Tạ Ơn Người Vợ Lính
Captovan
Thật vui khi nhận được lệnh trả bài cho số Xuân của Tập San BĐQ, nhưng tôi cũng thật bối rối không biết phải viết về cái gì cho hợp khẩu vị gia đình nhà Cọp, vì mấy ông Thiên Lôi, Thánh Tướng này kỹ lắm, nhận thì nhiều mà chọn thì chẳng bao nhiêu. Tôi chợt nhớ ra ngày mai là ngày lễ Tạ Ơn, thế thì tại sao không viết mấy câu để tạ ơn những người đẻ ra lính và đẻ con cho lính, nói chung là Vợ Lính, họ là những nhân vật xứng đáng được tạ ơn trước nhất sau Thượng Đế. Dựa hơi vào quý bà mà viết về đề tài này thì dù hay dở mấy ông Cọp cũng phải nể không nỡ xé bỏ sọt rác, rủi Cọp bà mà trông thấy thì... ốm đòn. Tôi bắt đầu nhá !
* * *
Tên cai tù trại Vĩnh Quang lật qua lật lại, xoay ngược xoay xuôi tờ đơn xin thăm nuôi chồng của chị Trần thị Biệt Động, mặc dầu tờ đơn này đã nhầu nát vì phải qua tay các cơ quan ở địa phương để được đóng 3 con dấu từ Khóm, Phường tới Quận, hồi lâu hắn vất trả lại, giọng nghiêm chỉnh đúng tiêu chuẩn XHCN:
- Chồng chị vi phạm lội qui, cải thiện ninh tinh, nười nao động lên bị trại cắt thăm luôi, chị phải ráo rục chồng chị sớm rác ngộ để nần sau sẽ được cứu xét.
Nghe như sét đánh mang tai, bình thường chị cầm tờ giấy quay lui, không thèm phí phạm một chút nước miếng, nhưng nay vì chồng, vượt 3 ngày đường chỉ để... nhìn anh mà không được! Cố gắng nuốt cục hận đang chặn ngang cổ họng để khỏi phải lợm giọng, chị chưa biết tính sao, có nên xuống nước năn nỉ tên này hay không? Có nên tránh trâu (bò) để khỏi bị trâu đánh với hy vọng được trông thấy chồng? Bất chợt chị nhìn cái đồng hồ vỏ “Seiko ruột nội hóa” chị đeo nơi cổ tay và chị có dư thông minh biết phải làm gì. Cuối cùng cai tù gật gù cái đầu, nhưng cũng giả bộ sẳng giọng:
- Vì chính sách khoan hồng và nhân đạo của đảng và nhà lước ta, lay thay mặt trại, chúng tôi chiếu cố cho chị gặp chồng ba mươi phút, nhưng phải chấp hành đúng lội quy và vận động chồng chị học tập tốt, nao động tốt.
Tai chị ù đi, chẳng cần nghe hắn nói tiếp những gì, cho tới khi nhìn thấy anh, được gặp anh là hạnh phúc lắm rồi, dù cho còn có con sông quái ác ngăn đôi vợ chồng là cái bàn và tên “cán bộ”!
Từ hai bờ Nam Bắc, cùng vươn tới nhưng không được cầm tay nhau truyền hơi ấm, chỉ có mắt trao đổi tình yêu thương, ngàn lời nói cũng không thừa, nhưng vừa mới nhìn nhau chưa kịp chớp mắt thì “thần chết” đã vung lưỡi hái lên cố tình để lộ cái “đổng hồ không người lái” rồi tuyên bố hết giờ!
Văn minh thật! Chị nghĩ thầm và cũng thầm khen người cộng sản tiến bộ rất nhanh, từ lúc mang bộ mặt “đồ đá” ù quá độ sang “đồ da” rồi mau chóng tiến tới thời kỳ “đồ đểu” chỉ trong vòng mười năm phút! Thời gian chạy mau đến thế sao?
Chị biết chúng nó đã ăn gian, muốn kiếm chuyện để lột thêm cả đôi dép... dưới chân! Nhưng thôi, chả cần thiết phải phí phạm thêm vài giọt nước bọt, nhìn thấy anh chưa bị vùi thân dưới chân đồi, bên nương sắn như một số đồng tù bất hạnh khác là được rồi, nếu ngồi thêm thì chị là người sẽ “vi phạm nội quy” chứ không phải anh.
Vừa bước ra khỏi cửa nhà “thăm nuôi”, anh quay vào nhà tù nhỏ, chị trở về nhà tù lớn, hai vợ chồng đã bị khuất mắt bởi những đồi củ sắn, núi khoai mì trùng trùng điệp điệp, cả hai chinh phu và chinh phụ thời hậu 1975 cùng “đi lui”, đi giật lùi:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những núi rừng khoai (mì)
....
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Chuyện đi thăm chồng của người vợ lính ở các trại tẩy não đều cùng hoàn cảnh tương tự như thế cả. Sau vài ngày đường vất vả bám theo tầu hỏa nóng như lửa, tới miền Bắc, cái nôi của XHCN thì bám theo xe trâu, cúi đầu đi theo lũ “bò vàng”, tay dắt con nhỏ, chân lội bộ cả ngày đường, vén quần vượt suối, ôm kín... bụng lội bến phà Trang v.v..., vượt trăm gian ngàn khổ để được đứng ngoài vòng rào trại giam ngóng cổ trông chồng! Người thì thấy chồng kẻ thì không, nỗi thống khổ này dễ mấy ai biết!
Sách các anh viết về đời sống “thú ơi là thú”... trong các trại tù thì bày bán tràn ngập phố phường nhưng những bước đường các em đi đến trại giam người yêu, vợ lần mò khắp rừng sâu núi thẳm để thăm chồng thì vẫn không thấy câu thơ bài văn nào nói đến cả! Các anh ngày xưa có ngòi bút tài hoa lả lướt biến đâu rồi?
Dẫu cho nay mực còn hay đã cạn thì cũng mạnh dạn vươn vai đứng lên cố nguệch-ngoạc cho chúng em đôi điều gọi là “còn một chút gì để nhớ để thương” chứ cứ ngóng cổ cò lặn lội bờ sông gánh gạo nuôi chồng thì chờ đến bao giờ mới được đọc?
Sau những ngày tháng bòn mót sửa soạn, rồi lặn lội từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng lên núi cao rừng sâu để thăm nuôi chồng, 3 ngày đường đổi lấy 30 phút, mắt nhìn mắt mà tay chẳng được cầm tay, rồi chàng trong song sắt, nàng ngoài chân mây!
Nếu như chúng ta đã có những bài thơ hay, bài nhạc hùng, ca tụng người lính, thì lại thiếu nhiều lời nói về người “nuôi” lính, “đẻ” ra lính, những người đứng sau lưng làm chỗ dựa vững chắc cho lính tiến về phía trước, bước ra sa trường. Những người mà Không Quân gọi là người “lái phi công”, Bộ Binh tôn vinh là “hoàng hậu chiến trường” Nhẩy Dù nâng lên hàng “nội tướng”, BĐQ, TQLC, Pháo Binh, Thiết Giáp âu yếm phong làm “tổng chỉ huy hậu phương” v.v...
Là gì đi nữa thì chính họ mới là người tạo nên những chiến thắng, nhưng lại âm thầm hứng chịu quá nhiều cay đắng! Vẫn vắng những tiếng nói lời “cám ơn EM”.
Từ khi “biết anh thích mầu Trời” thì em đã “bồi hồi chọn mầu áo xanh”, nhưng rồi anh bay bổng Trời cao, anh Mũ Xanh hành quân bốn vùng Chiến thuật, anh HQ lắc lư con tầu đi, anh rằn ri mải mê hô “Biệt Động Sát”, anh ôm Dù “cố gắng” nên chúng em “chẳng thấy bóng dáng anh đâu!” Dẫu cho có về hậu cứ nghỉ ngơi một vài ngày để tái trang bị thì vẫn ứng chiến, cấm trại! Có đúng thế không hay anh lại đi “hành quân” vùng... hậu tuyến? Biết anh thích phịa nhưng em vẫn bồi hồi cố tin lời anh nói:
- “Một trăm em ơi! Chiều nay (cấm trại) một trăm phần trăm”.
Người chinh phụ tân thời đưa vai gánh vác “giang sơn” nhà chồng, hiếu với cha yếu mẹ già, nuôi đàn con dại để chinh phu rong ruổi từ Bến Hải tới Cà Mau, đêm đêm nghe tiếng súng đại bác từ xa vọng về, ôm con nguyện cầu Chúa Phật cho chinh nhân:
“Chinh nhân ơi, xin anh trở về”.
Anh trở về rồi anh lại đi ngay, có khi đi mãi không bao giờ trở lại!
Đất nước tôi chiến tranh bao trùm nhiều thế hệ, giặc Tàu, giặc Tây, giặc Cộng, nhiều tuổi trẻ đã thay nhau ra chiến trường, có anh trở về thì đã “hòm gỗ cài hoa” em thành quả phụ ! May mắn hơn thì... anh trên chiếc băng-ca, anh đu mình trên đôi nạng gỗ, dù có như thế nào đi nữa thì anh trở về vẫn KHÔNG làm dang dở đời em.
Ai đã từng là thân nhân của lính, vợ lính đều có những giây phút căng thẳng, đứng lặng nhìn những xe cứu thương hối hả lao về phía Bệnh viện, những xe GMC chở quan tài phủ cờ lặng lẽ đi trên đường phố, những xe Jeep lấm bùn mang huy hiệu “Cọp Ba Đầu Rằn” từ mặt trận trở về tìm đến xóm nhà mình ở, Anh về phép với mẹ con em hay người ta đi tìm nhà báo tin anh đã hy sinh vì Tổ Quốc? Đời vợ lính sống trong hồi hộp mãi như thế sao?
Kinh Thánh nói: “Con người ta sống không chỉ bằng cơm áo mà còn phải sống bằng tình thương”. Ai có sống trong hoàn cảnh trông chờ người thân thương mới thấy thương người vợ lính lúc nào đầu cũng đau như búa bổ.
Người lính quanh năm suốt tháng miệt mài xông pha nơi chiến trường, mấy ai có dư thì giờ nghĩ đến hậu phương mà buồn mà lo! Lo là lo cho tròn nhiệm vụ, anh BB lần mò đêm tối lội suối bơi sông, Anh Biệt Động nhẩy trực thăng lên đầu địch phải chiếm mục tiêu “bằng mọi giá” (sic!), cái giá các anh phải trả là chính thân xác, anh KQ lo sao thả vài trái 500 cân anh cho trúng đầu người “anh em” mà quên đi những viên 12 ly 7 “hit & run”, nếu nó “hit” mà không “run”, lại nằm lì trong anh thì anh nằm xuống nhẹ nhàng thanh thản, không còn sầu oán.
Một trái SA.7 bay lên làm nổ tung chim sắt, cả chim lẫn người cùng trở về với đất, anh không đau mà cũng chả buồn, người buồn là em. Chim ăn biển Bắc người tìm biển Đông cũng còn có ngày thấy, nhưng anh thì không bao giờ còn thấy, đêm đêm em về tìm anh trên vách, chỉ bóng mình cho con bảo là bố đó, bố con là người sống hùng, sống mạnh nhưng không sống lâu. Bố con là người hùng! Khi “nghỉ cuộc chơi”, người Không Quân gãy cánh, bỏ bầu Trời xanh, anh HQ không còn được yêu đời biển cả mà lắc lư con tàu đi trên đất lạ, chàng Kỵ Binh xếp áo giáp loang vết máu gục đầu trên pháo tháp! Sao không về đây gục đầu trên vai em? Anh BB, BĐQ, ND, TQLC theo lệnh “tối cao” và tối um, xếp áo giáp đưa tay ra sau cho địch trói! Pháo Binh súng to và dài thì xếp càng, bỏ lựu đạn lân tinh vào... nòng để mặc cho địch tự do ngày đêm pháo kích rung rinh tan nát đời vợ lính!
Cuộc chiến tàn nhưng không thanh bình, ngày trở về anh không về “chống nạng cày bừa bên người yêu sẵn lòng giúp đỡ” mà lại chống gậy vào tù, khiến người vợ lính lại hóa kiếp thành người vợ tù, nhưng vẫn phải tiếp tục chiến đấu.
Bao đau thương cực khổ suốt đời của người vợ lính nay cô đọng thành chén thuốc đắng, thuốc đắng không giã tật mà làm người vợ lính thành tàn tật cả thể xác lẫn tâm hồn. Con cò lặn lội bờ sông, đầu đường xó chợ, dãi nắng dầm mưa, kiếm gạo nuôi con nuôi chồng còn nước mắt đâu để mà khóc nỉ non!
Dù quan hay lính thì ngày xa xưa còn có dịp lên xe (Jeep) xuống ngựa (sắt), cuối tháng bắt tí tiền còm đưa hiền thê “tiền lính tính liền”, nay không còn cách tính nào hơn là chôm đồ nhà đem đi bán.
Nếu như trước đây “hào hoa nhất lính KQ, có mỗi cái quần anh cũng bán đi” vì cái tật “cù lũ tàng tàng” thì nay nàng “lái phi công” không còn xu “hào” mà chỉ “hoa” cả mắt vì mệt, nên bắt buộc còn cái quần lót cũng phải bán đi để tiếp tế cho chồng trong tù được thêm hũ mắm, nắm thuốc rê v.v...
Tưởng như đùa mà có thật, chuyện kể rằng chị XYZ nhận thư chồng xin tiếp tế, nhìn quanh nhà chẳng còn gì để bòn để mót, chỉ còn một xếp quần lót 7 mầu (Monday to Sunday) mà ngày đầu tiên khi đi học lớp Rừng Núi Sình Lầy từ Mã Lai trở về anh đem đến tặng em để làm kỷ niệm, em vẫn giữ kỹ để dành hơi mong tặng lại anh khi về phép. Nay thì thôi đành biến những kỷ niệm ấy thành hũ mắm ruốc, bánh thuốc lào. Ăn mắm ruốc anh sẽ nhớ đến em, hút thuốc lào anh thấy hình ảnh em qua làn khói.
Bên cạnh những khó khăn vật chất, người vợ tù còn phải “thắt lưng buộc bụng” cho chắc để chiến đấu chống chính sách khoan hồng (vô) nhân đạo của cái Đảng tà ma là “Nhà ngụy ta ở, con ngụy làm đầy tớ, vợ ngụy ta cướp”!
Đây mới chính là mặt trận gay cấn và nguy hiểm, mờ mờ ảo ảo khôn lường, chiến trường khốc liệt như vậy mà tuyệt đại đa số các chị em đã chiến thắng. Ngày xưa đối đầu với kẻ thù, các anh đã chiến thắng bằng súng đạn rồi thăng cấp, rồi huy chương cuống, huy chương thòng, lủng lẳng trước ngực, còn chúng em đã chiến thắng, bảo toàn “lãnh thổ” chờ đón anh trở về là vui rồi.
Giả sử sau 30/4/1975 chị em vợ lính vào tù, các anh ở lại săn sóc con dại, cha mẹ già, thì các anh đi thăm nuôi vợ được mấy lần? Nếu phải chiến đấu chống lại chính sách của địch là “nhà ngụy ta ở, chồng ngụy ta lấy” thì các anh có chống nổi không? Có bao nhiêu anh gục ngã trên chiến trường này? Nói thực tâm đi!
Chịu thua hả? Vậy thì đã có anh chồng nào nói lời cám ơn vợ thay cho tấm huy chương về sự chiến thắng của các chị chưa? Chưa hả? Thế thì nói đi là vừa, muộn còn hơn không, một bông hồng trao tận tay trong ngày Đại hội, ngày họp khóa.
Đoạn trường, đoạn trường lại đoạn trường, chúng ta còn sống sót sau cuộc chiến và còn có dịp may mắn gặp lại nhau trên đất khách lưu vong, nếu ai có niềm tin thì cho đó là một đặc ân của Thượng Đế, nếu ai còn máu mê đỏ đen gọi đó là “bon-nớt” thì tất cả chúng ta cũng nên bớt chút thì giờ nghĩ đến đồng đội thua cuộc còn ở lại, họ đã trả nợ Tổ Quốc xong cả vốn lẫn lời thì ai đó chớ vội vác cờ đi “đón gió”, hãy dành cho các bạn ấy một chỗ nho nhỏ tỉ-tì-ti trong trái tim ta, cụ thể là nghĩ đến những anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, trước khi mở bàn tay đối với người dân... XHCN. (!)
Còn đối với người bạn đời, những người gọi là Vợ Lính thì nay đã trở thành CÁC BÀ, tuy được an hưởng hạnh phúc lúc tuổi CHƯA già bên sự thành công của con cháu, nhưng vẫn không quên khổ đau quá khứ, và hiện tại, trong người lại thêm nhiều chất CAO khó trị! Các anh đâu? Hãy mau mau dìu các chị đi trị, nói lại cho rõ là dìu đi điều trị bệnh cao mỡ cao máu v.v...
Trong những dịp họp đại hội, họp khóa của các anh thuộc mọi Quân binh chủng và Quân trường, các anh đã, đang và sẽ nâng niu bông hồng để tặng “người yêu” cho đôi má thêm hồng, nụ cười thêm tươi - Nay nhân dịp lễ Tạ Ơn, lễ Giáng Sinh, tết Nguyên Đán, người viết xin chân thành cầu chúc tất cả quý chị vợ lính, những Cọp Bà và Cọp Biển mẹ, những vị lái “phi công”, những vị điều khiển “thuyền trưởng” và cả “nhà tôi” nữa những ngày tháng thật vui tươi và khỏe mạnh để cùng các anh “bảo trì” cái hạnh phúc đang ở trong tầm tay, đó là những hạnh phúc có thật.
Còn anh em chúng ta, không còn ở cái tuổi xung phong ào ào vào mục tiêu nữa, mà đang “từng bước từng bước thầm” tiến lên đồi cao! Chớ vì vốn sẵn mang trong máu cái tính hào hoa mà phải lặn lội về Phương Đông xa xôi để tìm cái gọi là “hạnh phúc”, cái hạnh phúc ấy hao-hào (tốn tiền) mà lại nhiều hoa (liễu) sẽ mang họa vào thân vì những quỷ thần mang tên “Ếch”, thân không bại thì chân (?) cũng liệt! Mong lắm thay.
No comments:
Post a Comment