Tây, họ trở thành những cái bóng mờ bên lề cuộc sống. Suốt ngày, lũ nhỏ đi học, đi làm, các cụ luẩn quẩn, loanh quanh trong căn nhà đóng kín cửa, tội nghiệp biết bao. Từ ngày có mấy Đài Phát Thanh Việt ngữ, các cụ cao niên và người Việt trung niên như bắt được bạn vàng lâu ngày không gặp, nghe như trong quãng đời hiu quạnh trên xứ người, thoang thoảng chút tình quê trong tiếng nói của người đồng hương. Thỉnh thoảng, Nguyễn gặp lại những người hàng xóm cũ, họ trở về khu chung cư cũ kỹ, nụ cười móm mém nở trên khuôn mặt hân hoan vì cảm động, họ thú thật với chàng rằng, chỉ ở nơi này họ mới thấy tình quê hương, mới cảm thấy ấm lòng để sống nốt những ngày còn lại.

Ngay như Nguyễn cũng thế, một lần chàng đi thăm bạn bè ở các tiểu bang xa, dù chỉ có hai tuần lễ mà lúc về nhà, gặp lại những khuôn mặt hàng xóm quen thuộc, nhìn giàn mướp xanh trĩu quả, ngắm cây cải lên ngồng với con bướm lượn, nghe tiếng người xướng ngôn viên đọc bản tin chiều, tự nhiên chàng xúc động quá. Chàng có cảm tưởng như xa quê hương đã lâu, nay trở về mái nhà xưa, chàng vô tình có được cái cảm xúc dạt dào của đứa con xa nhà, nay trở về với mẹ.

Chàng đi làm một tuần năm ngày, hai ngày nghỉ ở nhà viết lách. Chàng không có mặc cảm khi nghĩ mình chỉ là mầm cây non nớt giữa một rừng văn học ngát hương, bởi vì chàng chỉ dùng văn chương để trang trải nỗi lòng, kể lể chuyện đời buồn vui, không một mục đích nào khác.

Thằng con lớn nhân ngày Father’s Day, mua tặng bố cái máy computer để sáng tác cho tiện, vì mỗi khi nhìn bố gò lưng ra viết lách một cách khổ sở, xoá xoá viết viết thấy khổ thân gì đâu. Chiếc máy để trong căn phòng nhỏ đóng kín cửa, cố tạo sự yên tĩnh để chàng sáng tác, vậy mà chàng không viết được. Chàng công nhận mình quê mùa quá, không quen xử dụng máy móc hiện đại. Trong căn phòng đóng kín, tiếng máy lạnh chạy êm ru, chiếc màn hình trắng xóa, óc chàng cũng trắng xóa, chàng cố gắng viết nhưng chữ nghĩa hình như vô hồn, thế là chàng chịu thua.

Bây giờ thì Nguyễn hiểu rồi, người ta phải tạo cho tâm hồn một tư thế thảnh thơi thoải mái thì mới viết cho ra hồn được. Chàng chỉ cần, một tập giấy, một cây bút, một khung cửa bên ngoài là khoảng trời xanh, có những con chim đậu trên sợi giây điện như những nốt nhạc trong buổi hoàng hôn, có tiếng lá khô lạo sạo đuổi nhau trên mặt đường, tất cả những thứ ấy mới là linh hồn của bài viết, chàng chỉ có công tô điểm lên thôi.

oOo

Nguyễn chưa phải nhà văn chuyên nghiệp, vậy mà không biết tại sao Nguyễn thích viết, "tiền oan nghiệp chướng" tự kiếp nào, Nguyễn hiếm khi thấy một nhà văn hoàn toàn sung sướng, không đói rách thì cũng lận đận, cái kiếp con tằm nhả tơ, hay “vắt từ tim và từng đêm mải miết, viết cho đời xương máu mới nên câu". Việc ấy, mấy người đã biết, một tác phẩm nâng niu, gọt giũa chỉ đọc vèo một cái là xong, có người đọc để giải trí, có người cũng nghĩ ngợi đôi chút rồi quên.

Sự nghiệp viết lách của chàng bắt đầu từ những lá thư, rồi điện thoại đấu hót với bạn bè, nhưng nói mãi Nguyễn có cảm tưởng mình chưa nói gì cả, chàng nghe được cả tiếng ngáp, cái hững hờ của người nghe, ở đây tình cảm càng ngày càng hiếm hoi, người ta phải chạy theo cơm áo, thời gian bỗng trở thành ngắn ngủi.

Nguyễn viết, những lá thư dài năm, bảy trang giấy, chẳng biết người ta có đọc không nhưng ít khi nào chàng nhận được hồi âm, không chừng người ta còn bảo chàng lẩm cẩm. Sau đấy, có người thương hại bảo chàng viết văn đăng báo, rồi có những tờ báo đăng bài của chàng, từ đấy, Nguyễn có cái vui của người cầm bút, rồi biết thêm rằng ngoài nhu cầu cơm ăn, nhà ở, công danh, sự nghiệp, người ta vẫn cần có một món ăn bồi bổ cho tinh thần.

Lúc bắt đầu, chữ nghĩa còn thập thò e lệ, sau quen dần, như cô con gái lần đầu hẹn hò với tình nhân còn thẹn thùng, luống cuống thừa tay thừa chân, nay đã biết tận hưởng cảm giác đậm đà hương vị yêu đương.

Đề tài quanh quẩn chuyện trong nhà, cha mẹ, anh em, bạn bè lần lượt đi vào tác phẩm của chàng, Nguyễn có cái thiết tha chân thật khi chàng dùng ngòi bút để hồi tưởng những bóng dáng thân yêu trong đời chàng, để chàng thực lòng đã chảy nước mắt khi nhớ đến những kỷ niệm rất đơn sơ, nồng ấm thời thơ ấu. Chuyện của chàng không có những pha mê ly, hấp dẫn, thế nên khi có người đề nghị chàng viết truyện tình thì Nguyễn bối rối lắm. Nhìn quanh xã hội này, Nguyễn không tìm ra chất liệu để viết, thời buổi bây giờ mọi người đều có dư thừa tự do và điều kiện để yêu, Nguyễn đọc nhiều truyện tình yêu của xứ này, chàng biết tình yêu đơn giản như người ta ăn một cái kẹo, một cuộc hẹn hò trên bãi biển, đùa giỡn với sóng nước và nắng ấm, sau đó đưa nhau vào khách sạn, vài giờ sau chia tay, không ngậm ngùi, không khóc lóc.

Cuối cùng thì chàng nghĩ ra được một điều thật giản dị, văn chương không cần màu mè hoa lá cành, không cần tình tiết éo le, chẳng có mở mà chẳng có thắt. Nó chỉ là chuyện đời thường viết cho người khác đọc, như mình đang rủ rỉ kể những chuyện bình thường nhất, nó là của mình mà cũng có thể là chuyện của người, để đọc xong thì ai đó cũng có thể thở phào nhẹ nhõm, bâng khuâng hay mơ mộng đến những ảo ảnh mù xa trong dĩ vãng.

Thế rồi Nguyễn cũng cố thuyết phục vợ để được chấp thuận trong vui vẻ, cho chàng ra đời một tác phẩm đầu tay. Ngày hai vợ chồng có đứa con đầu lòng, chàng cảm động như thế nào thì nay nhìn đứa con tinh thần của mình Nguyễn lại có được cái cảm giác y hệt như vậy. Đối với chàng, những đứa con được sinh ra bằng sự kết hợp máu thịt của cha mẹ, dẫu đẹp hay xấu chàng đều thương yêu như nhau, riêng tác phẩm của mình, Nguyễn cũng vẫn say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi bài viết đã chuyên chở ít nhiều tư tưởng và những kỷ niệm của chàng cho từng nhân vật của truyện.

Dĩ nhiên đâu phải Nguyễn đã có được những phút giây sống hoàn toàn với đứa con tinh thần chàng yêu thích. Vợ chàng có thể đặt nhiều dấu hỏi về một nhân vật tưởng tượng của chàng, mà nàng cho là nhất định đấy phải là một hình bóng của dĩ vãng. Chàng đã phải trả lời nhiều câu hỏi nghe thật ngớ ngẩn mà đầy những cạm bẫy, để rồi có khi nhiều lúc chàng bần thần đến phát cuồng khi thấy mình bị tước đoạt gần hết điều mà người ta hay gọi là tự do tư tưởng. Đấy chỉ là những vui buồn lẻ tẻ trong nghiệp cầm bút, trong một phạm vi nhỏ hẹp là gia đình, còn với thế giới bên ngoài chàng cũng cảm thấy sự dè dặt của mình khi không dám viết thật những gì mình nghĩ. Ôi! Đời mắc chi cái nghiệp khổ như vậy, vậy mà vẫn say mê không dứt được.

Nếu mai kia khi về già, cuộc đời sẽ trống rỗng khi nhìn mấy bức tường trắng toát, hay loanh quanh trồng tỉa mấy chậu hoa chậu kiểng, ngó mông lung một chiếc lá rơi trên khoảng sân cỏ úa, điều ấy khiến Nguyễn vẫn thú vị với cái "khổ" của nghiệp cầm bút mà Trời đã oái oăm gửi cho chàng.

Nguyễn vẫn say sưa với cái cõi của mình, chập chờn những hình bóng của từng nhân vật trong khi ăn, lúc đi ngủ. Họ là những con người không có thật mà lại có sức mang đến cho chàng những rung động lạ kỳ. Nguyễn có thể đi theo họ đến những dòng sông xa xôi nào đó, ngồi với họ bên một bờ sông mà lắng nghe tiếng sóng vỗ óc ách vào bờ. Đi theo họ xuống thung lũng mù sương của Đà Lạt năm xưa, nghe họ tỉ tê thương nhớ một thời đã mất, và kỳ lạ rằng chàng cũng đã rưng rưng đến phát khóc khi cho nhân vật đau khổ vì một mối tình tan vỡ. Còn nhiều, nhiều nữa, những mối tình thời chinh chiến, những mất mát thua thiệt đớn đau của cuộc đời, những nhớ nhung mảnh vườn đầy bóng nắng lúc sang Xuân ở quê nhà. Đó phải chăng là món quà của Thượng Đế đã ban cho chàng, không cần tiền bạc mà chàng vẫn có thể để hồn lang thang đến nhiều nơi chốn đầy kỳ thú trên trái đất.

Nguyễn vẫn sống đạm bạc, bằng lòng với sự eo hẹp chút đỉnh của vật chất mà lòng vẫn không hề cảm thấy thiếu thốn, không mơ tưởng đến một thế giới xô bồ của bạc tiền, danh vọng. Sống như vậy nhưng lúc nào chàng cũng cảm thấy đời dư thừa niềm vui, vì ngòi bút đã giúp chàng đi chu du đến nhiều vùng trời đầy những đềm êm và kỳ thú của văn chương, một thế giới không thể mua được bằng tiền vậy.

Nguyên Nhung


No comments:

Blog Archive