Tác giả: George J. Veith and Merle L. Pribbenow II
Dịch giả: Khôi An và Trần Sơn
Lời Giới Thiệu của dịch giả
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới.
Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt.
Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Tóm Lược Bài Viết
Từ đầu tháng cho đến giữa tháng Tư, 1975, Sư Đoàn 18 của Miền Nam Việt Nam đã phòng thủ ngã đường chiến lược tại Xuân Lộc, Đông Bắc của Sài Gòn, giữ vững nơi này sau những cuộc tấn công ồ ạt của cả một quân đoàn của Cộng Sản Bắc Việt trong kế hoạch tấn công bất ngờ để tràn chiến Sài Gòn và nhanh chóng kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Với những trận đánh khốc liệt, Sư Đoàn 18 đã chận được cuộc tấn công của Cộng quân trước khi được lệnh rút về phòng thủ Sài Gòn. Mặc dù Cộng quân đã vấp phải lỗi quá tự tin, sự thành công của Sư Đoàn 18 phần lớn là kết quả của tài đánh trận có kế hoạch và sự chỉ huy dũng cảm của vị Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, người đã chứng tỏ rằng ngay trong những giờ phút đen tối nhất của Miền Nam Việt Nam, những người lính Việt Nam Cộng Hoà -- những người đã từng bị chỉ trích rất nhiều, sẽ chiến đấu nếu cấp chỉ huy của họ là những sĩ quan có khả năng.
Ghi chú của Tác Giả về Những Tài Liệu Đã Dùng
Tác giả đã nghiên cứu những tài liệu về lịch sử của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN) để biết những nhận định của người Cộng Sản về trận Xuân Lộc, cũng như tìm rất nhiều nguồn tin của Miền Nam Việt Nam để mô tả những đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH). Tác giả xin cám ơn ông Nguyễn Phương Hùng, Webmaster của trang mạng của Biệt Động Quân QLVNCH, đã cung cấp những huy hiệu của những đơn vị và giúp tác giả liên lạc với những cựu sĩ quan của QLVNCH để phỏng vấn. Phương thức mà chúng tôi thường làm là kết hợp nhiều nguồn tin trái ngược nhau để rút ra một hình ảnh chính xác của chiến trường. Phương thức này quả thật không dễ dàng khi dùng những bài tường thuật của Việt Nam về cuộc chiến. Người của Miền Nam Việt Nam thường viết theo kiểu dựa trên cảm xúc. Họ chú trọng đến việc nói lên quan điểm chính trị của họ hơn là đưa ra những lập luận mạch lạc và chặt chẽ. (106) Người đọc phải chấp nhận những điều họ nói vì họ có chính nghĩa chứ không phải vì người viết đưa ra những bằng chứng thuyết phục. Người viết Cộng Sản, mặc dù có sắp xếp hơn, thường làm người đọc choáng ngợp với những lời lẽ phóng đại quá đáng về những chiến thắng kẻ thù “tay sai”, và ca tụng đường lối sáng suốt của Đảng. Trong hoàn cảnh như thế, tìm ra những sự thật có thể kiểm chứng là một điều khó khăn.
Quả đạn pháo kích đầu tiên rót vào ngay nhà Tướng Lê Minh Đảo. Đó là một căn nhà hai tầng nhỏ, không có gì nổi bật, dù tường nhà sơn màu hồng. Căn nhà nằm đối diện với tư gia của ông Tỉnh Trưởng, gần nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở giữa thị xã Xuân Lộc, thủ phủ của tỉnh Long Khánh. Ông Tướng, như phần lớn binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), sống trong cái tỉnh nhỏ miền quê, yên lặng và đượm nét hoang tàn. Trái đạn pháo xuyên thẳng qua mái nhà và nổ tung ngay trong phòng ngủ, chứng tỏ độ chính xác của pháo binh Bắc Việt. Tiếp theo ngay sau đó là hai ngàn quả đạn pháo vào tỉnh trong vòng một tiếng đồng hồ. May thay, ông Tướng không ở nhà.
Những tiếng nổ liên tục của pháo địch đã đánh thức binh sĩ của Sư Đoàn 18 Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) và Địa Phương Quân (ĐPQ) của tỉnh Long Khánh đang núp ở trong những vị trí đã được sửa soạn trước trên vòng đai quanh tỉnh. Cộng quân liên tiếp pháo vào trung tâm tỉnh mà không hề biết rằng QLVNCH và ĐPQ đã dời ra vùng ngoại ô để tránh pháo kích. Mờ sáng, tiếng xích thép nghiến trên đường báo hiệu sự xuất hiện của chiến xa Bắc Việt, theo sau là lớp lớp Cộng quân đang hăm hở, tin chắc vào chiến thắng.
Lúc đó là 06:40 sáng ngày 9 tháng Tư, 1975. Trận đánh quyết định cho Sài Gòn bắt đầu.
Tuy trận Xuân Lộc có một vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của Sài Gòn, các sử gia Tây Phương biết rất ít về trận đánh huyền thoại này, khi Sư Đoàn 18 QLVNCH và Địa Phương Quân Long Khánh đã đứng vững trước những loạt tấn công ồ ạt bằng bộ binh, thiết giáp và pháo binh của cả một Quân Đoàn Bắc Việt. Tuy những tài liệu đã được xuất bản thường không được chính xác và có nhiều sai lạc, một điều không thể chối cãi là: dù QLVNCH có nhiều thất bại trầm trọng năm 1975, Sư Đoàn 18 đã làm nên một chiến công hiển hách, đó là giữ vững Xuân Lộc trong mười một ngày trong tình trạng tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam trong khi hầu hết những đơn vị khác tan hàng hoặc rút chạy. Tại sao vậy? Có những khác biệt nào giữa Sư Đoàn 18 và các đơn vị khác? Sức mạnh nào đã giúp các binh sĩ của Sư Đoàn 18 không những giữ vững phòng tuyến mà còn dũng cảm đánh trả lại địch quân? Bằng cách nào họ đã chịu đựng được mưa pháo và chống cự lại những cuộc tấn công bằng chiến xa của Cộng quân? Quan trọng hơn, những quyết định nào đã biến thị xã này thành chiến trường khốc liệt nhất sau trận An Lộc và Quảng Trị năm 1972?
Sau hơn hai mươi lăm năm, những câu trả lời không dễ tìm, nhưng điều khá dễ thấy là vị trí chiến lược của Xuân Lộc đã làm cho thị xã này trở thành điểm chính cho cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt. Thị xã này nằm ở phía Đông Bắc Sài Gòn, thủ đô của Miền Nam Việt Nam, cách Sài Gòn sáu mươi cây số. Đây là nơi kiểm soát ngã ba Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20, hai xa lộ lớn nối liền Miền Trung với Sài Gòn. Sau sự sụp đổ của hai Quân Khu I và II ở phía Bắc, Xuân Lộc biến thành giao điểm trọng yếu của đường dây phòng thủ xung quanh Sài Gòn mà Miền Nam gấp rút dựng lên trong tuyệt vọng.
Hình 1 - Nước Việt Nam Cộng Hoà được chia làm 4 vùng: Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, Quân Đoàn III, và Quân Đoàn IV. Mỗi quân đoàn chịu trách nhiệm về các hoạt động quân sự trong vùng lãnh thổ của quân đoàn. Đặc biệt Sài Gòn, Gia Định là thuộc vùng Đặc Khu Thủ Đô.
Phần lớn các quan sát viên đều nhận thấy rằng chút hy vọng của QLVNCH khi phòng thủ Sài Gòn trước vòng vây của Cộng quân tuỳ thuộc vào sự tồn tại của phòng tuyến Xuân Lộc. Nếu VNCH giữ được nơi đó, họ sẽ còn cơ hội để ổn định tình thế, tập họp lại quân đội đang tản mác khắp nơi, và thoát được chiến bại.
Lãnh đạo của Cộng Sản Bắc Việt nhất quyết “tiêu diệt tay sai từ trong ổ” bằng mọi giá, trước khi VNCH có cơ hội hồi phục. Từ những hỗn loạn làm cho Đà Nẵng thất thủ, Hà Nội mong tìm cơ hội kết thúc cuộc chiến nhanh chóng bằng cách tấn công thẳng vào Sài Gòn qua ngõ Xuân Lộc. Họ tin rằng một trận tập kích mạnh sẽ phá tan sức chống cự cuối cùng của QLVNCH, và sự thất thủ của thị xã Xuân Lộc sẽ mở đường cho họ tiến vào Sài Gòn, kết thúc cuộc chiến dài mấy thập niên bằng một trận tấn công quyết liệt. Để đạt được mục tiêu, Bắc Việt ném cả Quân Đoàn 4 gồm ba sư đoàn để phá tan Sư Đoàn 18 QLVNCH tại Xuân Lộc.
Tuy vậy, Sư Đoàn 18 đã không tan rã; và mộng tưởng về một chiến thắng dễ dàng đã tàn rụi theo lửa đạn trong một trận đánh mà một cấp chỉ huy Cộng quân, người đã từng tham gia các trận đánh chống Pháp và Mỹ, gọi là trận đánh khốc liệt nhất trong ba mưoi năm binh nghiệp của ông ta.
Sự thành công của Sư Đoàn 18 trong lúc tinh thần của QLVNCH xuống thấp tận cùng đã trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người lúc đó: liệu QLVNCH có chống trả Cộng quân?
Dù cuối cùng Sư Đoàn 18 đã phải theo lệnh rút khỏi thị xã đổ nát, sự chống cự anh dũng của họ đã đem lại hy vọng ngắn ngủi là QLVNCH sẽ đứng vững trước những cuộc tấn công liên tiếp của Bắc Việt và cầm cự cho đến mùa mưa khi các cuộc công kích phải ngưng lại hay các nỗ lực ngoại giao đạt được thoả thuận ngưng bắn. Hơn nữa, hành động chống giữ quả cảm của Sư Đoàn 18 đã cứu vãn phần nào cho sự tổn thương danh dự của QLVNCH khi Quân Đoàn I và Quân Đoàn II sụp đổ.
Các Lực Lượng Việt Nam Cộng Hoà Trong Trận Xuân Lộc
Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Hình 2 - Huy hiệu của Sư Đoàn 18 QLVNCH. Màu xanh nhạt tượng trưng cho bầu trời. Màu xanh đậm tượng trưng cho đất. Vật trên huy hiệu là nỏ thần và mũi tên thần trong sử Việt Nam.
Hình 3 – Tư Lệnh SĐ 18 năm 1975 Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (chụp khi còn là Chuẩn Tướng)
Sư Đoàn 18 được thành lập ngày 16 tháng Năm, 1965. Tên đầu tiên là Sư Đoàn 10, nhưng theo tiếng lóng của người Việt, “số mười” là hạng chót, do đó, vào cuối năm 1966, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đổi tên sư đoàn thành Sư Đoàn 18. Phần lớn Sư Đoàn 18 ở tại Long Khánh, một tỉnh nằm ở phía Đông của Quân Đoàn III.
Sư Đoàn 18 có ba trung đoàn cơ hữu: Trung Đoàn 43, 48, và 52. Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và một đại đội trinh sát. Sư đoàn cũng có một thiết đoàn là Thiết Đoàn 5. Thiết Đội 1 có chiến xa M-41, Thiết Đội 2 và 3 có chiến xa M-113. Các Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 18 gồm có: Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy Trung Đoàn 43, Trung tá Trần Minh Công chỉ huy Trung Đoàn 48, Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy Trung Đoàn 52, Trung Tá Trần Văn Nô chỉ huy Thiết Đoàn 5, và Đại Tá Ngô Văn Hưng chỉ huy pháo binh. Theo ông Đảo, Trung Đoàn 43 là đơn vị thiện chiến nhất. Căn cứ chính của Sư Đoàn 18 đặt ở Long Bình, nơi có trung tâm tiếp liệu lớn. Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng Lê Minh Đảo đặt tại Xuân Lộc.
Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo là Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông ta là một trong những sĩ quan lỗi lạc của QLVNCH nhưng ít được biết đến ở ngoài quân đội.(1) Ông Đảo, một người lãnh đạo đầy nhiệt huyết và nghị lực, đã sống với binh sĩ của Ông và thường xuyên thăm hỏi gia đình họ. Khác với những sĩ quan cao cấp thường ở trong Bộ Chỉ Huy và ra lệnh qua máy truyền tin, Ông Đảo hay ở trong hàng ngũ thuộc cấp trong các trận chiến, và đi sát bên họ trong các cuộc hành quân. Ông tin rằng niềm tin của binh lính đến từ sự cố gắng của cấp chỉ huy, và Ông yêu cầu các sĩ quan trong Sư Đoàn phải quan tâm thăm hỏi và thấu hiểu các thuộc cấp ở “hai tầng phía dưới”. Đây là một cách chỉ huy mới mẻ so với lối chỉ huy đặt nặng về cấp bậc của một số sĩ quan VNCH. Sự chia cách về văn hoá và xã hội thường thấy giữa sĩ quan và binh sĩ đã khiến cho nỗ lực của Tướng Đảo tạo được sự gắn bó đặc biệt đáng chú ý giữa các cấp trong hàng ngũ của ông. Các thuộc cấp của Tướng Đảo đáp lại bằng sự kính phục và trung thành. Dưới sự chỉ huy của Tướng Đảo, Sư Đoàn 18 đã nhanh chóng trở thành “đơn vị hữu hiệu nhất của Quân Đoàn III” (2) ; hơn nữa, sự chỉ huy mạnh mẽ của ông là một trong những nguyên nhân cho khả năng chiến đấu dũng mãnh của Sư Đoàn 18.
Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân (BĐQ)
Tiểu Đoàn 82 BĐQ Biên Phòng thuộc Liên Đoàn 24 BĐQ cùng với Tiểu Đoàn 63, 81. Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Vương Mộng Long, một trong những vị chỉ huy nổi tiếng của BĐQ. Đơn vị của ông đã đẩy lui phần lớn Sư Đoàn 320 CS trong trận đánh tại Pleime. Trong trận Ban Mê Thuột, Tiểu Đoàn 82 đang ở Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Liên Đoàn 24 được lệnh rút bằng đường bộ đến các tỉnh ven biển rồi tìm cách liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Len lỏi qua vùng đất do Cộng quân kiểm soát, ăn trộm thực phẩm trong kho của Cộng quân, những BĐQ đã đi bộ hai mươi ngày cho tới khi họ đến được lãnh thổ do quân bạn kiểm soát. (3)
Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy vừa di chuyển từ trại Bến Hét (Quân Khu II VNCH) về tạm trú tại Xuân Lộc để chờ phương tiện chuyên chở tiếp về hậu cứ nhưng qua ngày hôm sau tình hình Xuân Lộc sôi động nên Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng phái đơn vị trên cho SĐ18BB để tăng cường cho Trung Đoàn 43 phòng thủ thị xã Xuân Lộc (Long Khánh). (101)
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Đại Đội Trinh Sát Dù được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, Đại Đội 3 Công Binh Dù, và Đại Đội 1 Quân Y Dù. Tư lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. (102)
Sư Đoàn 3 Không Quân
Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa yểm trợ chiến thuật theo yêu cầu của Tư Lệnh Mặt Trận qua các Chiến đoàn và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. (103)
Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
Chuẩn tướng Trần Quang Khôi là Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ. Lữ đoàn có những đơn vị trực thuộc được thành lập theo nhiệm vụ riêng biệt. Ông có ba chiến đoàn: 315, 318, 322. Mỗi chiến đoàn có một tiểu đoàn BĐQ, một pháo đội pháo binh và một chi đội thiết giáp.
Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Khu III ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Khu III di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ Ấp Hưng Nghĩa đến ngã ba Dầu Giây.
Trung Đoàn 8 / Sư Đoàn 5
Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi với mục đích chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1 tại Dầu Giây.
Các đơn vị Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân
Bốn tiểu đoàn ĐPQ: 340, 342, 353, 367 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Long Khánh Phạm Văn Phúc. Ông Phúc là một sĩ quan Biệt Động Quân, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu khu Long Khánh vào ngày 1 tháng Tư, 1975.
Các Lực Lượng Quân Bắc Việt
Cộng Sản Bắc Việt chia toàn thể nước Việt Nam thành những quân khu. Trên lãnh thổ của VNCH, Bắc Việt còn đặt ra những mặt trận. Mặt trận B-5 là Mặt Trận Trị Thiên Huế, đây là vùng phía Bắc của Quân đoàn I VNCH. Mặt trận B-3 cũng có tên là Mặt Trận Tây Nguyên bao gồm phần núi non ở miền Trung Việt Nam, đây là vùng dọc theo biên giới phía Tây của Quân Đoàn II VNCH. Khu 5 bao gồm các tỉnh đông dân cư dọc theo bờ biển ở miền Trung, đây là phần ven biển của Quân Đoàn II VNCH. Mặt Trận B-2 kiểm soát mọi hoạt động quân sự của Cộng quân trên một địa bàn rộng lớn, từ ranh giới phía Nam của vùng cao nguyên Miền Trung cho đến mũi Cà Mau, cực nam của nước Việt Nam. Mặt Trận B-2 là đối trọng của Quân Đoàn III và IV VNCH.
Trung Ương Cục Miền Nam là bộ chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam, có bí hiệu là Cục “R”. Người Mỹ thường dùng chữ tắt để gọi bộ phận này là COSVN – Central Office for South Vietnam.
Hình 4– Những Mặt Trận trong Chiến Trường Miền Nam của Cộng quân
Sư Đoàn 7/Quân Đoàn 4 Cộng quân
Quân Đoàn 4 Cộng quân được thành lập vào tháng 7, 1974 (4) gồm các sư đoàn 5, 7, 9 cùng với thành phần chỉ huy, thiết giáp, pháo binh, đặc công, và các đơn vị hậu cần. Quân Đoàn 4 trực thuộc Mặt Trận B-2.
Hoàng Cầm là Thiếu Tướng chỉ huy Quân Đoàn 4 từ khi quân đoàn này được thành lập.(5) Ông Cầm đã từng chỉ huy tiểu đoàn trong trận Điện Biên Phủ, 1954 và từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 của Cộng quân. Vào cuối tháng 12, 1964, Bộ Chỉ Huy quân đội Bắc Việt gởi ông ta vào Nam để gia nhập Mặt Trận B-2. Mùa Xuân năm 1965, Hoàng Cầm được cho làm người chỉ huy đầu tiên của Sư Đoàn 9 của Cộng quân, sư đoàn đầu tiên của B-2, thành lập ngày 2 tháng 9, 1965. Ngay sau khi được thành lập, Quân đoàn 4 đã đụng trận khi dẫn đầu trận đánh chiếm Phước Long vào đầu tháng Một, 1975.
Sư Đoàn 341 Cộng quân
Sau khi chiếm được Phước Long, Cộng quân ngưng tấn công trong một thời gian ngắn để sửa soạn cho các trận đánh tới và để thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ sau khi cả một tỉnh của VNCH bị thất thủ kể từ sau Hiệp Định Paris. Bắc Việt cũng dùng thời gian tạm ngưng này để đưa những sư đoàn mới vào củng cố cho chiến trường miền Nam. Một đơn vị được lệnh vào Nam trong thời gian này là Sư Đoàn 341, lúc đó đang đóng tại miền Bắc và là một phần của lực lượng tổng trừ bị của Cộng quân.(6)
Sư Đoàn 341 được thành lập cuối năm 1972 từ những đơn vị khác nhau từ Quân khu 4 của Cộng quân và được bổ túc bằng những lực lượng trừ bị của từ các tỉnh trong vùng. Sư Đoàn 341 có ba trung đoàn: 266, 270, và 273. Giống như những sư đoàn Cộng quân khác, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh. Sư đoàn cũng có trung đoàn pháo cơ hữu, tiểu đoàn phòng không, các nhóm trinh sát, và các đơn vị hậu cần. Nhóm đầu tiên được tung vào chiến trường trong Nam là Trung Đoàn 273 và Tiểu Đoàn pháo 14 cùng với đơn vị chỉ huy và các nhóm tiếp vận. Trên năm trăm xe vận tải đã được dùng để chở lực lượng này vào Nam theo con đường mòn Hồ Chí Minh.
Khi những toán quân của Sư Đoàn 341 CS đến miền Nam vào cuối tháng Hai, họ được chính thức giao cho Quân Đoàn 4 CS. Cục “R” lập tức giao cho sư đoàn này hai nhiệm vụ: thứ nhất, chuyển trung đoàn 273 từ Sư Đoàn 341 sang Sư Đoàn 9. Thứ hai, Sư Đoàn 341 phải “nghiên cứu Quốc Lộ 20 từ cầu La Ngà tới ngã ba Dầu Giây (nơi Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 cắt nhau) và thị xã Xuân Lộc. Chuẩn bị mọi điều cần thiết để tấn công tiêu diệt đối phương khi được lệnh.” (7)
Sư Đoàn 6 Cộng quân
Sư Đoàn 6 được thành lập tháng 8, 1974 cho Khu 7 khi “Cục ‘R’ quyết định thành lập một sư đoàn nhẹ cho mỗi quân khu bằng cách kết hợp những trung đoàn độc lập, cung cấp cho họ lực lượng yểm trợ tác chiến, và thành lập bộ chỉ huy sư đoàn bằng cách cho tư lệnh phó của khu kiêm chức tư lệnh sư đoàn. Hai trung đoàn độc lập của Khu 7 là Trung Đoàn 33 và 4 và đã phối hợp thành Sư Đoàn 6 CS. Sau đó Trung Đoàn 4 được đổi tên thành Trung Đoàn 274. Tư Lệnh của Sư Đoàn 6 CS là Đặng Ngọc Sĩ. Ông Sĩ thuộc nhóm người miền Nam đầu tiên tập kết ra Bắc gọi là Nhóm B500. Sau đó, ông ta đã đi theo con đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập vào miền Nam khi con đường này mới mở vào tháng Mười Hai, 1959. (8)
Tóm Tắt Các Lực Lượng Trong Trận Xuân Lộc
Các Đơn Vị Việt Nam Cộng Hoà
|
Các Đơn Vị Cộng Quân
|
Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Tiểu Đoàn 1/43
Tiểu Đoàn 2/43
Tiểu Đoàn 3/43
Đại Đội 43 Trinh Sát
Tiểu Đoàn 1/48
Tiểu Đoàn 2/48
Tiểu Đoàn 3/48
Đại Đội 48 Trinh Sát
Tiểu Đoàn 1/52
Tiểu Đoàn 2/52
Tiểu Đoàn 3/52
Đại Đội 52 Trinh Sát
Tiểu Đoàn Pháo Binh 180 (155 ly)
3 Tiểu Đoàn Pháo Binh: 181, 182, 183 (105 ly)
Thiết Đoàn 5
Đại Đội 18 Trinh Sát
Tiểu Đoàn 82 BĐQ
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Tiểu Đoàn 1, 8, 9
Đại Đội Trinh Sát Dù
Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù
Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ (chỉ đến được Hưng Nghĩa, cách Xuân Lộc 2.5 km)
Chiến đoàn 315: 1 Tiểu Đoàn, 1 Pháo đội pháo binh, 1 chi đội thiết giáp
Chiến đoàn 318: 1 Tiểu Đoàn, 1 Pháo đội pháo binh, 1 chi đội thiết giáp
Chiến đoàn 322: 1 Tiểu Đoàn, 1 Pháo đội pháo binh, 1 chi đội thiết giáp
Trung Đoàn 8 / Sư Đoàn 5 (đến Hưng Nghĩa sau ngày 15 tháng 4)
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
|
Quân Đoàn 4 CS
Sư Đoàn 7
Trung Đoàn 141
Trung Đoàn 165
Trung Đoàn 209
Trinh Sát
Sư Đoàn 6
Trung Đoàn 33
Trung Đoàn 274
Trinh Sát
Sư Đoàn 341
Trung Đoàn 266
Trung Đoàn 270
Trung Đoàn 273
Trinh Sát
Trung Đoàn 26 Thiết Giáp (9)
Tiểu Đoàn Phòng Không
Trung Đoàn 95B (đến Xuân Lộc 13 tháng Tư, 1975)
Lực Lượng Du Kích Việt Cộng tại Long Khánh
|
Những Trận Đánh ở Quân Đoàn II và III VNCH Trước Trận Xuân Lộc
Từ lâu, tình báo Hoa Kỳ đã nhận xét rằng sự di chuyển những đơn vị đóng ở miền Bắc vào Nam là một dấu hiệu rõ rệt rằng cuộc tổng tấn công sắp xảy ra.
Tháng Ba, 1975 một cuộc tấn công bắt đầu ở Ban Mê Thuột, vùng Cao Nguyên Trung Phần (Bắc Việt gọi vùng này là Tây Nguyên). Cùng lúc đó, Cục “R” cũng được lệnh tấn công vào phía Tây và phía Đông của Quân Đoàn III VNCH. Mục đích của hai mũi tấn công này là để hỗ trợ cho chiến trường Ban Mê Thuột bằng cách cầm chân các lực lượng quân sự của Quân Đoàn III VNCH và chiếm phần đất ở Khu 5 giữa hai Mặt Trận B-2 và B-5. Điều này sẽ cho Cộng quân một hậu cứ an toàn nơi họ sắp đặt một cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn.
Tình báo Mỹ đã nhanh chóng phát giác ra sự chuyển quân của Bắc Việt. Những tài liệu bắt được và một đào binh từ Sư Đoàn 7 CS tiết lộ rằng ngày 18 tháng 2, một đội trinh sát đông đảo đã đến vùng Túc Trưng - Định Quán trên Quốc Lộ 20. (10) Định Quán là một trong 4 quận của tỉnh Long Khánh, nằm trãi dài dọc theo Quốc Lộ 20, phía Tây Bắc của Xuân Lộc, Túc Trưng là một làng thuộc phía Nam của Định Quán nằm cạnh Quốc Lộ 20. Nhiệm vụ của đội trinh sát này chấm dứt vào đầu tháng Ba khi hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 CS, Trung Đoàn 141 và 209, đã đến gần Định Quán. Cùng lúc đó, Sư Đoàn 6 CS đóng ở phía Đông tỉnh Long Khánh tiến đánh những đồn Địa Phương Quân (ĐPQ) của QLVNCH dọc Quốc Lộ 1 ở phía Đông của Xuân Lộc vào đến tỉnh Bình Tuy. Các cuộc tấn công được phối hợp của hai sư đoàn Cộng quân này nhằm mục đích làm mòn yếu sự kiểm soát của chính quyền VNCH ở Long Khánh, để phân tán thật mỏng Sư Đoàn 18 QLVNCH, và ngăn chận Sư Đoàn 18 tăng cường cho nơi khác trong Quân Đoàn III.
Ngày 5 tháng Ba, 1975 Sư Đoàn 7 CS được lệnh giải toả Quốc Lộ 20 phía Bắc Túc Trưng với “trận mở đầu là tràn ngập và chiếm đóng Văn Phòng Chỉ Huy Quân Sự quận Định Quán” (11).
Nằm cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Bắc, quận Định Quán nhỏ bé là một điểm phòng thủ quan trọng của Quốc Lộ 20. Quận này nằm giữa hai làng Túc Trưng và Phương Lâm. Địa Phương Quân cố thủ ở trung tâm quận, và Tiểu Đoàn 2/43 của Sư Đoàn 18 VNCH do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy giữ những căn cứ ở ngoại ô. Nhiệm vụ của Sư Đoàn 7 CS là tiêu diệt lực lượng quân VNCH ở Định Quán và chiếm lấy nơi này để ngăn quân Cộng Hoà từ các tỉnh miền Trung như Lâm Đồng và Đà Lạt rút về Long Khánh. Một khi Định Quán mất, Sư Đoàn 7 CS sẽ vừa tấn công về phía Tây Nam để chiếm cây cầu quan trọng trên sông La Ngà vừa cố gắng chiếm Phương Lâm ở phía Đông Bắc. Nếu thành công, Sư Đoàn 7 CS sẽ tiến ngược về phía Đông Bắc và làm chủ Quốc Lộ 20 lên tới Đà Lạt.
Ngày 17 tháng Ba, Trung Đoàn 141 của Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán. Sau hai ngày giao tranh kịch liệt, Cộng quân với số lượng đông hơn rất nhiều đã đánh bại Tiểu đoàn 377 Địa Phương Quân VNCH và chiếm được vùng đất cao có thể nhìn suốt cả thị trấn. Được tăng phái chiến xa, Trung Đoàn 141 CS nhanh chóng tiến vào trung tâm thị trấn và tiến thẳng đến công sự phòng thủ của Quận Trưởng. Mặc dù lực lượng phòng thủ đã chống trả mãnh liệt, Định Quán thất thủ ngày 18 tháng Ba. Phương Lâm cũng mất cùng ngày.
Ở bên ngoài Định Quán, Tiểu Đoàn 2/43 VNCH cố chận đường tiến của Cộng quân nhưng cuối cùng cũng phải rút lui. Tiểu Đoàn rút về Núi Trân và cố thủ trên vị trí cao nhìn xuống cầu sông La Ngà. Một đại đội Địa Phương Quân trấn giữ cái cầu quan trọng này. Theo kế hoạch đã định trước, Bắc quân tiếp tục tiến về hướng Tây Nam Quốc Lộ 20. Ngày 20 tháng Ba, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 CS tấn công núi Trân. Cộng quân cố đánh bật Tiểu Đoàn 2/43 VNCH nhiều lần nhưng đều bị đẩy lui. Vào đợt tấn công thứ ba, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế dùng hai khẩu đại bác 105 ly bắn thẳng hai quả đạn đại bác chống biển người vào địch, giết chết hàng loạt Cộng quân và chận đứng chúng. (12)
Tuy Cộng quân bị tốn thất nặng nề, đến buổi chiều ngày 20 tháng Ba, sự phòng thủ núi Trân trở nên hết sức khó khăn. Khi Cộng quân tấn công lần nữa, ông Chế đã phải gọi xin Không Quân VNCH dùng phản lực cơ F-5E thả bom yểm trợ mặc dù Cộng quân và lực lượng của ông đang ở rất gần nhau. Những trái bom đầu tiên đã rơi chính xác xuống địch quân ở sườn Đông, nhưng không may, hai trái bom cuối đã rơi chệch vào một tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 2/43. Sau những đợt tấn công liên tiếp của địch và tai nạn thả bom lầm, Tiểu Đoàn 2/43 thiệt hại trên tám mươi người vừa chết vừa bị thương. Không thể tiếp viện cho Tiểu Đoàn, nửa đêm Tướng Lê Minh Đảo cho lệnh rút về Núi Thị, một vùng cao phía Tây Xuân Lộc. Cộng quân chiếm được Núi Trân và tràn xuống cầu sông La Ngà. Không thể chận được địch, vị chỉ huy Địa Phương Quân VNCH là Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay đã gọi pháo binh bắn thẳng vào vị trí chân cầu, ngay nơi ông đang đóng. Đạn pháo đã hạ được khoảng một tá Cộng quân, nhưng cây cầu cầu vẫn rơi vào tay quân Bắc Việt.
Phải đương đầu với sự tấn công liên tục của địch trong khi Trung Đoàn 48 đã đi đánh ở Tây Ninh và Trung Đoàn 52 bận phòng thủ Xuân Lộc, đơn vị giỏi nhất của Tướng Đảo là Trung Đoàn 43 phải trải mỏng để giữ đất và bảo vệ các thị trấn và làng xã trước số địch quân đông hơn nhiều và có thể chủ động tấn công bất cứ lúc nào. Đến cuối tháng Ba, Tướng Đảo không còn lựa chọn nào khác hơn là đem hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43 về giữ Xuân Lộc và để Bắc quân chiếm phần lớn phía Bắc tỉnh Long Khánh.
Cùng một lúc với Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán, Sư Đoàn 6 CS bắt đầu đánh chiếm các vùng. Từ ngày 15 tới 18 tháng Ba, Sư Đoàn 6 chiếm một quãng dài trên Quốc Lộ 2, con đường đi từ Xuân Lộc xuống phía Nam về tới Bà Rịa. Sau đó, sư đoàn này tiến về phía Đông Bắc, và đến ngày 28 tháng Ba, họ đã kiểm soát một đoạn dài 50 cây số của Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc đi về hướng Bình Tuy. Sư Đoàn 6 CS đã cắt đứt con đường huyết mạch từ Sài Gòn ra miền Trung và chận quân đội VNCH ở phía Đông rút về Xuân Lộc.(13) Trong vòng hai tuần, Sư Đoàn 6 và 7 CS đã thành công trong việc “nới rộng các tuyến đường của Cộng quân để họ có thể di chuyển số lượng lớn quân sĩ, quân trang, và quân cụ đến mặt trận quan trọng ở Đông Nam bộ.” (14)
Trước tuần lễ thứ ba của tháng Ba, những đơn vị còn lại của Sư Đoàn 341 CS đã vào tới Mặt Trận B-2. (15) Cuối tháng Ba, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho hai trung đoàn mới đến, 266 và 270, giữ Định Quán thay cho Sư Đoàn 7 CS. Trung đoàn 270 giữ phần đất mới chiếm trong khi Trung Đoàn 266 sửa soạn đánh Túc Trưng, một căn cứ của QLVNCH chỉ cách Núi Trân vỏn vẹn 4 cây số. Sau đó, Trung Đoàn này sẽ tiếp tục đánh xuống phía Nam Quốc Lộ 20 và chiếm mục tiêu kế tiếp là quận Kiệm Tân.Cùng lúc đó, Trung Đoàn 273 được tách khỏi Sư Đoàn 9 CS và trở về tăng cường cho Sư Đoàn 341 CS. (16)
Dĩ nhiên, Tướng Đảo hiểu rõ sự cần thiết phải ngăn chận Cộng quân tiến thêm về phía Nam trên Quốc Lộ 20. Ngày 28 tháng Ba, Ông cho Tiểu Đoàn 2/52 và đội trinh sát của tiểu đoàn tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20 để lấy lại con đường từ cầu La Ngà tới Phương Lâm. Được sự yểm trợ của không quân và pháo binh, Tiểu Đoàn 2/52 đã thành công một phần và chiếm lại Núi Trân (Định Quán). Trong khi Tiểu đoàn đã phải mất nhiều thời gian đánh dẹp hai bên Quốc Lộ 20, họ tiến thẳng vào căn cứ của những trung đoàn Cộng quân thuộc Sư Đoàn 341 CS đang đóng ở chân núi trên một quãng đường gọi là “Vòng chữ C”. Trận chạm súng đầu tiên của Trung Đoàn 270 CS diễn ra dữ dội từ sáng 29 tháng Ba tới chiều hôm sau. Tuy Cộng quân giữ được vị trí, quân VNCH tiêu diệt 50 địch quân và bắt sống nhiều tù binh. Không thể tiến thêm, Tiểu Đoàn 2/52 lui về cố thủ ở Túc Trưng. (17)
Khi thẩm vấn các tù binh, Tướng Đảo ngạc nhiên khi thấy họ quá trẻ. Rõ ràng là nhà cầm quyền Bắc Việt đã vét tận đáy nguồn nhân lực của họ. Nhiều tù binh chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng họ được trang bị những vũ khí tối tân nhất của Liên Sô. Khi họ tiết lộ rằng họ thuộc Sư Đoàn 341, Tướng Đảo biết rằng việc Cộng quân tấn công Xuân Lộc chỉ là vấn đề thời gian. Ngay từ tháng Hai, sự nghi ngờ của ông đã nhen nhúm khi Địa Phương Quân đóng tại núi Chứa Chan đã gây bất ngờ và tiêu diệt một nhóm dò đường của pháo binh Quân Đoàn 4 CS. Giờ đây, với xác nhận là có ba sư đoàn Cộng quân trong khu vực, ông biết chắc là Cộng quân sắp ồ ạt tràn vào Xuân Lộc. Ông lập tức lên kế hoạch phòng thủ.
Lúc đó là cuối tháng Ba. Sau những cuộc tấn công của Cộng quân và những sai lầm về chiến lược và chiến thuật của các lãnh đạo quân sự và dân sự, VNCH đã mất nửa phần đất ở phía Bắc (Quân Đoàn I và Quân Đoàn II) cùng với 40% binh lính và vũ khí. Người dân chạy loạn và đào binh VNCH đã biến Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nhì của miền Nam sau Sài Gòn, thành một vùng hỗn loạn, đầy cướp bóc và phá hoại như trong một cơn ác mộng. Với sự thất thủ của Huế ngày 25 tháng Ba và Đà Nẵng ngày 29 tháng Ba, trận đánh ở Núi Trân, Định Quán và cầu sông La Ngà không được ai chú ý, nhưng thật ra, chiến cuộc trên Quốc Lộ 20 ở phía Bắc và và Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc thực sự mở màn cho chiến trường Sài Gòn.
Những Chuẩn Bị của Cộng Quân cho Trận Xuân Lộc
Với áp lực nặng nề và liên tục của Cộng quân tại phía Tây của Quân Đoàn III VNCH từ giữa tháng Ba, nhất là tại Tây Ninh, cửa ngõ đã bị dùng nhiều lần để xâm chiếm Sài Gòn, cả Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Toà Đại Sứ Mỹ đều bị ám ảnh về một cuộc tổng tấn công của Cộng quân từ phía đó và bớt chú ý đến đe doạ của một cuộc tấn công bằng chiến xa từ phía Đông. Tuy vậy, cả Tướng Đảo và thượng cấp của ông đều không biết những người chỉ huy Cộng quân đã có hai quyết định làm cho QLVNCH có thêm một chút cơ hội xoay sở.
Trong kế hoạch đầu tiên cho cuộc tấn công mùa khô Đông – Xuân 1975, Bắc Việt muốn chiếm một phần Cao Nguyên miền Trung (Tây Nguyên). Sau khi chiếm được Ban Mê Thuột vào ngày 11 tháng Ba, 1975, Bắc Việt đổi kế hoạch và chia cuộc tấn công làm ba phần: đầu tiên là Tây Nguyên, kế đến là Quân Đoàn I của VNCH, rồi đến Sài Gòn.
Trong trận Ban Mê Thuột, Mặt Trận B-2 được lệnh mở nhiều cuộc tấn công để cầm chân lực lượng của Quân Đoàn III VNCH, mở đường liên lạc với các vùng Nam Trung Phần, và chờ lực lượng của Mặt Trận B-3 từ Tây Nguyên tiến về. Khi tình thế thay đổi nhanh chóng và thuận lợi, ngày 19 tháng Ba, 1975, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 CS Hoàng Cầm đã đánh điện khẩn về Trung Ương Cục đề nghị thay vì cho Sư Đoàn 7 đổi hướng để tiến về phía Bắc tấn công Lâm Đồng, hãy để cho sư đoàn đó đi tiếp về phía Nam trên Quốc Lộ 20 và đánh thẳng vào ngã ba Dầu Giây gần thị xã Xuân Lộc và tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. (18)
Đó là một đề nghị táo bạo và có thể đã mang lại kết quả tốt cho Cộng quân. Sự xuất hiện của một sư đoàn Cộng quân ngay sát thủ đô Sài Gòn có thể đưa đến sự hoảng hốt và sụp đổ của VNCH. Tuy vậy, Cục “R” đã bác bỏ đề nghị của Hoàng Cầm và ra lệnh cho ông ta “tiếp tục bành trướng các thông lộ của chúng ta về phía Bắc để tại những bàn đạp cho cuộc tấn công vào Sài Gòn từ Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 phía Bắc và Đông Sài Gòn.” (19)
Quyết định từ chối này là điều lạ vì trong thời gian đó Tướng CS Trần Văn Trà cũng cố xin Hà Nội cho ông ta hoạch định tương tự: tấn công Sài Gòn lập tức mà không chờ những lực lượng Cộng quân khác tăng cường. Mặc dù Bộ Chỉ Huy Tối Cao lúc đầu bãi bỏ đề nghị của ông Trà, sau đó Hà Nội bắt đầu xét lại vì sự kiên trì của ông Trà. Trưa 29 tháng Ba, Lê Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng CSVN gởi một điện thư cho Phạm Hùng, Uỷ Viên Chính Trị đặc trách Cục “R” và bảo ông Hùng tìm cách lợi dụng tình thế hỗn loạn vì sự xụp đổ của Quân Đoàn I và II của VNCH. Thư viết “Tôi hoàn toàn đồng ý với đồng chí là trong thời điểm này cần ra tay nhanh nhẹn, quyết đoán, và gan dạ… Tôi muốn nhấn mạnh một yêu cầu cấp thiết… lập tức thi hành công tác quan trọng là thi hành một cuộc cô lập và bao vây Sài Gòn” (20) .Thực ra, điều ông Duẩn nói là “chúng ta có thể coi là cuộc tiến chiếm Sài Gòn đã bắt đầu.” (21)
Ông Trà hết sức phấn khởi vì ông ta có thể đánh Sài Gòn ngay mà không phải chờ các lực lượng bổ xung từ Bắc Việt: “Thư của anh Ba gởi cho Cục “R” xác định tình thế sẽ biến đổi nhanh chóng, và chúng ta cần tấn công mạnh hơn và tiến về gần Sài Gòn hơn.” (22) Trà được lệnh dùng những lực lượng có sẵn của B-2 để tấn công thẳng vào vòng đai quanh Sài Gòn và không chờ lực lượng tăng cường từ Tây Nguyên.
Cục “R” và Chi Bộ Quân Sự của Đảng CSVN lập tức họp để đưa ra một chương trình hành động. Họ quyết định rằng Mặt Trận B-2 sẽ tấn công thẳng vào vòng đai quanh Sài Gòn vào đầu tháng Tư. Lực lượng từ vùng sông Cửu Long sẽ đánh lên từ phía Nam, trong khi đó Quân Đoàn 4 CS sẽ mở ngay cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tiêu diệt Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn Thiết Giáp, lực lượng nòng cốt của Quân Đoàn III VNCH, sau đó sẽ tiến sát vào Biên Hoà. (23) Cuộc tấn công từ phía Đông được coi là chính yếu.
Sau đó, ông Trà tóm tắt những quyết định của Chi Bộ Đảng và kế hoạch tấn công. Ông Cầm được lệnh mới – chiếm Xuân Lộc rồi tiến chiếm căn cứ không quân Biên Hoà ở ngoại ô Sài Gòn. Sư Đoàn 6 của Quân Khu 7 với hai trung đoàn được giao cho Quân Đoàn 4 của ông Hoàng Cầm. Tư lệnh và Chính Uỷ của Quân Khu 7 hợp lực với bộ chỉ huy quân đoàn để đặt ra kế hoạch. Ông Cầm xin ông Trà hoãn ngày tấn công đến 9 tháng Tư, 1975 để có thì giờ chuẩn bị và ông Trà đồng ý. (24)
Cuối ngày 3 tháng Tư, ông Cầm và những người khác trở về bộ chỉ huy hỗn hợp lúc đó đóng ở phía Đông Nam cầu La Ngà. Ông Cầm lập tức ra lệnh cho Sư Đoàn 7 CS đang trên đường tiến về Đà Lạt quay trở lại để tiến về phía Nam. Trong khi ông Cầm nói rằng các thuộc cấp của ông nghiền ngẫm tất cả mọi kế hoạch tấn công Xuân Lộc, dưới áp lực có thể đến từ ông Trà về việc tiến quân nhanh chóng, và chỉ còn năm ngày trước khi tổng tấn công, ông Cầm và những người chỉ huy cấp dưới đã phải làm một quyết định chiến lược duy nhất có thể: đánh thẳng vào thủ phủ của thị xã. Ông Cầm thấy đó là cách duy nhất để chiếm lấy thị xã và ngã ba Dầu Giây quan trọng. Tuy vậy, ông ta lo ngại về tình trạng của Sư Đoàn 7 CS – đã mệt mỏi vì đánh nhau liên tục, vì đây chính là “đơn vị tấn công chính” của ông.(25)
Đảng uỷ Đảng CS tại địa phương Xuân Lộc được hỏi ý để “biết thêm về tình hình địch, tình hình bên ta, và kết hợp cuộc tấn công với sự nổi dậy trong dân chúng.” (26) Cầm viết thêm, “Đảng uỷ đã chuẩn bị cho chúng tôi, cho chúng tôi những nâng đỡ cần thiết và những địa điểm thiết yếu để quan sát mục tiêu trong lúc chúng tôi không có thì giờ thực hiện một kế hoạch thám sát từng bước, đầy đủ, và có hệ thống.” (27)
Sư Đoàn 7 CS ở quá xa để thám sát vùng chiến trường. Tuy nhiên, Sư Đoàn 341 ở gần đó đã tận dụng sự “giúp đỡ cần thiết” của các lực lượng địa phương (28) để hoàn tất một cuộc nghiên cứu về vùng họ sắp tiến đánh. Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 341, các Trung Đoàn Trưởng và toàn thể bộ chỉ huy vượt qua sông La Ngà để cùng các đảng viên và các uỷ viên quân sự địa phương và thảo luận về địa hình và những diễn biến có thể xảy ra khi họ tấn công. Họ đồng ý là du kích địa phương sẽ dẫn đường cho các đơn vị tấn công và một đại đội du kích sẽ cố kích thích để dân chúng nổi dậy và chịu trách nhiệm giữ tù binh.
Sau khi quan sát đường tới Xuân Lộc từ hướng Tây Bắc và tình hình trong thị xã, ngày 6 tháng Tư bộ chỉ huy Sư Đoàn 341 họp và đề ra kế hoạch tấn công rồi gởi tới Quân Đoàn 4 CS xin được chấp thuận. Quân đoàn đồng ý và chia công tác như sau: Trung Đoàn 266 sẽ tấn công những điểm trong thị xã , Trung Đoàn 270 sẽ tấn công Gia Tân (một phần của quận Kiệm Tân) và Núi Thị, nơi có một tiểu đoàn pháo binh VNCH, một trung tâm truyền tin, và Tiểu Đoàn 2/43 VNCH. Trung Đoàn pháo 55 CS sẽ yểm trợ, và Tiểu Đoàn 12 AAA sẽ phụ trách phòng không.
Sư Đoàn 6 CS với hai Trung Đoàn 33 và 274 sẽ đi vòng phía Nam thị xã và tấn công ngã ba Dầu Giây và những điểm trọng yếu dọc theo Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc giữa thị xã và thị trấn Hưng Nghĩa.
Với vai trò chính yếu trong cuộc tấn công, Sư Đoàn 7 CS tới địa điểm tập trung tối ngày 7 tháng Tư, 1975. Thoạt đầu họ được lệnh tiêu diệt Trung Đoàn 48 VNCH và chiếm ngã tư giữa Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 2 tại Tân Phong phía Nam Xuân Lộc. Trong lúc bộ tham mưu Sư Đoàn 7 CS đang lên kế hoạch thì họ được lệnh thay đổi chiến lược. Sư Đoàn 7 CS được lệnh phải chiếm thị xã trước rồi mới tập trung vào chuyện tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. Với ít hơn một ngày để làm kế hoạch tấn công mới, Sư Đoàn 7 CS quyết định:
“Trung Đoàn 165 CS sẽ dẫn đầu mũi tấn công chính vào căn cứ hậu cần và bộ chỉ huy Sư Đoàn 18 ở Đông Bắc thị xã (và căn cứ của Trung đoàn 52). Tiểu Đoàn 5 CS, đơn vị tấn công chính, sẽ chọc thủng phòng tuyến của địch ở phía Đông Nam; Tiểu Đoàn 6, đơn vị tấn công thứ nhì, sẽ đánh từ phía Nam – Đông Nam. Tiểu Đoàn 4 CS ở đằng sau Tiểu Đoàn 5 CS làm lực lượng trừ bị. Trung Đoàn 209 CS sẽ chiếm Quốc Lộ 1 từ Suối Cát (một làng nhỏ cách thị xã khoảng tám cây số về phía Đông) tới ngã tư Tân Phong, rồi tấn công vào thành phố từ phía Nam, và sẵn sàng tấn công các lực lượng tăng viện của địch.” (29)
Quân đoàn 4 CS chuyển bộ chỉ huy chính tới một địa điểm ở Đông Bắc Xuân Lộc. Quân Đoàn lo phối hợp pháo binh cho tất cả các đơn vị và thành lập đường tiếp vận cho ba đơn vị tấn công chính của quân đoàn. Ngày 7 tháng Tư, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Bắc quân, Cục “R”, và Uỷ Ban Quân Sự họp và phê chuẩn kế hoạch cuối cùng về cuộc tấn công Sài Gòn.(30)
Theo kế hoạch của Cộng quân, cuộc tấn công sẽ được thi hành qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu “liên quan tới những tấn công để cắt đứt liên lạc, cô lập, và bao vây địch… Nếu quân ta có thể cắt đứt Quốc Lộ 4 và tiêu diệt Sư Đoàn 18… kế tiếp ta sẽ đánh thẳng vào Sài Gòn không cần chờ tiếp viện.” (31)
Giờ “H” được định vào 05:30 sáng ngày 9 tháng Tư. Nếu tấn công của Cộng quân vào Xuân Lộc đưa đến một cuộc rút lui vội vã của QLVNCH thì sẽ không còn gì ở giữa Quân Đoàn 4 CS và Sài Gòn ngoài vài đơn vị Biệt Động Quân, cảnh sát địa phương, và hai Lữ Đoàn Nhảy Dù VNCH. Sẽ có những hỗn loạn trong Sài Gòn, hàng ngàn người Mỹ và đồng minh Việt Nam của họ, cùng với nhân viên và bạn hữu sẽ không di tản được nếu không dùng quân đội Mỹ và không lực của Mỹ.
Chuẩn Bị Của Sư Đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà
Hình 4 – Bản Đồ Xuân Lộc
Trong khi Cộng quân chuẩn bị tấn công, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo bận rộn tổ chức phòng thủ. Trước hết, ông xem xét lại cho thật kỹ lưỡng địa hình chung quanh thị xã. Xuân Lộc nằm lọt ở giữa rất nhiều đồn điền trồng chuối và cao su, tại chân núi phía cực Nam của rặng núi Trường Sơn trải dài từ biên giới Trung Hoa đến biển, làm thành xương sống của bán đảo Đông Dương. Vùng đồi núi phía Tây thị xã đầy rừng rậm bao phủ và có nhiều sông suối nhỏ chạy ngang dọc, ở phía Đông đất mở rộng hơn mặc dù có núi Chứa Chan sừng sững.
Dù Tướng Đảo có hơn một tuần để chuẩn bị chống cuộc tấn công của Cộng quân, lực lượng Sư Đoàn 18 VNCH phòng thủ Xuân Lộc phải trải mỏng. Hai trong ba trung đoàn đang ở ngoài thị xã: Trung Đoàn 52 phải canh giữ Quốc Lộ 20 ở Dầu Giây cách Xuân Lộc khoảng 10 cây số, trong khi Trung Đoàn 48 đang tham chiến ở Tây Ninh, gần 200 cây số về phía Tây. Đầu tháng Tư, 1975, Tướng Đảo chỉ có Trung Đoàn 43, lực lượng hậu cần, một chi đội thiết giáp và đại đội trinh sát của Sư Đoàn để phòng thủ Xuân Lộc. Bốn đơn vị Địa Phương Quân dưới quyền Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc giúp canh giữ phía Bắc Xuân Lộc và khu vực Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Tuy nhiên, phía sau lưng của Tướng Đảo, phía Nam của thị xã hoàn toàn bỏ ngỏ, đúng chỗ Sư Đoàn 7 CS dự định tấn công. Tướng Đảo biết rằng ông cần cả Sư Đoàn để chống trả những trận tấn công của Cộng quân. Cơ hội đến với ông vào ngày 3 tháng Tư khi Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH đến thăm ông. Trong lúc tường trình về những chuẩn bị chống địch, Tướng Đảo xin Tướng Toàn cho Trung Đoàn 48 về lại với Sư Đoàn. Tướng Toàn lưỡng lự nhưng ông Đảo kiên trì nói với ông Toàn rằng nếu Sư Đoàn 18 VNCH được giao nhiệm vụ giữ Xuân Lộc, ông cần phải bảo vệ phía sau lưng Xuân Lộc. Để thuyết phục ông Toàn, ông Đảo nói rằng ông dự định dùng Trung Đoàn 48 để lấy lại Núi Chứa Chan lúc đó đang bị Cộng quân chiếm đóng. Cuối cùng, Tướng Toàn đồng ý cho Trung Đoàn 48 về, nhưng ông lại ra lệnh cho ông Đảo gởi Tiểu Đoàn 2/48 đến Hàm Tân, một thị xã ven biển để giữ an ninh cho những đoàn dân chạy loạn đang từ Quân Đoàn II VNCH đổ về.
Trung Đoàn 48 được trả về ngày 5 tháng Tư. Ngày 7 tháng Tư, Tướng Đảo cho Trung Đoàn đi dọn đường cho tới Suối Cát phía Đông Nam Xuân Lộc, trên đường đi Núi Chứa Chan nhưng không tiến thêm. Để Tiểu Đoàn 3/48 ở lại giữ Suối Cát, ông đem Tiểu Đoàn 1/48 về giữ ngã tư Tân Phong ngay phía Nam thị xã Xuân Lộc và dùng tiểu đoàn này làm quân trừ bị cùng với chi đội 1 và 2 của Thiết Đoàn 5, đơn vị thiết giáp của Sư Đoàn 18 VNCH.
Nhận thức được tai hoạ ở Quân Đoàn I và II VNCH khi nhiều đơn vị tan rã toàn bộ vì binh sĩ đào ngũ để về nhà cứu vợ con, ông Đảo cho lực lượng tiếp vận, quân y, và tối đa số gia đình binh sĩ và thường dân trong vùng di chuyển về Long Bình, một căn cứ hậu cần rất lớn gần Biên Hoà. Những thường dân còn lại núp trong hầm trú ẩn gần Dinh Tỉnh Trưởng.
Quan trọng hơn, ông Đảo chuyển lính phòng thủ thị xã ra ngoại ô với hy vọng là pháo của địch sẽ tập trung vào trung tâm thị xã. Ông cho đại đội trinh sát, chỉ huy bởi một Đại Uý rất gan dạ, trang bị đại liên 50 ly và đóng gần trường Trung Học Hoà Bình, ven Tây Bắc của thị xã. Ông Đảo cũng thành lập ba bộ chỉ huy riêng rẽ: bộ đầu tiên đóng ở nhà riêng của ông, bộ thứ nhì ở ngã tư Tân Phong phía Nam thị xã, và bộ thứ ba ở một vườn trái vải phía Đông của Tân Phong và phía Bắc của Quốc Lộ 1. Trong khi các binh sĩ xuống hầm, ông tiếp tục nghiên cứu địa hình, cố gắng đoán cho được kế hoạch tấn công của Cộng quân. Không lâu sau, ông nhận ra: không còn nghi ngờ rằng Cộng quân sẽ tiến quân theo con đường họ đã dùng để tấn công Xuân Lộc vào Tết Mậu Thân, 1968 với vài thay đổi dựa trên lực lượng hiện tại của họ. Lượng định của Tướng Đảo đã đúng.
Tướng Đảo quyết định giăng bẫy đợi địch. Ông gọi đó là cái “máy nghiền thịt”. Ông tạo ra một khu vực tử thần bằng cách đặt pháo binh của ông gồm 36 khẩu đại bác (24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly) trong một tam giác phía Tây Xuân Lộc, mỗi đỉnh tam giác có 4 đại bác 155 ly và 8 đại bác 105 ly. Ở đỉnh thứ nhất của tam giác, Ông để 10 khẩu đại bác cùng với Tiểu Đoàn 2/43 trên Núi Thị, còn 2 khẩu 105 ly và phần còn lại của Trung Đoàn 43 thì để ở bên ngoài thị xã. Ở đỉnh thứ hai của tam giác, ông Đảo đặt 12 khẩu đại bác tại Trung Đoàn 48 ngay phía Tây của Tân Phong. Ở đỉnh thứ ba có tiểu đoàn pháo binh trực thuộc Trung Đoàn 52 cùng với Trung Đoàn này tại Ấp Nguyễn Thái Học.
Lực lượng của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc có 2 đại bác 105 ly để phòng thủ khu vực của họ trong thị xã. Thêm vào đó, nhiều ngày trước trận chiến, Quân Đoàn III có gởi cho ông Đảo hai khẩu đại pháo tự hành 175 ly, và ông giữ 2 đại pháo này tại bộ chỉ huy thứ hai tại Tân Phong. Quan trọng hơn cả, chỉ huy pháo binh của Tướng Đảo là Đại Tá Ngô văn Hưng đã giữ vai trò trọng yếu trong việc sắp xếp, chuẩn bị pháo binh. Ông Hưng ra lệnh cho xe ủi đất để đào những hố đặt súng đại bác và những hầm để kéo đại bác vào sau khi bắn. Ông Hưng cũng đích thân kiểm soát tất cả súng đại bác. Tướng Đảo cho mở rộng hệ thống hầm và giao thông hào có sẵn không những để chứa các khẩu pháo mà cho tất cả lực lượng binh sĩ bảo vệ thị xã. Mục đích của ông là vô hiệu hoá sự phản pháo của Cộng quân. Nỗ lực này đã đạt được kết quả mong muốn, như ông nói, “Pháo của họ (Cộng quân) không bao giờ tìm được chúng tôi.” Tuy vậy, sự chiết giảm tối đa các viện trợ quân sự cho Việt Nam của Quốc Hội Hoa Kỳ trong tài khoá 1974-75 đã làm cho dự trữ nhiên liệu, võ khí, và đạn dược, nhất là đạn pháo binh xuống thấp thê thảm. Vì biết trước là Cộng quân sẽ đánh Xuân Lộc, trước đó ông Đảo đã thực hiện hai chương trình.
Thứ nhất, ông dự trữ đạn pháo binh. Từ tháng Hai, ông đã giảm bớt 20% số đạn sử dụng hàng ngày. Thứ hai, ông đã thành lập một trung đội trinh sát trong mỗi tiểu đoàn tác chiến để “tìm địch”. Dù Trung Đoàn 341 CS có nhiều hoạt động trinh sát, ông Đảo không thụ động khi quân địch tăng cường dọ thám. Ông dùng những trung đội trinh sát để càn quét những vùng quanh Xuân Lộc. Ngày 6 tháng Tư, trung đội trinh sát Tiểu Đoàn 2/43 phục kích và tiêu diệt một lực lượng thám thính của Cộng quân ở núi Ma, một điểm cao quan trọng ở Tây Bắc Xuân Lộc. Quân VNCH sau đó đóng ở những ngọn đồi khác để ngăn ngừa Cộng quân trở lại và dùng chúng làm những trạm quan sát.
Giữa trưa ngày 6 tháng Tư, Tướng Đảo được báo có một lực lượng Biệt Động Quân (BĐQ VNCH), Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân biên phòng từ Quân Đoàn II, mới đến từ căn cứ bỏ lại ở tỉnh Quảng Đức, sau một cuộc chạy thoát khủng khiếp qua vùng Cộng quân kiểm soát. Dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn 82 đã đi bộ qua rất nhiều cây số rừng rậm để đến được thành phố Bảo Lộc trong tỉnh Lâm Đồng. Ông Long đã giữ được mạng sống của phần lớn tiểu đoàn của ông và gần năm trăm đồng bào khi đi qua rừng rậm. Tướng Toàn vội gởi đại diện của bộ chỉ huy BĐQ để dàn xếp trực thăng đón những người sống sót mệt lả. Tiểu Đoàn 82 sau đó được đưa tới Xuân Lộc, Tướng Đảo cung cấp đạn dược và thực phẩm cho họ, để họ đóng ở phi trường và để họ tạm dưới quyền Trung Đoàn 43. Tướng Toàn nói với Tướng Đảo rằng sáng ngày 9 tháng Tư đưa Tiểu Đoàn 82 về Sài Gòn để bổ xung lực lượng. Những chiến sĩ không thể ngờ rằng họ bước từ một chảo dầu nóng vào một đám cháy.
Chiều ngày 8 tháng Tư, Tướng Đảo nhận được một tin khẩn từ Quân Đoàn III VNCH. Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, được tìm thấy đã chết trong văn phòng của ông ta với một vết thương rõ ràng là tự bắn. Ông Đảo luôn coi ông Hiếu là một sĩ quan tham mưu lỗi lạc và người bạn thân thiết, do đó, ông vội đáp trực thăng về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hoà. Ông cũng muốn nhân dịp này bay vòng quanh Xuân Lộc nhiều lần để xem xét lại những vị trí phòng thủ vừa dựng lên, đặc biệt là ở vùng đất trống trải phía Đông thị xã. Sau những buổi thảo luận tại trung tâm chỉ huy của quân đoàn, ông Đảo bay về Long Bình để làm việc với Trưởng Phòng Tiếp Vận của Quân Đoàn III. Ông quyết định nghỉ đêm tại Long Bình.
Khi đêm xuống ngày 8 tháng Tư, binh lính ở Xuân Lộc được sắp đặt như sau:
Trung Đoàn 52 đã được rút về để bảo vệ ngã ba chiến lược ở Dầu Giây; Tiểu Đoàn 1/52 ở phía Nam, sát Dầu Giây; Tiểu Đoàn 2/52 cùng bộ chỉ huy trung đoàn, pháo binh, và các thiết vận xa M113 của chi đội thiết giáp 3/5 đóng gần giao lộ về phía Bắc. Đơn vị xa nhất ở phía Bắc của ông Đảo, Tiểu Đoàn 3/52 phòng thủ vùng đất cao dọc Quốc Lộ 20 và có một đại đội đóng ở trên Đồi Móng Ngựa, một ngọn đồi nhỏ nằm cạnh Quốc Lộ 20 gần Núi Ma. (32)
Đi xa hơn về phía Đông, Tiểu Đoàn 2/43 giữ vùng Núi Thị, trong khi đại đội trinh sát đóng ở trường Trung Học trên lối vào thị xã ở phía Tây Bắc, và hai tiểu đoàn ĐPQ 340 và 342 đóng ở sườn bên phải. Tiểu Đoàn 1/43 và 3/43 giữ những lối vào Xuân Lộc ở hướng Đông. Cách bố trí trên để lại một lỗ hổng đáng lo ở giữa Trung Đoàn 52 và thị xã, chỗ mà Tướng Đảo chỉ có thể trám vào bằng đại bác.
Tiểu Đoàn 1/48 và hai chi đội của Thiết Đoàn 5 được giữ làm trừ bị, trong lúc Tiểu Đoàn 2/48 được gởi đi Hàm Tân. Tiểu Đoàn 3/48 đóng hai bên trên Quốc Lộ 1 phần đi từ thị xã về phía Đông.
Tiểu Đoàn 82 BĐQ phòng thủ phi trường Xuân Lộc. Hai tiểu đoàn ĐPQ, 353 và 367, đóng ở các vị trí trong thị xã.
Diễn Tiến Trận Xuân Lộc
Hình 5 - Phóng Đồ Kế Hoạch Điều Quân Trận Xuân Lộc
Buổi sáng 9 tháng Tư, 1975, Cộng quân vào vị trí.
Sư Đoàn 6 CS băng qua Quốc Lộ 2 phía Nam Xuân Lộc mà không bị phát hiện và di chuyển nhanh chóng xuyên qua những đồn điền cao su phía Bắc về phía Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến gần tới hàng rào phòng thủ của quân VNCH. Lúc 05:00 giờ sáng, tất cả mọi đơn vị của Quân Đoàn 4 CS báo cáo rằng họ đã tới vị trí định sẵn. Pháo binh Cộng quân cũng sửa soạn xong toạ độ súng và chờ lệnh khai hoả.
Trong khu vực Sư Đoàn 341, mười phút trước giờ ấn định khai hoả, quan sát viên thấy sương mù chưa hết hẳn nên họ xin chờ thêm mười phút. Quân Đoàn 4 CS chấp thuận. Đúng 05: 40 sáng 9 tháng Tư, 1975, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn ra lệnh bắt đầu. Với những tiếng nổ long trời, pháo binh từ Quân Đoàn 4 CS và các sư đoàn trực thuộc đồng loạt tác xạ. (33)
Trong suốt một tiếng đồng hồ, pháo binh Cộng Sản rót vào Xuân Lộc đạn đại bác, súng cối và hoả tiễn. Từ hai đến ba ngàn quả đạn đã bắn vào thị xã nằm trơ trọi (34). Họ tàn phá trung tâm thị xã, biến nhiều công trình kiến trúc thành gạch vụn. Tuy vậy, dù đã thám thính trước, Cộng quân không hề biết rằng Trung Đoàn 43 và ĐPQ VNCH đã chuyển ra ngoại ô. Phần lớn đạn pháo rớt vào nhà dân, các binh sĩ VNCH trong hầm và giao thông hào không bị thiệt hại gì. Đến 6 giờ 40, hai quả pháo hiệu loé sáng trong bầu trời bình minh. Đó là dấu hiệu cho xe tăng và bộ binh tùng thiết CS tiến vào. Cán bộ và binh lính của Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến đến sát gần binh sĩ của Sư Đoàn 18 VNCH đang mai phục.
Ngay khi quả pháo đầu tiên bắn đi lúc 05:40 giờ, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến của Sư Đoàn 18 VNCH gọi điện cho Tướng Lê Minh Đảo ở Long Bình. Ông ta báo cáo là nhân sự ở bộ chỉ huy đều vô sự nhưng tư gia của Tướng Đảo, địa điểm của Bộ Chỉ Huy 1 đã bị trúng đạn. Tướng Đảo ra lệnh đem Bộ Chỉ Huy 1 đến chung địa điểm của Bộ Chỉ Huy 2 tại Tân Phong rồi lên trực thăng bay ngay tới chiến trường. Trên đường đi, Tướng Đảo điện cho các Trung Đoàn Trưởng để hỏi về tình hình. Mọi người đều cho biết là họ không sao. Tướng Đảo nói chờ lệnh của ông khi ông về tới.
Trong khu vực phía Đông, Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 CS dẫn đầu cuộc tấn công. Tất cả tám chiếc xe tăng của Sư Đoàn 7 đều tham dự (35). Nghĩ là lính VNCH sẽ bỏ chạy ngay sau khi pháo kích ngưng, Cộng quân tự tin tiến lên. Họ phải đi lên dốc, băng qua những khu đất trống, vượt qua 8 hàng rào kẽm gai, nhiều bãi mìn, và leo lên một bờ đất trước khi đến giao thông hào của VNCH.
Trung Đoàn 165 CS đã nhanh chóng phải ngừng lại. Chiếc tăng T-54 dẫn đầu trúng mìn chống chiến xa, đứt tung xích bên trái và trở thành vô dụng (36). Pháo binh của QLVNCH lập tức nhả đạn, và khi trời vừa sáng, chiến đấu cơ A-37 và F-5 của VNCH bắt đầu không kích vào đoàn Cộng quân bị lộ. Trong khi các chiến xa tiếp tục đi tới, Cộng quân cố tiến lên lần thứ hai. Nhưng, Trung Đoàn 43 VNCH đã cho họ một bất ngờ mới: phi đạn 2.75 inch gắn trên hai càng và bắn bằng điện từ những cục pin đơn giản (37). Oanh tạc của không quân và phi đạn của quân VNCH đã tiêu huỷ bốn xe tăng của Cộng quân và chận đứng Trung Đoàn 165 CS.
Trung Đoàn 209 CS với nhiệm vụ mở đường Quốc Lộ 1 từ hướng Đông đã đụng với Tiểu Đoàn 82 BĐQ VNCH tại phi trường Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 82 VNCH chận đứng hai tiểu đoàn Cộng quân và gây tổn thất nặng cho địch (38).
Tiểu Đoàn 3/48 VNCH từ Suối Cát rút về để giúp phòng vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 18 VNCH ở Tân Phong.
Như thế là cuộc tấn công chính của Tướng CS Hoàng Cầm đã bị chận lại. Trong sách “Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân” đã ghi: “không cuộc tấn công nào của Sư Đoàn ta vào Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 18 của ‘Ngụy.’ và phía sau Trung Đoàn 52 ‘Ngụỵ’ đạt được thành công. Quân ta giằng co với địch để giành từng giao thông hào, từng căn nhà, từng con đường.” (39)
Cuộc tấn công bị chận lại lập tức không phải chỉ vì oanh tạc, pháo binh, và bộ binh VNCH nhưng cũng vì Tướng Đảo giao cho mỗi người trong Sư Đoàn một vị trí phòng thủ. Như ông giải thích, “Tất cả mọi người đều chiến đấu. Ngay cả sĩ quan tiếp vận và nhân viên làm việc ở căn cứ cũng đào hầm phòng thủ. Thêm vào đó, những người mất sức sắp được giải ngũ hoặc đã bị thương đều được cấp phát súng đạn và giao vị trí phòng thủ. Những người này đánh rất hiệu quả và tiêu diệt được nhiều quân địch.”
Sư Đoàn 341 CS lúc đầu khá hơn ở phía Tây thành phố. Với địa bàn hoạt động đỡ trống trải và đã có dịp quan sát kỹ càng những con đường vào thị xã, ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 266 CS đã lọt qua năm lớp kẽm gai đầu tiên ở gần trường Trung Học thị xã và “Vòng Cua Heo” nơi Quốc Lộ 1 đánh một vòng lớn vào thị xã. Tư Lệnh Sư Đoàn 341 CS đi theo Trung Đoàn 266 trong lúc tấn công. Tuy thế, pháo binh VNCH mau chóng bắn vào Cộng quân và một phi cơ C-119 rải đạn xuống chỗ bị xâm nhập. Đại đội trinh sát ở trường Trung Học Hoà Bình góc Tây Bắc thị xã bắn tung Cộng quân bằng đạn đại liên. Những người lính ít kinh nghiệm của Trung Đoàn 266 CS cố gắng mở một ngõ xâm nhập thứ hai về hướng Đông và đã đi thẳng vào nơi hai tiểu đoàn 340 và 342 ĐPQ VNCH đang cố thủ. Cuối cùng, sau khi bị tổn thất nặng, các nhóm quân của Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 Bắc Việt cũng tìm được lối đi vòng qua trường học và xâm nhập được khoảng 300 mét vào trong thị xã nơi họ chiếm đóng ở những nơi gần khu chợ, nhà thờ, bến xe đò, và bộ chỉ huy thị xã, tuy vậy lính VNCH vẫn giữ được phần lớn thành phố. (40)
Xa hơn về phía Tây, Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 CS tiến đánh Núi Thị và Gia Tân. Như những lực lượng khác của Sư Đoàn 18 CS, Tiểu Đoàn 2/43 đã chống cự mãnh liệt tại Núi Thị. Trong một thời gian ngắn, Trung Đoàn 270 CS cũng phải rút lui, để lại hàng tá tử thi và thương binh.
Không phí thời gian, vào lúc 11:00 giờ, ông Đảo cho lực lượng trừ bị gồm Tiểu Đoàn 1/48 và thiết giáp liên đoàn 5 phản công ở phía ngoài thị xã. Tiểu Đoàn 1/48 VNCH nhanh chóng tiến lên nhưng Sư Đoàn 341 CS cho một tiểu đoàn của Trung Đoàn 270 CS đánh vào hông cánh quân 1/48. Trung Đoàn 270 CS cũng được đem tới để chận cuộc phản công của 1/48, do đó vòng vây của VNCH không thể khép kín. Tuy vậy, pháo binh VNCH cùng với những cuộc oanh tạc hữu hiệu của không quân VNCH đã liên tiếp tìm ra những điểm tập trung của Cộng quân và trút xuống đó những loạt đạn pháo và bom. (41)
Bên trong thị xã Xuân Lộc, Tướng Đảo cho nhổ sạch những đơn vị Cộng quân đã lọt vào thị xã. Tiểu Đoàn 1/43 VNCH và hai tiểu đoàn ĐPQ của Đại Tá Phúc, được yểm trợ bằng không kích chính xác, giữ vững bộ chỉ huy tiểu khu và chiếm lại phần lớn những vị trí Cộng quân đã chiếm trước đó trong ngày. Dù một vài người lính của Trung Đoàn 266 CS cố bám được vài toà nhà, đến cuối ngày đầu, Sư Đoàn 341 CS đã bị thiệt hại nặng nề với gần 600 người chết và bị thương. (42)
Trong ba sư đoàn Cộng quân 7, 341, và 6, Sư Đoàn 6 CS thành công nhất vì họ đương đầu với ít phản công nhất. Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 CS tấn công những vị trí của ĐPQ dọc Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc, chiếm được Ấp Trần Hưng Đạo và đèo Mẹ Bồng Con., khoá Quốc Lộ 1 giữa Xuân Lộc và ngã ba Dầu Giây. Trung Đoàn 33 còn lại của Sư Đoàn 6 CS tấn công các ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc ở phía Tây Dầu Giây. Họ chiếm được Hưng Lộc nhưng bị lực lượng tự vệ ở Hưng Nghĩa đẩy lùi và cuộc tấn công Dầu Giây cũng bị Tiểu Đoàn 1/52 đẩy lui. (43)
Đến buổi chiều Cộng quân thiệt hại gần 700 chết và bị thương, phía VNCH tổn thất dưới 50. Sư Đoàn 18 vẫn tiếp tục giữ vững vị trí. Lần đầu tiên trong vòng năm tuần lễ, quân đội VNCH không bị đánh bật ra, thay vào đó lại chống cự mạnh mẽ làm ngay cả quan sát viên Tây Phương ngạc nhiên. Sự phản công dũng mãnh làm chấn động quân đội miền Bắc, như họ viết, “Phi cơ địch cất cánh từ Biên Hoà… ném bom dồn dập xuống Xuân Lộc. Trận chiến trở thành một cuộc giành giật khó khăn và đẫm máu, những đơn vị của ta bị tổn thất nặng… Kho đạn pháo binh của ta đã cạn. Hơn nửa xe tăng của ta đã bị tiêu huỷ.” (44)
Quân VNCH bắt được ba mươi tù binh, và trực thăng chở họ về Sài Gòn thẩm vấn. Khi đêm buông xuống, Bắc Việt cố gắng tiếp tế cho lính của họ trong thành phố và ngoại ô. Quân Đoàn 4 CS tin là họ đã giữ được nửa thành phố và đã cắt Quốc Lộ 1 đoạn từ Dầu Giây đến đèo Mẹ Bồng Con nhưng cũng công nhận là họ không đạt được mục tiêu. Tuy vậy, họ quyết định giữ nguyên chiến thuật: đánh trực diện.
Hoàng Cầm chấp thuận bộ chỉ huy tiền phương của CS đưa thêm đơn vị trừ bị vào chiến trường. (45) Sư Đoàn 7 đưa Trung Đoàn 141 với một tiểu đoàn phòng không vào vị trí đánh trực tiếp. Trung Đoàn 165, 209 và thêm các chiến xa lại sẵn sàng tấn công từ phía Đông. Sư Đoàn 341 CS đưa Trung Đoàn 270 vào thị xã để chống đỡ cho Trung Đoàn 266 đang cố giữ rìa phía Tây thị xã.
Sáng sớm ngày thứ hai, pháo binh Cộng quân lại bắn một loạt pháo để yểm trợ cho pháo binh của họ. 05:27 sáng ngày 10 tháng Tư một ngàn quả đạn lại bắn vào thành phố còn đang nghi ngút khói. Sư Đoàn 7 CS tấn công liên tiếp vào công sự phòng thủ kiên cố của quân VNCH ở phía Đông nhưng không thể tiến qua Tiểu Đoàn 82 BĐQ và các lực lượng VNCH.
Ở phía Tây, Trung Đoàn 270 CS tấn công năm lần vào lực lượng VNCH ở đó, chủ yếu là hai tiểu đoàn ĐPQ đóng ở trại Lê Lợi gần khu chợ trong thành phố. Mỗi lần Cộng quân tấn công là lại bị đánh bật ra. Có một lúc trận chiến trở thành xáp lá cà, “một trận chiến khủng khiếp bằng lưỡi lê và lựu đạn.” (46)
Pháo binh VNCH được không quân yểm trợ hữu hiệu, tiếp tục bắn vào Cộng quân gây thương vong nặng nề. Thêm năm chiếc xe tăng T-54 bị huỷ diệt.
Đến buổi trưa, Tướng Đảo phản công lần nữa. Thấy được hai trung đoàn của Sư Đoàn 341 CS bị giữ chân trong thị xã, ông Đảo đưa hai tiểu đoàn phản công hai mặt từ phía trong và ngoài thị xã. Lần phản công thứ hai này vượt quá sức chịu đựng của các binh lính còn quá trẻ của Sư Đoàn 341 CS. Trong lúc súng nổ liên tục và bị tổn thất nặng trong hai ngày, nhiều bộ đội CS sợ hãi, không còn muốn chiến đấu. Họ trốn trong hầm và những toà nhà đổ nát. Theo lời Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Tướng Cao Văn Viên, “Họ không biết về vùng đất, sợ đánh nhau và đạn pháo. Sau khi xâm nhập vào thị xã, họ núp trong cống và không bắn một viên đạn nào trong băng đạn 70 viên cơ bản của họ.” (47)
Từng địa điểm một, quân VNCH giải toả những nơi mà Cộng quân đã chiếm hôm trước. Trong lúc đó các lực lượng ĐPQ và Tiểu Đoàn 1/43 VNCH đẩy Trung Đoàn 266 CS hoàn toàn ra khỏi thành phố. Vào tối ngày 10 tháng Tư, tất cả Xuân Lộc nằm trong tay quân VNCH nhưng phần phía Bắc của thị xã chỉ còn là một khu đổ nát nghi ngút khói. Ký giả Phillip Caputo của tờ Chicago Tribune viết:
Hầu như mọi kiến trúc đều bị thiệt hại, và trung tâm thị xã bị biến thành một khu đổ nát. Đường phố thì đầy hố do những quả đạn 130 ly xé gió bay tới từ vùng đồi núi xanh bí hiểm ở phía Bắc. Những khu dân cư trước đây giờ là những đống gạch vụn và cột gỗ cháy thành than… Ngôi chợ chính, với những sạp gắn mái tôn quằn lại méo mó, trông giống như một bãi đồ phế thải, và bến xe buýt, nơi trận giao tranh đầu tiên diễn ra, chỉ còn nhận ra được bởi vài khung xe buýt cháy đen thui. Ngay cả gác chuông nhà thờ cũng không thoát. Trông giống như phần còn lại của một tháp chuông thời cổ, nó đứng lặng lẽ nhìn những tan hoang, những đám cháy, những tử thi chương sình và thối rữa dưới ánh nắng của những người lính Bắc Việt nằm rải rác trong những tư thế chết lạ lùng. “Cảnh vật giống như một thành phố sau Thế Chiến Thứ Hai”, một người lính miền Nam nói. (48)
Tối đến nhưng những người lính VNCH vẫn không được ngưng nghỉ vì pháo Cộng bắn phá cả đêm. Cộng quân bắn thêm 2,000 quả vào thị xã buổi tối 10 tháng Tư. (49) Sư Đoàn 18 VNCH phản pháo hiệu quả, cố phá những điểm tập trung của địch. Sư Đoàn 341 CS ghi lại “Địch quân bắn phá các địa điểm pháo binh của ta trong vùng, cùng lúc đó bắn vào những con đường dẫn từ những căn cứ phía sau của ta vào thị xã. Vận tải cơ C-130 gắn đại bác 20 ly bắn rải hàng loạt xuống các vị trí của ta. Địch quân hy vọng phủ một bức màn lửa để chận nỗ lực tái tiếp viện đạn dược cho quân ta và công tác tải thương.” (50)
Mặc dù tổn thất nặng, các chỉ huy Bắc Việt vẫn không bỏ cuộc. Sáng ngày thứ ba, Cộng quân tiếp tục tấn công. Quân đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 chuyển trục tấn công vào Trung Đoàn 43 VNCH và nối kết với Sư Đoàn 7 CS. Lúc 05:30 sáng ngày 11 tháng Tư, pháo Cộng rót vào địa điểm của Trung Đoàn 43 suốt ba mươi phút. Lúc 6 giờ sáng, pháo Cộng chuyển qua hai vùng Núi Thị và Tân Phong. Sư Đoàn 7 CS cũng được lệnh tái tấn công.
Kết quả cũng giống như cũ. Quân phòng thủ VNCH kiên cường đẩy lui những cuộc tấn công của cả hai sư đoàn địch. Thêm nhiều xe tăng T-54 của Cộng quân bị phá huỷ. Quân VNCH phản công, chận đứng xâm nhập của Cộng quân và giành lại những phần đất đã mất. Một lần nữa, Cộng quân không lấy nổi thị xã dù với tổn thất cực kỳ cao và vẫn tiếp tục tăng. Ông Hoàng Cầm viết, “Đây là trận đánh ác liệt nhất mà tôi từng tham dự! Nhận xét cá nhân của tôi là, sau ba ngày chiến đấu, ngay cả sau khi quân trừ bị của ta đã vào trận, tình hình vẫn chẳng tiến triển và ta tổn thất khá nặng.” Trong một phần chú thích, ông Cầm đã ghi lại những con số giống như trong quyển Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam: “Trong ba ngày đầu của trận chiến, Sư Đoàn 7 tổn thất 300 người vừa chết vừa bị thương, và Sư Đoàn 341 tổn thất 1200 người vừa chết vừa bị thương… hầu như tất cả đại bác 85 ly và 57 ly đều bị phá huỷ.” (51)
Theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Bắc Việt, Tướng Văn Tiến Dũng, “Trận Xuân Lộc dữ dội và ác liệt từ những ngày đầu tiên… Những sư đoàn của ta đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào thị xã, tiến công và tái tiến công để phá tan từng mục tiêu, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.” (52)
Trên thực tế, quyết định của Tướng Đảo để có được kho đạn và pháo binh dự trữ, sự sửa soạn toạ độ cho pháo binh để bắn vào những “khu tử thần”, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của không quân, và sự chỉ huy cương quyết của ông đã là những yếu tố quan trọng nhất trong sự thành công của Sư Đoàn 18 VNCH với sự trợ giúp đắc lực của Tiểu Đoàn 82 BĐQ trong việc đẩy lui các cuộc tấn công của Cộng quân trong ba ngày đầu.
Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH nhận thức được tầm ảnh hưởng nghiêm trọng của tình hình tại Xuân Lộc. Phòng thủ thành công thị xã này là điều trọng yếu để bảo vệ Sài Gòn và nâng cao tinh thần của cả miền Nam. Nếu quân VNCH có thể làm cho Cộng quân thảm bại tại Xuân Lộc, miền Nam sẽ có thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, người chỉ huy trực tiếp của tướng Đảo, định dùng khả năng chuyển quân để dồn lực lượng trừ bị vào những nơi bị tấn công và tiêu diệt các đội hình của địch. Thêm vào đó, Tổng Thống Thiệu nói với ông Toàn rằng nếu ông Toàn có thể cầm chân ba sư đoàn cộng sản tại Xuân Lộc, "B-52 sẽ trở lại." (53) Tuy vậy, ông Toàn lo là Sư Đoàn 18 VNCH sẽ bị Cộng quân tràn ngập, do đó ông đã có nhiều hành động. Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Đoàn III VNCH di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ làng Hưng Nghĩa đến ngã ba Dầu Giây. (54) Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ đã bị tấn công dữ dội vào ngày 9 tháng Tư, đó là một phần trong kế hoạch tổng tấn công của cục “R” CS. Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, chỉ huy Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đã bị tấn công vào cả hai cánh hông, nhưng ông đẩy lui được địch. Tuy vậy, quyết định chuyển Lữ Đoàn 3 đi để lại Sư Đoàn 25 VNCH ở Tây Ninh trong tình trạng bấp bênh, không có lực lượng trừ bị nếu bị tấn công.
Lữ đoàn 3 Thiết Giáp tới Hưng Nghĩa vào 11 tháng 4 và lập tức chạm với Sư Đoàn 6 Cộng quân đang chận trên Quốc Lộ 1 về phía Đông gần Hưng Lộc. Tướng Khôi điều động quân của ông để Chiến đoàn 315 đánh dọc Quốc Lộ 1 làm mũi chính trong khi ông cho Chiến đoàn 318 tiến về phía Bắc vừa để canh chừng bên hông cho mũi chính, vừa cố đi vòng qua chỗ cản của cộng quân trên Quốc Lộ 1. Ông giữ Chiến đoàn 322 làm trừ bị. Lực lượng của Tướng Khôi không tiến lên được. Ông Khôi sững sờ khi xe tăng của ông bị chận đứng, ông nói, "Đây là lần đầu tiên chúng tôi không vuợt qua được." (55)
Vào lúc đó, tiểu đoàn 2/48 (đã gửi tới Hàm Tân để giữ an ninh cho đồng bào chạy loạn từ trước), được đưa vội về Xuân Lộc bằng trực thăng. Quan trọng hơn, sáng ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn cho di chuyển Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, một trong nhũng đơn vị cuối cùng của lực lượng tổng trừ bị VNCH, và, đối với ông Thiệu, là một phần của lực lượng bảo vệ Dinh Tổng Thống không chính thức, để tăng cường cho Sư Đoàn 18 VNCH. Tư lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. Lữ Đoàn gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8 và 9, được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Trong vòng hai ngày, ông Toàn sử dụng tất cả trực thăng còn lại để bốn Tiểu Đoàn của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào Xuân Lộc; họ đáp xuống gần Tân Phong. (56) Đó là cuộc trực thăng vận lớn cuối cùng trong cuộc chiến. Một nguồn tin VNCH cho biết "Mọi trực thăng của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 4 Không Quân VNCH, tổng cộng một trăm chiếc UH -1B, chở hơn hai ngàn lính nhảy dù....tới trận chiến." Các trung đội pháo binh nhảy dù được vận chuyển bằng trực thăng Chinook tới bộ chỉ huy hành quân nhảy dù đặt ở bên cạnh bộ chỉ huy sư đoàn 18. (57) Thương binh và thường dân được chở đi sau khi trực thăng đổ quân xuống.
Tướng Đảo cũng có một thay đổi nội bộ để bổ xung cho sự phòng thủ Xuân Lộc. Mặc dù bị cắt đứt với các đơn vị bạn và bị pháo kích, Trung Đoàn 52 VNCH vẫn giữ được một khúc Quốc Lộ 20 bắt đầu từ Ấp Phan Bội Châu ở phía Nam Dầu Giây tới Ấp Nguyễn Thái Học, và đến vị trí xa nhất là Đồi Móng Ngựa. Ngoài Tiểu Đòan 1/52, không đơn vị nào khác của trung đoàn bị bộ binh CS tấn công. Tuy nhiên 1/52 bị áp lực thường xuyên từ Trung Đoàn 33 CS. Ấp Phan Bội Châu là mục tiêu khá dễ dàng cho pháo binh Cộng Sản. Từng đợt pháo dội lên đầu các chiến sĩ VNCH đang cố thủ, và khi pháo tạm ngưng là bộ binh địch lại tấn công. Tiểu đoàn 1/52 đẩy lui nhiều đợt nhung đã chịu tổn thất nặng để hoàn tất nhiệm vụ.
Mặc dù Tiểu Đoàn 1/52 phải chịu áp lực như trên, sáng mùng 10 tháng Tư, Tướng Đảo quyết định rút bớt Tiểu Đòan 2/52 từ Ấp Nguyễn Thái Học về tăng cường Xuân Lộc và ra lệnh cho Tiểu đoàn 3/52 gởi hai đại đội gần đó ra thay thế. (58) Tiểu đoàn 2/52 VNCH theo một đường mòn trong rừng phía Bắc Quốc Lộ 1 để tránh Trung Đoàn 274 CS đang chận ở Đèo Mẹ Bồng Con. Họ cắm trại ngắn qua đêm ở một đồn điền gần Ấp Núi Tùng , ngay phía Tây Bắc Xuân Lộc . Sáng sớm 11 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đụng độ toán Cộng quân giữ ấp. Một giao tranh ác liệt kéo dài mãi đến 4 giờ chiều cùng ngày. 2/52 giết trên 20 địch quân và tịch thu một đại bác phòng không 37 ly. Sau trận chiến, 2/52 đi tiếp tới Xuân Lộc và đóng gần Vòng Cua "Con Heo" ban đêm. Sáng 12 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đánh vào lưng Cộng quân, xuyên qua tuyến địch, và bắt tay được với Trung Đoàn 43 VNCH vào trưa 12 tháng Tư. Trong trận đánh này, họ tịch thu trên sáu mươi vũ khí và tiêu diệt sáu mươi quân địch. (59)
Ngày 12 tháng Tư, một tiểu đoàn nhảy dù đánh một trận chiến dữ dội với một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 CS. (60) Vào ngày 13 tháng Tư, Tướng Đảo đem hai tiểu đoàn Nhảy Dù khác từ phía Đông thị xã về tấn công Sư Đoàn 7 CS. Một tiểu đoàn dù tấn công và chọc thủng phòng tuyến địch tại làng Bảo Định dọc Quốc Lộ 1, giúp tiểu đoàn kia tiến lên và bao vây Tiểu Đoàn 8 của Trung Đoàn 209 CS. (61)
Bị Sư Đoàn 18 chận đứng, và thấy quân VNCH được tung thêm vào Xuân Lộc, các chỉ huy Bắc Việt bắt đầu đánh giá lại tình hình và hoạch định chương trình mới. Quân Đoàn 4 CS khó chịu các báo cáo bắt đầu đến Cục "R" là Quân Đoàn 4 CS bị buộc phải rút lui . Sau những hăng hái về những báo cáo tốt đẹp lúc đầu, lãnh đạo Cộng Sản trở nên "rất lo lắng". Quân Đoàn 4 phàn nàn là “thiếu đạn dược đủ loại, và nhất là Sư Đoàn 341, 6 và 7 đều không đủ quân số bởi vì họ đã chiến đấu không nghỉ từ lúc bắt đầu giao tranh trên Quốc Lộ 20.” (62)
Buổi trưa ngày 11 tháng Tư, sau cuộc bàn thảo giữa Trần Văn Trà, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, và một số người khác, ông Trà được gửi tới thẳng đến Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 CS để lượng định tình hình, và nếu cần, nắm quyền chỉ huy. Thêm vào đó, ông Trà đem theo giấy chỉ đạo chiến thuật mới.
Sau khi ông Trà vừa đi, ông Văn Tiến Dũng điện cho Hoàng Cầm và cho Cầm biết sơ về những lệnh mới ông Trà mang tới. (63) Thấy VNCH đã tập trung phần lớn lực lượng trừ bị còn lại để phòng thủ thành phố, ông Dũng và cục "R" thấy được tình trạng của Tướng Đảo có hai chỗ yếu: sự lệ thuộc của ông vào căn cứ Không Quân Biên Hòa, nơi xuất phát của phần lớn sự trợ giúp của không quân, và sự cô lập của Trung Đoàn 52 VNCH đang giữ ngã ba Dầu Giây, nơi không nằm trong hệ thống phòng thủ của ông Đảo. Ông Dũng ghi chú "một khi địch quân tập trung để… giữ Xuân Lộc, chúng ta không cần tụ lại để tấn công trực diện. Chúng ta cần di chuyển lực lượng để đánh vào đơn vị phản công địch ở vòng ngoài... trước khi địch đến đó. Chúng ta nên dùng pháo binh tầm xa để phá hủy căn cứ không quân Biên Hòa... để phi cơ địch không cất cánh được." (64) Cộng quân quyết định bỏ lối đánh trực diện và dùng lối khác để đạt được những gì mà đánh trực diện không đạt được. Ông Trà và các chỉ huy Bắc Việt chưa quên thất bại 1972 của họ tại An Lộc, lúc đó họ không chịu đi vòng qua thành phố mà cứ đánh thẳng vào thị xã, một tình thế giống như Xuân Lộc. (65)
Sau cú điện thoại của ông Dũng , bộ tham mưu Quân Đoàn 4 mở một cuộc họp vào chiều 11 tháng Tư để duyệt xét tình hình. Theo lời chỉ đạo của ông Dũng, ông Cầm ra lệnh hai trung đoàn thuộc Sư Đoàn 7 CS vẫn tiếp tục giữ vị tri tạm của mình và rút lui từ từ. Trung đoàn còn lại của Sư Đoàn 7 CS được lệnh đánh vào bên hông những đơn vị Dù. Sư Đoàn 341 CS vẫn giữ vị trí và từ từ rút để chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào Núi Thị. Thêm vào đó, Cộng quân "làm những việc để phía địch tưởng là chúng ta sẽ tiếp tục tấn công để tràn ngập trong vòng mấy ngày tới." (66)
"Kế hoạch nghi binh” của Cầm gồm thêm hai cuộc tấn công trực diện vào 12 tháng Tư. Cuôc tấn công bắt đầu tờ mờ sáng, đánh vào Tiểu Đoàn 1/43 tại phía Đông Bắc Xuân Lộc và kéo dài đến 9 giờ 30 sáng. Không Quân VNCH dùng máy bay vận tải C-130 làm máy bay dội bom, họ cột những chồng bom 750 cân Anh vào những bè gỗ và đẩy ra từ cửa lớn ở đằng sau máy bay. Pháo binh của VNCH cũng bắt đầu lại với sức tàn phá đầy hiệu quả. Khi quân Bắc Việt ngưng chiến, họ không chiếm được thêm đất, và quân VNCH đếm được 235 xác địch. Tình báo Hoa Kỳ tin rằng "Thiệt hại của địch quân chắc cao hơn xác đếm được nhiều." (67)
Tới giữa trưa, Cộng quân mở cuộc tấn công lần thứ nhì, tung vào trận những đơn vị đã cạn lính của Sư Đoàn 341 để đánh Tiểu Đoàn 1/43 và các đơn vị tham mưu đang cố thủ. Khu trục cơ A-1 của Không Quân VNCH bay hai mươi phi tuần chống lại Cộng quân, phá vỡ hàng ngũ của binh lính Bắc Việt trước khi họ tới được vị trí của Tiểu Đoàn 1/43. Tướng Đảo quan sát rằng trong những cuộc tấn công cuối với những tổn thất rợn người, những chỉ huy địch phải dùng tay đẩy lính của họ ra khỏi những hố cá nhân. Thiệt hại của quân Bắc Việt lên đến hai ngàn người chết và bị thương, trong khi về phía QLVNCH chỉ tổn thất vài trăm người. Ông Đảo, Sư Đoàn 18, và các đơn vị trợ giúp đã biến Xuân Lộc thành một chiến trường đẫm máu cho Cộng quân.
Sau trận chiến ngày 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS được tăng cường với chiến xa, những khẩu pháo và binh lính mới. Ông Trà ghi là "Quân Đoàn đã được tăng cường [với]… một chi đội xe tăng, một số khẩu pháo, súng phòng không và khẩn cấp đưa về binh lính tăng cường và đạn dược để chúng ta vẫn còn quân số chiến đấu tốt." (68) Chiều 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 CS rút ra khỏi ngoại ô thành phố. Đến tối , Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đã rút lui xong để được tái võ trang; Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 thì thay đổi vị trí để yểm trợ cuộc đánh chiếm Núi Thị của Cộng quân. (69) Sư Đoàn 6 CS vẫn ở vị trí cũ dọc Quốc Lộ 1 hai bên Dầu Giây, phía Tây Xuân Lộc. Trong lúc đó, các đơn vị của Sư Đoàn 7 CS cố chận tiến quân của Nhảy Dù VNCH.
Một điều đáng lo cho quân đội VNCH là Trung Đoàn 95B CS từ Tây Nguyên, một đơn vị của Quân Đoàn 2 Bắc Việt đã được xử dụng để tấn công Ban Mê Thuột tháng trước, đã bí mật đến Xuân Lộc vào 13 tháng Tư. Tướng Văn Tiến Dũng đã ra lệnh trung đoàn đó xuôi Nam ngay từ khi Quân Đoàn 4 CS gặp những trở ngại đầu tiên. Hành động này cho thấy ông Dũng hết sức lo lắng. Vào lúc đó, đơn vị lão luyện 95B CS có thể nói là một trong những trung đoàn bộ binh nhẹ thuộc loại ưu việt của thế giới. Họ đã tham dự trận Ban Mê Thuột, và sau đó đi về phía Bắc để giúp Sư Đoàn 320 CS trong việc phá hoại đoàn xe di tản của Quân Đoàn II VNCH trên Quốc Lộ 7B từ Cao Nguyên miền Trung. Sau này, Trung Đoàn 95B CS được xác nhận là đơn vị Cộng quân duy nhất được giao cho cả bốn Quân Đoàn Bắc Việt vào những lúc khác nhau trong cuộc tổng tấn công 1975. Gởi trung đoàn này tấn công những đơn vị VNCH đã kiệt sức có thể thay đổi cục diện ở Xuân Lộc.
Tướng Trà đến bộ tư lệnh Quân Đoàn 4 CS vào ngày 13 tháng Tư và gặp bộ chỉ huy quân đoàn. Khi phân tích tình hình, Trà và các chỉ huy Bắc Việt đã đi đến một kết luận rõ ràng: “Xuân Lộc là một điểm tối quan trọng trên tuyến phòng thủ của địch, do đó họ tập trung nhiều lực lượng để cố thủ... Chúng ta không còn yếu tố bất ngờ. Do đó, chúng ta không còn lợi thế để tiếp tục đánh Xuân Lộc." Vì vậy, "Nếu chúng ta chiếm và giữ ngã ba Dầu Giây... Xuân Lộc không còn là một điểm chính yếu nữa vì nó nằm ngoài tuyến phòng thủ... Do đó chúng ta sẽ làm hai công tác: một, tập trung để đánh vào Dầu Giây từ hai phía. Hai, chúng ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc." (70) Ông Trà nhận ra rằng lúc nào Sư Đoàn 18 còn có không quân yểm trợ hữu hiệu, Cộng quân cực kỳ khó khăn để lấy được thị xã đổ nát đó. Ông ta dự tính sẽ bí mật đem đại bác 130 ly vào trong tầm bắn đến Căn Cứ Không Quân Biên Hòa và bắt đầu pháo kích, tìm cách làm tê liệt phi trường hay là giảm bớt số phi vụ của không quân VNCH.
Trong lúc Bắc quân bắt đầu rút từ ngoại ô thành phố vào đêm 12 tháng Tư, Tướng Đảo tiến lên ngay, không phí thời gian. Thấy Cộng quân rút lui, Trung Đoàn 43 và 48 của Sư Đoàn 18 VNCH lập tức chiếm lại phía bên ngoài bị mất lúc trước. Sư đoàn cũng lo nhận tiếp tế. Vào trưa ngày 12 tháng Tư, Không Quân VNCH đưa vào chín mươi ba tấn đạn pháo bằng tám trực thăng Chinooks. (71) Chinooks cũng chở pháo binh nhảy dù vào, và ông Đảo đã xử dụng những chiếc Chinooks này để hoàn tất việc tái tiếp tế cho những tiểu đoàn pháo binh của ông. Ngày hôm sau, QLVNCH chở thêm một trăm tấn tiếp tế, bao gồm thực phẩm và đạn súng nhỏ; tuy vậy, ông Đảo không hề biết sự thay đổi chiến thuật của Bắc quân và việc trung đoàn 95-B đã tới từ Cao Nguyên miền Trung.
Chính phủ VNCH cố dùng sự giữ vững Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 để làm tăng niềm tin cho dân chúng đang sợ hãi và quân đội đang mất tinh thần. Trước đó, có những ký giả đã lái xe tới Hưng Xuân, Lộc Nghĩa phía Dầu Giây để tường thuật chiến trường nhưng không tới được Xuân Lộc. Biết rằng, cần một biến cố gì để lấy lại tinh thần sau những cuộc rút lui bi thảm từ hai Quân Đoàn phía Bắc, chính phủ VNCH tổ chức một cuộc thăm viếng Xuân Lộc cho báo chí để biểu dương chiến thắng.
Vào ngày 13 tháng Tư, một buổi sáng chủ nhật trời nắng, những phóng viên đầu tiên bay vào thành phố bằng trực thăng Chinook. Họ đáp ở Tân Phong, nơi họ được nghe tường trình từ ông Chuẩn Tướng bất khuất, Lê Minh Đảo, người đã thề sẽ "đập tan" bất cứ bao nhiêu sư đoàn địch gởi tới. (72)
Các phóng viên đi bộ vào thành phố trên Quốc Lộ 1 và xem xét những đổ nát phần phía Bắc thành phố sau năm ngày đánh không ngừng. Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Đại Tá Phạm Văn Phúc tường trình cùng báo chí, và Đại Tá Lê Xuân Hiếu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 đưa phóng viên đi bộ quan sát khu chợ, chỉ vào quân địch bị chết và triển lãm số lớn vũ khí tịch thu và vài tù binh. Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng pháo của Cộng quân rớt xuống tạo ra những cụm khói bay lên. Phóng viên Nicolas Profitt của tờ Newsweek viết rằng, "Những đợt pháo và những trận đánh khốc liệt trên đường phố đã làm những khúc đường biến thành những đống tro trắng, gạch cháy đen và kim loại cong queo... khu chợ chính của Xuân Lộc từng nhộn nhịp bây giờ chỉ là đống gạch vụn cao hơn sáu tấc.” (73)
Không may, chuyến về của báo chí bằng trực thăng là một mất mặt của QLVNCH. Những người dân địa phương cố giành giật để được một chỗ trên những chiếc Chinook, chỉ để bị vài đào binh VNCH đang tìm mọi cách để thoát khỏi thành phố, đẩy xuống. (74) Những người lính đang tải thương, bị tràn ngập bởi đám đông dân chúng, bỏ cả những thương binh trên cáng xuống đất, trong lúc những phóng viên Hoa Kỳ xô đẩy, chen lấn để leo lên những chiếc trực thăng quá tải. (75) Với cuộc trở về đầy cam go này, những câu chuyện của các ký giả đã rộng lượng một cách đáng ngạc nhiên đối với những binh sĩ sư đoàn 18 VNCH.
Trong lúc chính phủ Nam Việt Nam tuyên cáo về thành công của họ, từ đêm 12 tháng Tư, Cộng quân đã điều động lực lượng của họ vào cuộc tấn công mới, một cuộc tập kích vào ngã Ba Dầu Giây. Ngày 13 tháng Tư, cuộc tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh của Cộng quân đẩy Tiểu Đoàn 1/52 VNCH, đã bị yếu đi qua các trận đánh, ra khỏi Ấp Phan Bội Châu đến tận bìa của ngã ba. Đêm đó, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 ra lệnh cho hai đại đội của Tiểu Đoàn 3/52 tới Dầu Giây bắt tay với 1/52 và lui về Ấp Nguyễn Thái Học. Di chuyển ban đêm qua những bụi rậm, quân VNCH cứu được Tiểu Đoàn 1/52 nhưng Dầu Giây bị bỏ ngỏ. Tiểu Đoàn 1/52 chỉ còn lại một phần ba quân số sau năm ngày bị Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS liên tục tấn công. Bị bao vây và không thể tải thương hoặc nhận tiếp tế, Trung Đoàn 52 rơi vào tình trạng bấp bênh. Sau khi Tiểu Đoàn 2/52 được đưa về tăng cường phòng thủ Xuân Lộc, sức phòng thủ của Trung Đoàn 52 yếu hẳn. Khi Tướng Đảo quyết định rút 2/52 về Xuân Lộc, chỉ có 1/52 là đụng trận nặng và Tướng Toàn đã hứa với ông Đảo là Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp sẽ tiến qua Hưng Lộc đến Dầu Giây. Dù sao, quyết định chuyển Tiểu Đoàn 2/52 ra khỏi Dầu Giây, dù đã thắng bất ngờ Cộng quân ở Ấp Núi Tùng ngày 11 tháng Tư, vẫn là một sai lầm về chiến thuật của Tướng Đảo .
Giao tranh vẫn xảy ra ác liệt trong vùng của Lữ Đoàn 1 Dù VNCH trong khi Tiểu Đoàn 8 Cộng quân vẫn cố gắng thoát vòng vây. Nhưng quan trọng hơn là những trận chiến ở phía Tây, trong lúc Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp VNCH vẫn không thể vượt qua nút chận của Cộng Quân trên Quốc Lộ 1 để bắt tay với Trung Đoàn 52 VNCH . Tướng Khôi quyết định đi vòng qua chỗ chận của Sư Đoàn 6 CS bằng cách gửi LLĐN 315 và 322 đi về phía Bắc của ấp Hưng Lộc để liên kết thẳng với Trung Đoàn 52.
LLĐN 315 được chia làm hai cánh, A và B. Cánh A tiếp tục dọc theo Quốc Lộ 1 chịu trách nhiệm phía Nam. Cánh B gồm có tiểu đoàn BĐQ 64 và Chi Đoàn 1/15 Thiết Giáp do Đại Úy Phạm Văn Ban chỉ huy và được trao nhiệm vụ chọc thủng tuyến phòng thủ của địch và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại Ấp Nguyễn Thái Học. Tới giữa ngày 14 tháng Tư, ông Ban đã thành công trong việc chiếm đồi 122, chỗ đất cao của Hưng Lộc, với những chống trả lẻ tẻ của Cộng quân. Tuy thế, nhiều giòng nước làm thiết giáp của ông không di chuyển thêm được, ông phải chờ công binh cố làm cầu đi qua. Cộng quân khám phá được sự di chuyển bất ngờ của Lữ Đoàn 3 và nhanh chóng phản công. Chẳng bao lâu lực lượng của ông Ban bị tấn công mạnh từ ba phía: Bắc, Đông, và Tây. Theo lời ông Ban, "địch quân tràn ra như kiến phóng ra tấn công biển người từ ba phía của ngọn đồi... trong tình hình nguy kịch tôi gọi bộ chỉ huy LLĐN cho pháo binh và không yểm. Không may chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng bắn phi đạn và rời đi ngay... Cộng quân tấn công càng lúc càng mạnh. Tôi tưởng là Việt Cộng sẽ tràn ngập đồi 122 hoặc là cô lập chúng tôi hoàn toàn... Bất ngờ Cộng quân rút lui và trận chiến lặng xuống... Chúng tôi có 20 người bị thương vong , BĐQ mất gần 40... Xác Việt cộng nằm rải rác trên ruộng lúa." (76) Cánh B của ông Ban đóng lại ban đêm trên đồi. Nỗ lực của Tướng Khôi để đi vòng phía Bắc bị chận lại, làm cho Sư Đoàn 18 và Trung Đoàn 52 bị tách rời nhau.
Để phá vòng vây, quân VNCH vẫn tiếp tục vội vã tìm bất cứ phương tiện gì để quân bình lại cán cân trước những lợi thế về pháo binh và bộ binh của Cộng quân. Cho tới lúc đó, Không Quân VNCH đã giúp vận chuyển và oanh tạc hữu hiệu, gây thiệt hại cho Cộng quân. Bây giờ, cần có những biện pháp liều lĩnh và quyết liệt hơn.
Một lợi điểm chiến thuật của Tướng Đảo là sự xử dụng hiệu quả của những làn sóng truyền radio của địch mà quân VNCH chận nghe được. Bộ tổng tham mưu QLVNCH đã xử dụng những nhóm hai mươi chuyên viên cho mỗi sư đoàn để theo dõi và chận bắt những truyền tin của địch. Ông Đảo nói, "Những đơn vị địch báo cáo vị trí và quân số tới bộ chỉ huy của họ. Mỗi ngày tôi định giá những tin tức nghe được và bắn pháo binh vào họ. Tôi cũng gởi những vị trí này lên Quân Đoàn III để sắp xếp oanh tạc vào những địa điểm đó." Không có B-52, không quân VNCH chọn thả những trái bom nặng mười lăm ngàn cân Anh được gọi là "Daisy Cutter" (77) vào những mục tiêu hàng đầu. Căn cứ vào những tin tức nghe được, ngày 14 tháng Tư , "Daisy Cutter" đầu tiên được thả vào địa điểm tình nghi là bộ chỉ huy Quân Đoàn 4 CS, mười hai cây số phía Đông Bắc của Xuân Lộc. Bảy mươi lăm phần trăm của Bộ Chỉ Huy này bị phá hủy. (78) Ngoài ra "Không Quân Việt Nam tự có sáng kiến là xử dụng tám vận tải cơ C-130 hàng ngày chở những thùng 55-galông đựng dầu và khí đốt để oanh tạc địch”, một chương trình được gọi là “Chiến Tranh Lửa”. (79) Hiển nhiên là những cuộc bỏ bom bằng C-130 của Không Quân Việt Nam là một trở ngại lớn cho Cộng quân. Lịch sử của Cộng quân không nhắc đến cuộc bỏ bom vào bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, mặc dù quân sử của đơn vị đó viết "Địch quân thả bom trung bình 80 phi vụ mỗi ngày, và ngày cao nhất lên đến 125 phi vụ. Họ còn thả một loại bom rất tác hại là CBU (bom bi), tạo những khó khăn lớn cho các đơn vị ta." (80)
Sáng sớm 15 tháng Tư , mở màn cho một chiến dịch mới của Cộng quân, pháo Bắc Việt bắn vào Biên Hòa khi bốn đại bác 130 ly từ Tiểu Đoàn 26/Trung Đoàn Pháo 75 CS bắt đầu hoạt động. (81) Một toán đặc công lẻn vào căn cứ Biên Hòa và cho nổ kho đạn. Tiếng nổ rung chuyển Sài Gòn. Những quả pháo kích tiếp theo, chính xác hơn, làm hư hại phi đạo và nhiều phi cơ. Huyết mạch của Tướng Đảo, phi trường Biên Hòa, đóng cửa mất nửa ngày.
Mờ sáng 15 tháng Tư, Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS và Trung Đoàn 95B CS bắt đầu phối hợp bất ngờ tấn công Tiểu Đoàn 1/52 và 3/52 VNCH đang giữ đồi Móng Ngựa và Ấp Nguyễn Thái Học. Nhiều ngàn quả đạn dội xuống hai đơn vị đã tổn thất và yếu mệt sau nhũng trận đánh liên tiếp. (82) Sau khi chiếm được nhiều cửa ngõ quan trọng, Trung Đoàn 33 CS sửa soạn tràn vào Ấp Nguyễn Thái Học, nhưng họ đổi hướng để quay sang giúp chống lại cánh quân VNCH của Đại Úy Ban đang tiếp tục hành quân. Về phía Bắc, Trung Đoàn 95B CS bắt đầu tấn công đại đội VNCH duy nhất đang giữ đồi Móng Ngựa. Sau khi đánh bật ba đợt tấn công, chỉ huy Trung Đoàn 52 VNCH ra lệnh một đại đội khác từ Tiểu Đoàn 3/52 tới tăng cường cho đại đội ở trên đồi. Ngay lúc quân tăng viện mang tiếp tế và tải thương tới, 95B CS mở cuộc tấn công thẳng lên đồi. Từng đợt bộ binh Cộng Sản tràn qua những cánh đồng trống, nhưng bị đốn gục bời binh sĩ Cộng Hòa. Một tiểu đoàn Cộng quân đi theo Quốc Lộ 20 để đánh vào hông quân VNCH trên đồi nhưng bị chận lại bằng hoả lực pháo binh.
Tiểu Đoàn Trưởng của 3/52 nói, “Đại Đội 1 và 4 trên đồi Móng Ngựa phải đánh bật đợt tấn công này sang đợt khác... lúc 4 giờ chiều ngày 15 tháng Tư một sĩ quan phòng thủ đồi báo cáo ‘Không còn gì xung quanh chúng tôi... xác địch che đầy chân đồi và cây cối trong rừng hoàn toàn bị phá hủy, đến nỗi trông như sườn đồi cũng thay đổi.... Đỉnh đồi màu xanh đã thành trơ trọi, không còn cây cỏ. Những khu vườn biến thành đống rác lớn. Gốc cây và xác người chồng lên nhau từng hàng.' “ (83) Có lẽ giây phút “hãnh diện nhất" cho Sư Đoàn 18 là trong một ngày đánh nhau khốc liệt, hai đại đội binh sĩ VNCH với sự yểm trợ của pháo binh đã gây tổn thất nặng cho một trong những trung đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt .
Không chiếm được ngọn đồi, Cộng quân dùng loa phóng thanh để kêu gọi lính Cộng Hòa đầu hàng. Đến chiều cùng ngày, Cộng quân tấn công Ấp Nguyễn Thái Học, nơi hai đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52 , Chi Đoàn Thiết Giáp 3/5 và thành phần còn lại của Trung Đoàn 52 đang đóng. Lúc 18 giờ, sau một ngày chiến đấu và bị pháo liên tục, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng 52 ra lệnh rút lui ban đêm về phòng tuyến quân bạn.Tới lúc đó, binh sĩ VNCH ở trên đồi Móng Ngựa cũng đã chiến đấu đến hết đạn, họ đành rút lui để tái nhập tiểu đoàn 3/52. (84) Quân VNCH chia làm hai đoàn vào lúc 18:30 giờ, với Đại Tá Dũng chỉ huy đoàn thứ nhất đi với thiết giáp ra khỏi đồn điền, và Tiểu Đoàn 3/52 là đoàn thứ nhì. Những khẩu pháo được phá hủy trước khi rút. Một sĩ quan VNCH viết, "Chúng tôi không thể làm gì hơn. Cộng quân bắn mấy ngàn quả đạn – mấy ngàn. Rồi họ tấn công bằng hai trung đoàn bộ binh sáng nay. Tổn thất của chúng tôi không phải là nhẹ, do đó chúng tôi băng rừng để thoát." (85) Cộng quân lại pháo hàng ngàn lần để ngăn Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiếp cứu Trung Đoàn 52. Dù Sư Đoàn 18 đã phòng thủ rất anh dũng, Cộng quân, với khả năng hành quân nhanh chóng, đã chuyển lực lượng bộ binh nhẹ qua rừng rậm và bọc sườn quân Cộng Hoà. Tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây bị tan rã.
Những gì được xưng tụng là chiến thắng hai ngày trước bây giờ đã trở ngược. Thất bại của VNCH khi không mở được Quốc Lộ 1 từ ngã ba Dầu Giây đến Xuân Lôc sau ngày 9 tháng 4, và không phòng thủ Dầu Giây với một lực lượng mạnh hơn đã gây một thiệt hại lớn cho Miền Nam Việt Nam.
Ngày hôm sau có thêm những tin xấu. Chiến xa và bộ binh Bắc Việt đã tràn ngập Phan Rang trên Quốc Lộ 1 ở Quân Đoàn II, phòng tuyến lớn cuối cùng ở phía Bắc Xuân Lộc. Sớm hôm đó, các đơn vị của Sư Đoàn 341 CS tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20, chiếm Kiệm Tân và Túc Trưng. Sự thất thủ Phan Rang, trận pháo kích Biên Hòa, và mất đoạn Quốc Lộ 20 cuối cùng làm rúng động Sài Gòn và làm tiêu tan cơ hội cuối cùng của Nam Việt Nam để có thể chận đứng Cộng quân. Ngày 17 tháng Tư, Uỷ Ban Quốc Phòng Thượng Viện Mỹ phản ảnh mong muốn của đại đa số quốc hội muốn chấm dứt chuyện Viêt Nam, bác bỏ yêu cầu viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho miền Nam Việt Nam của chính phủ Ford.
Dù sao, nếu yêu cầu viện trợ này có được chấp thuận, cũng không ảnh hưởng gì đến kết quả trên chiến trường. Lúc đó đã quá trễ cho sự viện trợ. Chỉ có sự sử dụng Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ mới có thể chận được Cộng quân và cho miền Nam thời gian và không gian cần thiết để phòng thủ những gì còn lại của VNCH.
Tướng Toàn không thể chờ sự xuất hiện của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Ông lập tức ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Khôi chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1. Đơn vị của ông Hùng đang giữ Phú Giáo, một tỉnh phía Bắc của Lai Khê, căn cứ chính của Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 VNCH. Họ mất bốn tiếng để tới Hưng Nghĩa, cách Dầu Giây 2.5 cây số, nơi họ gặp lực lượng của ông Khôi. (86) Ông Khôi giao Chiến đoàn 322 cho ông Hùng và ra lệnh cho ông Hùng giải toả Quốc Lộ 1.
Mặc dù bị tấn công liên tục, Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 của Cộng quân ở Hưng Nghĩa và Hưng Lộc quyết tử thủ; và lực lượng VNCH đã không tiến lên được. Ông Hùng nói, "Cộng quân đã thiết lập khoảng mười công sự phòng thủ, mỗi chỗ được một trung đội chống giữ, không thể chọc thủng được." Quân Sử Quân Đoàn 4 viết, "Trận đánh tại Hưng Nghĩa và đồi 122 rất khốc liệt." (87) Sau nhiều ngày đánh nhau, Sư Đoàn 341 CS tiến vào để thay thế Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 CS.
Trong lúc đó, bốn khẩu 130 ly của Cộng quân và một đại đội hỏa tiễn 122 ly vừa được tăng cường tiếp tục bắn phá không ngừng vào phi trường Biên Hòa mặc dù quân VNCH cố gắng hết sức để tìm kiếm và tiêu diệt họ. Những cuộc pháo kích đã giới hạn khả năng không quân để trợ giúp Tướng Đảo và Tướng Khôi. Ba trăm hai mươi sáu quả đạn 130 ly bắn vào phi trường Biên Hoà từ 14 đến 26 tháng Tư đã giúp đánh hồi chuông báo tử cho Xuân Lộc. (88)
Những đoàn quân Cộng Sản dọc bờ biển tiếp tục tiến như chẻ tre về phía Nam. Vào 18 tháng Tư, Phan Thiết, chỉ cách Xuân Lộc bảy mươi cây số, rơi vào tay Cộng quân. Ngày 20 tháng Tư, Sư Đoàn 325 CS và những đơn vị tiền phương của Quân Đoàn 2 Bắc Việt tới Rừng Lá, một làng trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Tây. Với sự thất thủ ở ngã ba Dầu Giây, với Sư Đoàn 18 bị bao vây và đang đối diện với một cuộc tấn công biển người của những đơn vị Cộng quân dày dạn chiến trường, một tập trung lực lượng đông đảo nhất của Cộng Sản trong cả cuộc chiến Viêt Nam, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH không còn chọn lựa nào khác. Vào 09:00 giờ ngày 20 tháng Tư, Tướng Toàn bay vào Xuân Lôc gặp Tướng Đảo. Lệnh của ông Toàn khô khốc: rút lui ngay. Tướng Toàn cần lực lượng của Tướng Đảo để đánh những trận sắp tới cho Sài Gòn. Ông Đảo và ông Toàn quyết định là Sư Đoàn 18 sẽ rút theo đường số 2, một con đường đất đi về phía Nam đến tỉnh Phước Tuy, khi tới nơi họ sẽ được chở bằng xe nhà binh đến Long Bình để tái trang bị và được tăng cường.
Trong khi Tướng Đảo đồng ý với quyết định của Tướng Toàn, ông vẫn lo về việc rút lui trên một con đường vừa bị Sư Đoàn 6 CS tấn công. Tai hoạ trên đường rút quân của Quân Đoàn I và II vẫn ám ảnh ông. Để đi thoát, Sư Đoàn 18 cần phải đi bộ bốn mươi cây số ban đêm trên một con đường đất từ Xuân Lộc đến nơi tập trung ở Đức Thạnh, một điều khó thực hiện trong đêm tối. Do đó, ông Đảo gởi một sĩ quan tham mưu trong bộ chỉ huy G-3 của ông đi thám thính con đường bằng trực thăng để xem tình trạng của con đường và xem có chốt chặn của cộng sản hay không. Sĩ quan đó báo cáo lại là con đường đi được và có vẻ không có Cộng quân. Mặc dù du kích CS địa phương vẫn quấy phá trên đường, Tướng Đảo tin là ông có thể dẹp họ một cách dễ dàng. Ông ta lo lắng hơn về việc lặng lẽ rút sao cho địch quân còn đang ở chung quanh thị xã không hay biết. Nếu Cộng quân biết được, quân của ông có thể bị tràn ngập dễ dàng.
Tướng Đảo lên kế hoạch lừa địch để họ mất tập trung. Ông ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù VNCH mở cuộc tấn công lớn vào Sư Đoàn 7 ở phía Đông thị xã. Ông cũng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 2/43 và hai đại bác trên Núi Thị ở lại và làm một phần lực lượng bảo vệ phía sau. (89) Nhảy dù, được yểm trợ bằng "lượng pháo dữ dội" quần thảo cả ngày 20 tháng Tư với các lực lượng của Sư Đoàn 7 CS, chủ yếu là Trung Đoàn 141.
Với chỉ nửa ngày để sửa soạn chiến lược mang Sư Đoàn 18 ra, Tướng Đảo quyết định chương trình như sau: Tướng Đảo sẽ đi với Trung Đoàn 43, trong khi Đại Tá Ngô Kỳ Dũng lái trực thăng chỉ huy của Tướng Đảo để ra lệnh và kiểm soát. Đơn vị đầu tiên rời Tân Phong lúc 20:00 giờ là Trung Đoàn 48, tiếp theo là Liên Đoàn 5 Thiết Kỵ, rồi đến những lực lượng pháo binh và các đơn vị điều động, công xa và công binh do Đại Tá Hứa Yến Lến chỉ huy. Khi pháo binh tới căn cứ cũ của Trung Đoàn Thiết Kỵ Hoa Kỳ ở Long Giao, họ sẽ thiết lập một căn cứ hỏa pháo, có đại đội trinh sát bảo vệ, để yểm trợ cuộc rút lui. Kế tiếp là các đơn vị ĐPQ và dân chúng. (204) Tiếp theo là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 BĐQ là lực lượng chót trong đoàn. Đến khuya, Tiểu Đoàn 2/43 sẽ rời Núi Thị và gặp Lữ Đoàn 1 Dù tại Tân Phong. Hai đơn vị đó sẽ rời Xuân Lộc vào rạng ngày 21 tháng Tư.
Khi đoàn quân bắt đầu rút, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến nhớ lại:
Tướng Lê Minh Đảo đi chung với những đoàn lính để cho lệnh và hành động lập tức nếu gặp trở ngại trên đường rút. Một trực thăng chỉ huy bay trên đường rút suốt đêm để cung cấp phương hướng và để yểm trợ, nếu cần. Đường số 2 là đường chính để xe cộ và gia đình binh lính đi từ Xuân Lộc đến điểm tập trung Đức Thạnh. Mặc dù lực lượng du kích Việt Cộng địa phương cố chiếm một số địa điểm dọc đường và thiết lập ổ phục kích trên những đồi dọc đường số 2 để làm chậm lại cuộc di tản và gây tổn thất cho ta, sự chiến đấu với tinh thần cao của tất cả binh sĩ mọi cấp của sư đoàn 18 bộ binh và các đơn vị trực thuộc đã gạt ra dễ dàng những điểm chặn và phục kích của địch . Kết quả là tất cả mọi lực lượng đã có thể tới được khu tập trung Đức Thạnh an toàn vào sớm ngày hôm sau 21 tháng Tư 1975. (90)
Mặc dù nhiều nguy hiểm, cuộc rút lui của Tướng Đảo và Sư Đoàn 18 là một sự dàn xếp bậc thầy. Tài chỉ huy của ông Đảo một lần nữa tạo được sự khác biệt. Đi bộ lên xuống trong đoàn suốt đêm. Tướng Đảo khuyến khích đoàn binh đã thấm mệt tiếp tục di chuyển và bảo vệ đồng bào cùng rút lui. Quân Bắc Việt sững sờ vì cuộc triệt thoái bất thình lình. Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho mọi đơn vị truy kích quân VNCH nhưng không bắt kịp bởi vì "Chúng ta đã trễ trong chuyện phát hiện di chuyển của địch và đã không tổ chức được một cách thích hợp lực lượng chận địch." (91)
Tuy thế mọi chuyện không xảy ra êm thắm cho Lữ Đoàn 1 nhảy dù và tiểu đoàn 2/43, lực lượng đoạn hậu. Theo lời một cựu sĩ quan Sư Đoàn 18.
Trong cuộc triệt thoái, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đương đầu với nhiều nguy hiểm nhất và tổn thất nhiều nhất vì họ là đơn vị cuối cùng và được trao cho trọng trách đoạn hậu… Hôm 20 tháng Tư, khi lệnh rút lui được ban hành, Lữ Đoàn còn đang giao tranh kịch liệt tại Bảo Định, và các binh sĩ chết và bị thuơng của Lữ Đoàn vẫn chưa đuợc di tản. Tất cả đã phải bị bỏ lại, như đã xảy ra trong cuộc hành quân Lam Sơn ở Hạ Lào [Lam Sơn 719 vào tháng Hai - tháng Ba 1971]. Chuyện này bắt buộc phải làm, bởi vì, đối với những người sống sót, đi qua con đường thoát hiểm dài hơn 40 cây số qua những rừng cao su đen kịt như là đi qua những cửa địa ngục. Đây là những bi kịch mà người lính VNCH phải đối đầu.
Đúng 9:00 giờ tối ngay khi những tiểu đoàn dù đến đường số 2 họ gặp phải một cảnh đáng nhớ và cảm động. Tất cả những gia đình Công Giáo từ giáo phận Bảo Định, Bảo Toàn, và Bảo Hòa tập trung dọc theo hai bên đường chờ để đi theo binh sĩ VNCH trong cuộc di tản... Việc đi qua nhiều cây số trên con đường rừng bỏ hoang, Liên Tỉnh Lộ 2 từ Tân Phong tới Đức Thạnh, quả thật không dễ cho một đoàn người dân chạy loạn lẫn lộn với lính ....chỉ có Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, bảo vệ bởi một đại đội trinh sát dù, đi trên đường. Những tiểu đoàn Dù khác đều di chuyển qua những rừng cây cao su, bọc phía sau. Vào 4:00 giờ sáng ngày 21 tháng Tư, 1975, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù và Đại Đội Trinh Sát Dù bị hai tiểu đoàn Việt cộng phục kích tại ấp Quí Cà gần ranh giới tỉnh Long Khánh - Phước Tuy. Hầu như tất cả trung đội pháo C và trung đội trinh sát nhảy dù đều bị chết hay bị thương trong cuộc tấn công biển người đó... Ngoại trừ những tổn thất vừa kể cuộc di tản trên đường 2 diễn tiến tốt." (92)
Có một sự hiểu lầm giữa Tướng Đảo và Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, chỉ huy Lữ Đoàn 1 Dù. Ông Đảo cần Tiểu Đoàn 2/43 giữ Núi Thị để bảo vệ phía Bắc của cuộc triệt thoái. Tiểu đoàn này sẽ rút lui từ từ và gặp Nhảy Dù tại Tân Phong. Không may, ông Đỉnh rút và để lại 2/43. Khi tới Đức Thạnh, Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng 43, báo cáo là Nhảy Dù gặp trở ngại tại ranh giới Long Khánh - Phước Tuy. Tướng Đảo lập tức lên trực thăng và bay về phía vị trí của Nhảy Dù để giúp họ và chỉ đường cho không quân đánh. Dọc đường, ông Hiếu gọi ông Đảo bằng radio và cho ông Đảo biết 2/43 vẫn đang chờ ở Tân Phong. Ông Đảo đổi qua tần số của Tiểu Đoàn 2/43 và ra lệnh không dùng đường 2, mà phải đi xuyên rừng để tránh những vị trí của cộng sản. (105) Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế ra lệnh cho lính của ông phân tán thành những đơn vị nhỏ. Mất ba ngày để họ rút lui qua rừng, chiến đấu suốt dọc đường. Họ bị tổn thất nặng với hơn 50% tiểu đoàn bị thiệt hại.
Một tổn thất nặng thứ hai trên đường rút là Trung Tá Tiểu Khu Phó Long Khánh Lê Quang Định bị tử thương khi xe jeep của ông bị trúng đạn B-40 của Cộng quân, và Cộng quân bắt được Đại tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phạm Văn Phúc và một số sĩ quan của ông. (93) Ông Phúc và ông Định đã quyết định rút lui cùng với Nhảy Dù, trong khi phẩn lớn ĐPQ của tiểu khu đã rời thành phố với Sư Đoàn 18 trong đêm.
Ngày 22 tháng Tư, lực lượng Nhảy Dù được lệnh tách khỏi Sư Đoàn 18 và đến phòng thủ Vũng Tàu. Lữ đoàn ở gần thành phố cảng nầy cho đến khi lệnh đầu hàng tới vào ngày 30 tháng Tư.
Dù quân VNCH đã rút khỏi Xuân Lộc, giao tranh vẫn không ngừng hẳn. Những toán đo độ sóng truyền tin của QLVNCH đã định được tọạ độ của bộ tư lệnh Sư đoàn 341 CS từ những rất nhiều thông tin qua lại trong khi đơn vị này cố sức tìm bắt cho được lực lượng VNCH rút lui.
Không Quân VNCH quyết định đánh bom bằng một vũ khí sát hại cao, CBU-55, một loại bom bi hơi ngạt với không khí - nhiên liệu, thiết kế với mục đích nguyên thuỷ là để dọn bãi mìn:
Với sự giúp đỡ của chuyên viên DAO Mỹ, phi công VNCH chế biến một giá đỡ bom cho quả bom… một thiết bị giết người khủng khiếp được biết dưới tên là CBU-55. Sự hiệu quả của vũ khí ghê gớm nầy đã được chứng minh không còn một chút nghi ngờ vào chiều thứ Ba [22 tháng Tư giờ Sài Gòn]. Một C-130 vận tải cơ với một CBU bay lên từ Tân Sơn Nhất, bay vòng Xuân Lộc một lần về phía Đông, và thả bom CBU trên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341 ở ngay bên ngoài thị xã mới chiếm được. Tổn thất rất lớn, trên 250 Cộng quân bị thiêu hoặc chết vì ngạt trong vùng chân không sau khi bom nổ, và trong một khoảnh khắc quân của Tướng Dũng bị lảo đảo khi đang bước." (94)
Ngay khi cộng sản tìm được nguyên nhân của lần tấn công đó, họ tố cáo dữ dội rằng Sài Gòn "coi thường tất cả những luân lý thông thường và luật lệ quốc tế" và lên án những viên chức ra lệnh xử dụng vũ khí đó là "tội phạm chiến tranh." (95)
Cuộc thả bom những CBU-55 là cú đánh cuối cùng trong trận chiến Xuân Lộc, mặc dù Lữ Đoàn 3 của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Trung Tá Hùng vẫn đánh ở Hưng Nghĩa. Vào 22 tháng Tư, Trung Đoàn 8 thực ra đã chiếm lại được thị trấn sau khi giao tranh nặng nề và tiến lên phía Dầu Giây, nhưng được lệnh ngưng khi Sư Đoàn 18 rút lui. (96) Ngày 25 tháng Tư, Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ được lệnh rút về Biên Hòa để nghỉ ngơi và bảo trì chiến xa và xiết chặt vòng đai phòng thủ Sài Gòn .
Lực lượng của Tướng Đảo dưỡng quân ở Long Bình được ba ngày. Họ đã phá hủy hơn ba mươi xe tăng địch, gây tử thương cho nhiều ngàn địch quân, và sấp sỉ số đó bị thương, trong lúc chính họ cũng bị tổn thất nặng.
Buổi sáng 30 tháng Tư, Sư Đoàn 18 của Tướng Đảo đang ở Nghĩa Trang Quân Đội Quốc Gia khi chính phủ VNCH đầu hàng. Ông Đảo liên lạc với gia đình, rồi ông mặc thường phục và trốn về phía Cần Thơ với cố gắng kết hợp với bộ Tư lệnh Quân Đoàn IV VNCH, hy vọng Quân Đoàn IV và các lực lượng VNCH sẽ tiếp tục chiến đấu. Mặc dù chính phủ đã đầu hàng, ông muốn chiến đấu tiếp. Khi ông tới được Cần Thơ và biết được rằng Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Quân Đoàn IV đã tự sát, ông hiểu rằng mọi chuyện đã kết thúc.
Ngày 9 tháng Năm, Ông Đảo ra trình diện nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong mười bảy năm kế tiếp, ông Đảo bị giam trong một trại tù cải tạo. (97)
Nhận Xét của Tác Giả George Veith
Tuy rằng chương trình cục "R" tấn công Sài Gòn từ phía Đông Bắc bị phá hỏng , nhưng cuối cùng các lực lượng Quân Đoàn III cũng không chống nổi cả một quân đội Bắc Việt.
Mặc dù bị mang tiếng tham nhũng và thiếu khả năng, QLVNCH, như đã thấy trong trận chiến Xuân Lộc, không phải là một đạo quân không làm được việc và hèn nhát như báo chí ở Mỹ thường nói. Khi những người bắt ông Đảo hỏi tại sao ông không chạy thoát như những tướng lãnh khác của VNCH, ông Đảo nói với họ là ông không thể bỏ những binh sĩ đã chiến đấu cực khổ vì ông. Tôi là Tướng của họ, ông nói với cai tù, và nếu các ông còn giữ một thuộc cấp nào của tôi, tôi muốn tôi là người cuối cùng của Sư Đoàn 18 VNCH được thả. "Nếu không, tôi không dám nhìn mặt họ," ông nói.
Nói về trận Xuân Lộc, ông Đảo bình thản tuyên bố, "Chiến đấu là môt nghệ thuật; bạn không thể chỉ sử dụng tay chân, mà phải dùng cả trí óc. Mặc dù chúng tôi biết là chúng tôi đã thua trong cuộc chiến, tôi vẫn chiến đấu. Tôi đã tràn đầy tuyệt vọng sau khi mất các Quân Đoàn phía Bắc, nhưng tôi vẫn chiến đấu." Ông đã trả lời tương tự cho một phóng viên trong chuyến thăm thị xã Xuân Lộc vào 13 tháng Tư , 1975 "Tại sao quân Cộng Hoà chiến đấu tại Xuân Lộc mà không ở phía Bắc?” “Làm sao tôi có thể trả lời cho họ,” Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 VNCH nói, “tôi chỉ trả lời cho tôi, và chúng tôi đã chiến đấu." (98)
Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo được thả khỏi tù vào 4 tháng Năm 1992 và tới Hoa Kỳ vào tháng Tư 1993. Ông hoạt động trong những cộng đồng người Việt lưu vong, dùng nhiều thì giờ để đi thăm binh sĩ cũ của ông, phần lớn là sĩ quan, bởi vì rất ít binh sĩ cấp dưới rời Việt Nam.
Ông yêu cầu người viết, "Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Binh sĩ của tôi, những người đã chết ở Xuân Lộc và cả trăm trận đánh trước, mới thực sự là anh hùng."
Không cần gọi Tướng Lê Minh Đảo là anh hùng. Có những sự thật tự nó đã là bằng chứng.
Sơ Lược về Các Tác Giả
George J. Veith là cựu Đại Uý Thiết Giáp Quân Đội Hoa Kỳ và là tác giả quyển “Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts During the Viet Nam War (New York: Free Press, 1997). Ông sẽ cho xuất bản sắp tới “Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for America POW/MIA’s from the Vietnam War.”
Merle L. Pribbenow II về hưu từ the Central Intelligence Agency vào 1995 sau hai mươi bảy năm làm viêc với chức vụ điều hành viên về Ngôn Ngữ Việt Nam và Công Tác. Những bài viết của ông về lịch sử Chiến Tranh Việt Nam đã được phát hành trong “Vietnam , Parameters, and Military Review.” Bản dịch của ông về lịch sử cuôc chiến, chính thức của Bộ Quốc Phòng “Victory in Vietnam”, đã được phát hành vào 2002 bởi “University Press of Kansas”.
***
(1) Phỏng Vấn Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, East Hartfort, Connecticut, 7 tháng Tư, 2001. Ông giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 18 QLVNCH từ tháng 3, 1972. Tháng 11, 1972, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng và tiếp tục chỉ huy Sư Đoàn 18 cho tới ngày miền Nam Việt Nam mất. Ngày 24 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Trần Văn Hương ra nghị định thăng cấp cho ông lên Thiếu Tướng. Cuộc phỏng vấn với tác giả Veith là lần nói chuyện đầy đủ đầu tiên với vị Tướng của QLVNCH chỉ huy trong trận chiến Xuân Lộc sau khi ông được ra tù vào tháng Năm, 1992. Ông là một trong bốn vị tướng được thả sau cùng trong số những sĩ quan VNCH bị Cộng Sản giam giữ. Các tác giả xin cám ơn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo về những nỗ lực của ông để giúp tác giả thấu hiểu về góc nhìn của QLVNCH trong trận Xuân Lộc. Tất cả những chuyện về Tướng Lê trong bài viết là từ cuộc phỏng vấn và những trao đổi sau đó.
(2) Tuỳ Viên Quân Sự Sài Gòn, Nhận Định Sau Cùng Về Không Quân VNCH, Tháng Một Đến Tháng Tư 1975 [Phổ Biến Công Khai ngày 19 tháng Một, 1980] (Washington: Bộ Lục Quân Hoa Kỳ, 1975), 5-19. Các tác giả xin cám ơn Ông Dale Andrade tại Trung Tâm Lịch Sử Quân Đội đã cung cấp những trích đoạn từ các bản báo cáo của Văn Phòng Tuỳ Viên Quân Sự về trận Xuân Lộc.
(3) Theo: Biệt Động Quân QLVNCH (Tác giả tự xuất bản, Carrollton, MD, 1996), 94.
(4) Nguyễn Quốc Dũng, Phan Xuân, Hồ Sĩ Lương, Phạm Xuân Trường, Lê Văn Chương, Binh Đoàn Cửu Long (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1989) 80. Trong Chiến Dịch Đường 14 – Phước Long, Quân Đoàn 4 có mật danh là “Nhóm 301”. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4.
(5) Hoàng Cầm và Nhật Tiến, Chặng Đường Mười Nghìn Ngày: Hồi Ký ((Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1995), 436. Các tác giả xin cám ơn ông Robert Destatte đã cho chúng tôi mượn quyển sách này và nhiều sách khác trong thư viện các sách từ Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân rất phong phú của ông. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Hoàng Cầm, Hồi Ký.
(6) Trần Văn Trà, Lịch Sử Chiến Tuyến B-2, vol. 5, Kết Thúc Cuộc Chiến 30 Năm (Arlington, Va.: JPRS, 1982), 144. Dịch tại JPRS #82782. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2.
(7) Nguyễn Thanh Hồng, Nguyễn Phi Yên, và Nguyễn Văn Thắng, Sư Đoàn Sông Lam (Hanoi: Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1984), 36. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Nguyễn Thanh Hồng at al, Sư Đoàn 341.
(8) Vì Sư Đoàn 6 không tồn tại lâu nên rất ít tài liệu được ghi lại trong lịch sử của quân đội Bắc Việt. Do đó, bài viết chỉ có chi tiết tổng quát về hoạt động của Sư Đoàn 6 CS trong trận Xuân Lộc. “Cuộcc Họp Mặt B500 Giữa Thành Phố Mang Tên Bác”, Báo Quân Đội Nhân Dân, 3 tháng Hai, 1995.
(9) Không có nghi ngờ rằng Quân Đoàn 4 CS có một trung đoàn thiết giáp. Quân sử của Quân Đoàn 4 CS có những chi tiết xác nhận là họ có Trung Đoàn 26 thiết giáp. Tuy vậy, quân sử của Quân Đoàn 4 không hề nhắc đến Trung Đoàn 26 thiết giáp trong trận Xuân Lộc, mặc dù có nói mơ hồ rằng “tất cả thiết giáp đều được tung vào trận đánh.” Một tù binh bị bắt trong ngày đầu tiên thuộc tiểu đoàn 25 công binh của Sư Đoàn 7 CS khai rằng sư đoàn này có 20 xe tăng. Trong khi khá chắc chắn rằng một tiểu đoàn 8 chiếc xe tăng đã được xử dụng trong ngày đầu, những xe tăng còn lại không rõ là ở đâu vì Sư Đoàn 6 và 341 đều không có xe tăng.
(11) Đặng Văn Hùng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7: Ký Sự (Hanoi: Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1986), 266. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Đặng Văn Hùng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7.
(12) Phỏng vấn bằng điện thoại với cựu Tiểu Đoàn Trưởng 2/43, Thiếu Tá Nguyễ Hữu Chế, Warran Michigan, 22 tháng Tám, 2001.
(13) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 158.
(14) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 442.
(15) Nguyễn Thanh Hồng và Nhóm, Sư Đoàn 341, 52.
(16) Không có bằng chứng chắc chắn về việc Trung Đoàn 273 CS đánh Xuân Lộc. Quân sử của Sư Đoàn 341 CS không nhắc gì về trung đoàn này tham dự trận đánh.
(17) Theo lời Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/52 VNCH, ông Huỳnh Văn Út, dân chúng tại Kiệm Tân là những người theo đạo Thiên Chúa Giáo, đã bỏ miền Bắc ra đi từ năm 1954. Dân chúng đã mang biếu binh sĩ của Tiểu Đoàn hai con bò và hai trăm ngàn đồng VN vì họ đã chận được Cộng quân tại “Vòng chữ C”, không cho chúng tiến xa hơn. Thư của ông Huỳnh Văn Út gởi cho tác giả, ngày 18 Tháng Tám, 2001.
(18) Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4, 144.
(19) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 460.
(20) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 153.
(21) Võ Nguyên Giáp , với Phạm Chí Nhân, Tổng Hành Dinh Trong Mùa Xuân Toàn Thắng (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quốc Gia, 2000), 261.
(22) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 154. “Anh Ba” là mật hiệu của Lê Duẩn.
(23) Ibid.
(24) Cầm ghi lại là vào lúc đó ông đã thấy quá trễ để đánh Xuân Lộc.
(25) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 447.
(26) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 448.
(27) Ibid, 450.
(28) Sự trợ giúp và những cuộc tấn công của Việt Cộng tại Xuân Lộc bị những người viết Cộng Sản bỏ quên. Tác giả không chắc điều này là vì sự giúp đỡ ít ỏi của các Chi Bộ địa phương hay là họ bị quên lãng như chuyện thường xảy sau chiến tranh ra khi những cây bút miền Bắc thay đổi tài liệu về sự đóng góp của người Nam. Trong tất cả sử sách của Cộng Sản Việt Nam, chỉ có một ít nhắc nhở tới sự giúp đỡ của những lực lượng này.
(29) Đặng Văn Hùng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7, 290.
(30) Đại Tá CS Phạm Đính, Đại Tá CS Hoàng Cơ Quang, Đại Tá CS Nguyễn Đức Thông, Đại Tá CS Hồ Hữu Vinh, Thượng Tá CS Nguyễn Quốc Dũng, Trung Tướng CS Hoàng Phùng, Lịch Sử QĐND Việt Nam, Tập 2 (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1993), 563. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử QĐND.
(31) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành Dinh, 279.
(32) Ý Yên, Trên Đồi Móng Ngựa, Saigon Post.
Ý Yên là bút hiệu của Phan Tấn Mỹ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52. Ông viết bài báo theo lời kể của Tướng Đảo để tóm tắt về những diễn tiến của trận Xuân Lộc. Saigon Post là một tờ báo của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản tại Orange County, California nhưng đã ngưng xuất bản.
(33) Mọi nguồn tin trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân VN đều nói là những trái pháo đầu tiên đã tiêu huỷ hệ thống liên lạc của Sư Đoàn 18 VNCH và đánh xập cột ăng ten trên Núi Thị. Tuy nhiên, cả Tướng Lê Minh Đảo và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, Tiểu Đoàn Trưởng 2/43 đóng trên Núi Thị đều bác bỏ điều này. Ông Đảo nói rằng hệ thống liên lạc với các đơn vị của ông đều tốt trong suốt trận đánh.
(34) Theo nhiều nguồn tin về ngày mở đầu của trận đánh.
(35) Tất cả các nguồn tin trong lịch sử của Cộng Sản Bắc Việt đều nói là Sư Đoàn 7 CS tấn công ngày đầu với chỉ 8 xe tăng, nhưng Tướng Đảo nói rằng cả một trung đoàn thiết giáp đã được sử dụng trong suốt trận Xuân Lộc. Cả hai bên CS và VNCH đều nói có bốn xe tăng của Cộng quân bị huỷ diệt trong ngày đầu, riêng Tướng Đảo nói rằng họ đã diệt 10 xe tăng.
(36) Thư gởi cho tác giả từ Thiếu Tá VNCH Đỗ Trung Chu, Tiểu Đoàn Trưởng 1/43, Cabramatta, Australia, 23 tháng Ba, 2002.
(37) Cấp chỉ huy Cộng quân coi sáng kiến này là rất hiệu quả đến độ họ sử dụng cách này trong các trận đánh với quân Khmer Đỏ.
(38) Tướng Đảo nói về Tiểu Đoàn Trưởng 82 BĐQ là “rất anh dũng” và binh sĩ trong tiểu đoàn này chiến đấu “thần sầu” dù là mới thoát về từ trong rừng.
(39) Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử QĐND, 548. Dù với sự thổi phồng không ngừng về chiến thắng lẫy lừng trước “quân Nguỵ” đang yếu, đây là một công nhận quan trọng vê` những khó khăn Sư Đoàn 7 gặp phải.
(40) Theo FIBS báo cáo của một phóng viên Pháp ở Hồng Kông, “Giao tranh trong thành phố suốt buổi sáng, đến trưa bộ chi huy VNCH nói là phần lớn Cộng quân đã bị đẩy lui. Nhưng giao tranh vẫn diễn ra gần nhà thờ và bến xe đò.” FBIS Asia and Pacific, 9 tháng Tư, 1975, trang. L7.
(41) Những nguồn tin trong Lịch Sử QĐND VN viết là Không Quân VNCH bay tới 60-70 phi vụ trong ngày đầu để yểm trợ Sư Đoàn 18.
(42) Không có chi tiết về thương vong trong từng đơn vị trong quân sử của Cộng quân, nhưng tác giả tin rằng tổn thất nặng nhất là cho Trung Đoàn 266.
(43) Đặng Văn Hưng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7, 294. Tất cả tin tức của CS nói là họ chiếm được ngã ba chiến lược Dầu Giây ngay ngày đầu nhưng tin đó hoàn toàn sai.
(44) Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử QĐND, 548.
(45) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 451.
(46) Nguyễn Thanh Hồng và Nhóm, Sư Đoàn 341, 70-71.
(47) Tướng Cao Văn Viên, Sự Sụp Đổ Cuối Cùng (Washington: Chuyên Khảo về Đông Dương, Trung Tâm Lịch Sử Quân Sự, Lục Quân Hoa Kỳ, 1985) 132.
(48) Phillip Caputo, "S. Viets take skeleton of city," Chicago Tribune, 14 April, 1975, 3.
(49) Điện tín, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn gởi Tổng Trưởng Ngoại Giao, “Đề tài: Nhóm (folder) Vietnam: Điện Tín Từ Bộ Ngoại Giao đến Tổng Trương Ngoại Giao, Hộp 21, Hồ Sơ Các Quốc Gia của Tổng Thống về Đông Á và Thái Bình Dương. Thư viện Gerald Ford, Ann Arbor, Michigan.
(50) Nguyễn Thanh Hồng và Nhóm, Sư Đoàn 341, 63.
(51) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 452.
(52) Tướng Văn Tiến Dũng, Our Great Spring Victory: An Account of the Liberation of South Vietnam (New York: Monthly Review, 1977), 167.
(53) Cuộc phỏng vấn với cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân Đoàn III QLVNCH, West Covona, California 17 tháng Bảy, 2001. Toàn tin là nếu được cho đủ hỏa lực, ông ý nói đến B-52, Ông có thể chận cộng quân bên ngoài Sài Gòn và đánh tan sự tập trung của quân đội Cộng Sản. Trong khi ông Toàn chắc chắn biết chuyện đó là không tưởng, ông đã được một số sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ khuyến khích yêu cầu chuyện đó.
(54) Trần Quang Khôi "Chiến Đấu Đến Kết Thúc : Vai Trò của Lữ Đoàn III Thiết Giáp và lực lượng Tấn Công của Quân Đoàn III Trong Những Ngày Cuối Cùng Của Trận Chiến" Thiết Giáp ; Tháng Ba / Tháng Tư 1996, 14.
(55) Phỏng vấn với cựu Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi , tư lệnh, lữ đoàn 3 thiết giáp, Chantilly, Virginia, 14 tháng bảy 2001.
(56) Nhiều quân sử Cộng Sản nói ngày Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đến Xuân Lộc là ngày 10 tháng Tư. Những nguồn tin VNCH nói là ngày 12 tháng Tư. Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ điện tín và báo chí tường thuật là ngày 11 tháng Tư. Người viết tin là đơn vị nhảy dù đầu tiên đáp xuống vào 11 giờ sáng ngày 11 tháng Tư, nhưng đến ngày 12 tháng Tư cả Lữ Đoàn 1 mới đến đủ.
(57) Hồ Dinh , "Mặt Trận Xuân Lộc", 8 tháng Năm,2001,
(58) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập Từ Trận Đầu (Ấp Bắc, 1963) Đến Trận Cuối Cùng (Sài Gòn 1975). Toronto: xuất bản Làng Văn 2001, 787. Ông Ý Yên Phan Tấn Mỹ cũng ghi là đêm 11 tháng Tư đại đội đóng trên đồi Móng Ngựa tiêu diệt một nhóm trinh sát địch xa vào một bẫy phục kích mìn Claymore. Tổng số địch chết mười bảy, kể quá bốn sĩ quan cao cấp mang theo bản đồ chi tiết làm tại China và một thẻ đi đường cấp cho "Nhóm Nghiên Cứu Quân Sự Đặc Biệt 301", nhóm đã sục sạo trong khu vực tới 30 tháng Tư.
(59) Theo thư gửi người viết từ cựu đại úy Huỳnh Văn Út, Tiểu Đoàn Trưởng 2/52, 17 tháng Tám., 2001. Ông Út ghi là ông còn thấy năm xe vận tải bị phá hủy bởi Không Quân VNCH gần Ấp Núi Tùng.
(60) Hai bài viết "55 Ngày: Sự Sụp Đổ Của Nam Việt Nam (Eglewood Cliff,N.J.: Prentice Hall, 1977)" , và một sách Cộng Sản , "Mặt Trận Đông Bắc Sài Gòn: Ký Sự" của Nam Hà (Hồ Chí Minh city : Nhà Xuất Bản Văn Học, 1978) đều viết về một cuộc phục kích quân nhảy dù bởi đơn vị này. Theo Nam Hà, Tiểu Đoàn 8 CS thấy quân nhảy dù tiến tới và vội vàng sửa soạn một cuộc phục kích. Khi các Mũ Đỏ VNCH tiến vào, quân Bắc Việt nổ súng và gây thiệt hại nặng cho đơn vị nhảy dù. Tuy thế, nhảy dù khoá tay quân địch và gởi một đơn vị khác vòng qua hông địch và bao vây Cộng quân. Tác giả không tìm được một xác nhận nào khác về cuộc tấn công này của Cộng quân.
(61) Quân sử của Sư Đoàn 341 CS xác nhận là một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 CS bị bao vây trong một cuộc tấn công của nhảy dù. Quân sử của Sư Đoàn 7 chỉ nói họ được lệnh ngừng tấn công và giữ vị trí của họ. Quân sử Sư Đoàn 341 có nói là tiểu đoàn 18", nhưng tác giả nghĩ là in lầm số và đó là số 8. Quân sử "341" thì nói rõ ràng là sư đoàn được lệnh để "làm một cuộc tấn công để giải vây cho tiểu đoàn 18, sư đoàn 7." Nguyễn Thanh Hồng và nhóm sư đoàn 341, 73
(62) Trần Văn Trà, "Chiến tuyến B-2 ", 170.
Quân sử Quân Đoàn 4 cung cấp rất nhiều lý do sự thất bại không đánh chiếm được Xuân Lộc. Họ công nhận đây là "Những Bài Học Cho Chúng Ta Trên Đường Trưởng Thành Của Quân Đoàn 4”,158-59, Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4, 158-159
(63) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 453-54.
(64) Văn Tiến Dũng, Đại thắng Mùa Xuân, 167.
(65) Tướng CS Hoàng Văn Thái gián tiếp chỉ trích Trần Văn Trà cho sự thất bại của ông không chịu đi vòng qua An Lộc trong trận Bình Long 1972.
(66) Đặng Văn Hưng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7, 298.
(67) Điện tín từ SSO Sài Gòn tới SSO DIA, "Đề tài: Tình Báo Có Ý Nghĩa, Việt Nam," Nhóm (folder) Sài Gòn đến Hoa Thịnh Đốn, 9-18 tháng Tư 1975, Hộp 8, Hồ Sơ của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia: Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, Thư viện Ford.
(68) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 170. Võ Nguyên Giáp và những người khác cũng đề cập đến chuyện tăng viện cho Quân Đoàn 4 nhưng không có những con số rõ ràng.
(69) Nguyễn Thanh Hồng và nhóm sư đoàn 341, 78.
(70) Trần Văn Trà, chiến tuyến B-2, 171. Cả Trà lẫn Hoàng Cầm nói rằng Trà được tóm tắt về kế hoạch tấn công mới khi ông đến. Chiến lược mới được phát triển trong phiên họp trưa ngày 11 tháng Tư, 1975 tại cục "R". Trần Văn Trà, chiến tuyến B-2, 173
(71). Trực thăng Chinook từ phi đoàn 237 và 247 Không Quân Việt Nam. Phi đoàn 247 thoát đi từ Đà Nẵng. Một nửa phi đoàn được gởi đi Quân Đoàn IV và nửa kia đi Quân đoàn III . Phỏng vấn bằng phone với Cựu Đại Úy VNCH Nguyễn Kim Phát, Ft. Worth, Texas. Đại Úy là một phi công Chinook thuộc Phi Đoàn 247 và tham dự trong việc tái tiếp tế và sau đó làm việc với phái đoàn báo chí.
(72) Ngay sau khi phái đoàn báo chí đến thăm, ông Đảo bị một miểng đạn đại bác bắn vào cánh tay từ pháo binh địch. Ông nhận ra Cộng quân đang nghe lén liên lạc của ông. Thứ nhất ông rời bộ chỉ huy của ông về địa điểm thứ ba, trong một vườn trái vải gần Tân Phong. Thứ hai, ông gọi cho Đại tá Hiếu trên máy truyền tin để cố lừa Cộng quân nghe lén bằng cách nói như là đạn đại bác đã rớt gần Hiếu thay vì ông.
(73) Nicolas C .Profitt , "Thoát Từ Xuân Lộc." , Newsweek , 18 tháng Tư 1975, 22.
(74) Đại úy Phát nói cấp chỉ huy dưới đất ra lệnh ông bay lên mà không bắt những người lính đào ngũ xuống. Tuy thế, những phi công dùng điệm đàm báo cáo và bay đến một sân bay gần Biên Hòa để cho Quân Cảnh bắt những người đào ngũ.
(75) Để xem một bài tường thuật giá trị về cuộc thăm của phóng viên, xem David Butler, The Fall of Saigon: Scenes from the Sudden End of a Long War (New York: Simon and Schuster, 1985 ), 244-50. Để xem 6 hình ảnh đẹp chụp đươc trong lần thăm đó (mặc dù sự miêu tả của những biến cố hoàn toàn sai), xem Dizack Halstead - " White Christmas-The Fall of Saigon,"
http://digital journalist.org/issue0005/ch1.htm
(76) Thư gởi người viết từ Cựu Đại Úy VNCH Phạm Văn Ban, chỉ huy chi đoàn 1/15, tháng Mười 2001.
(77) Bom "Daisy Cutter" được dùng để dọn những rừng rậm vì những áp suất cực cao khi bom nổ sẽ làm đổ bất cứ cây nào trong bán kính khá rộng, ngay cả tiêu diệt tất cả côn trùng trong vòng nhiều ngày. Theo theo Frank Snepp, trong tháng Tư 1975, viên chức cao cấp Mỹ đề nghị trang bị "Daisy Cutter" cho Không Quân VNCH xử dụng. Quân đội VNCH đồng ý, và C-130 của Mỹ chở bom tới Tân Sơn Nhất nơi bom được gắn lại trên C-130 A của Việt Nam. Robert C Mikesh, "Flying Dragons: The South Vietnamese Airforce” (London :Osprey, 1988 ), 144
(78) Điện Tín của Trung Tâm Tình Báo Mỹ , ngày 22 tháng Tư 1975, MORI ID 612782, 3,4.
(79) Tướng William W.Momyer, "Không Quân Việt Nam, 1951-1975 : Một Nghiên Cứu Vai Trò của Họ Trong Chiến Tranh, Không Lực Hoa Kỳ Chuyên Khảo về Đông Nam Á, tập 3 , khảo cứu 4 ( Hoa Thịnh Đốn :Văn Phòng của Lịch Sử Không Quân , 1985, 78.
(80) Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4, 157.
(81) Nguyễn Khắc Tinh, Trần Quang Hậu, P Luan và Bùi Thanh Hùng , "Pháo Binh Nhân Dân Việt Nam : Tập II " ( Hà Nội :Bộ Tư Lệnh Pháo Binh , 1986), 467, 470.
(82) Những quân sử cộng sản nói mơ hồ về trận đánh này. Thật vậy, quân sử của Trần Văn Trà và Quân Khu 7 nói là trận đánh này bắt đầu sáng 14 tháng Tư, giống như trong “Mặt Trận Đông Bắc của Sài Gòn" của Nam Hà. Trong khi đó, phần lớn các tin khác ghi là 15 tháng Tư, như những báo chí Tây Phương. Có lẽ Trà và những tin cộng sản khác nhắc tới cuộc tấn công khác vào tiểu đoàn 1/52 ở Ấp Phan Bội Châu.
(83) Ý Yên "Trận Đánh Tại Đồi Móng Ngựa", Sài Gòn Post, n.d
(84) Đảo đặc biệt khen quân của ông tại đồi Móng Ngựa, khi ông nói họ đã chống trả mãnh liệt nhất trong những binh sĩ của ông trong trận đánh.
(85) Fox Butterfield, "Câu Chuyện của Một Đại Úy từ Xuân Lộc", New York Times, 17 tháng Tư 1975, 20
(86) Phỏng Vấn Điện Thoại với Cựu Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng , Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, sư đoàn 5 VNCH , Garden Grove, California , 19 tháng Bảy 2001.
(87) Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm. Quân Đoàn 4, 161
(88) Nguyễn Khắc Tỉnh và Nhóm , "Pháo Binh Nhân Dân",469-73.
(89) Ông Đảo nói với sĩ quan pháo binh trên Núi Thị bắn hết đạn và nhớ phá hủy hai đại bác khi họ ra đi. Đại bác bắn cả đêm 20 tháng Tư có thể đã báo hiệu cho Việt cộng là sư đoàn 18 rút lui.
(90) Hứa Yến Lến, "Phòng Tuyến Thép Xuân Lộc (Long Khánh): 12 Ngày Đêm Chiến Đấu Chống Cộng Quân (8-20 Tháng Tư, 1975)” [“The Line of Steel At Xuan Loc (Long Khanh): 12 Days and Nights of Ferocious Combat Against the North Vietnamese Communists (8-20 April 1975)"] (Chưa Xuất Bản, Seattle, 5 February 1998), 6.
Tướng Đảo nói Đại Tá Dũng bay trên trực thăng của ông, mà ông đã gởi về Biên Hòa lúc mới đánh nhau, và “chiếc trực thăng được sử dụng như một trung tâm phối hợp trên không để giữ liên lạc với các đơn vị của chúng tôi dưới đất, bởi vì... tôi không liên lạc được với những đơn vị ở xa, như Trung Đoàn 48 hoặc đoàn thiết giáp của Đại Tá Lến. Khi cần, tôi liên lạc với đại tá Dũng... Ông truyền lệnh tôi cho đơn vị có lệnh."
(91) Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân, 549.
(92) Ho Dinh "Mặt Trận Xuân Lộc", 10.
(93) Nhiều nguồn tin sai lạc ghi là Đại Tá Phúc bị giết trong lúc rút. Phúc ở lại Việt Nam sau khi được thả ra khỏi tù, nhưng gần đây di dân sang Hoa Kỳ.
(94) Tướng Nguyễn Văn Toàn xác nhận là có thả hai trái bom CBU
(95) "Bộ Ngoại Giao, Nhân Dân , Lên Án Sử Dụng Bom Hơi Ngạt", FBIS Á Châu và Thái Bình Dương , 24 tháng Tư 1995, p.k1.
(96) Sau trận ở Hưng Nghĩa, Trung Đoàn 8 trở về phòng thủ tỉnh Bình Dương và ở đó tới 30 tháng Tư. Trung Tá Hùng Trung Đoàn Trưởng nhắc chuyện Tỉnh Ủy Cộng Sản Bình Dương gọi ông trên máy truyền tin vào buổi tối 29 tháng Tư đề nghị một cuộc gặp gỡ. Ông Hùng từ chối. Sau đó chính phủ VNCH đầu hàng. Cộng sản gọi ông lần nữa và bây giờ ông không có sự chọn lựa. Ông ở trong tù mười ba năm.
(97) Trong những năm ở tù, Tướng Đảo là điểm chính trong nỗ lực bán chính thức, chính phủ Mỹ cố vận động cho ông được trả tự do. Richard Childress, Giám Đốc Á Châu Sự Vụ Cho Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thời Tổng Thống Reagan, vẫn thường bàn thảo những liên hệ song phương, phần lớn về chuyện tù nhân chiến tranh và binh sĩ mất tích với Ngoại Trưởng Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa Nguyễn Cơ Thạch. Khi còn là một đại úy trẻ trong Lục Quân Mỹ, Childress là cố vấn tỉnh Chương Thiện vùng đồng bằng nơi ông làm việc gần gũi với ông Đảo. Trong những cuộc bàn thảo với Thạch, Childress yêu cầu ông Thạch thả một người bạn trong trại tù. Khi Thạch hỏi là ai, Childress trả lời "Lê Minh Đảo". Thạch cau mày và lẩm bẩm "Cái đó khó". Childress tiếp tục yêu cầu Thạch, nhưng nỗ lực của ông không thành công.
(98) Peter Arnett, "Lính Sài Gòn Ở Xuân Lộc Hãnh Diện." New York Times, 14 tháng Tư 1975.
Chú thích thêm của người dịch:
Theo Đại Tá Lến BCH/Tiểu Khu/Long Khánh đi trong toán này nhưng thành phần chính của Tiểu khu gồm Đại tá Phạm văn Phúc Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng, Trung tá Lê quang Định/TMT/TK, một số sĩ quan và toán hộ tống đã không di chuyển cùng với BCH/TK/Long Khánh.
(105) Nguyễn Hữu Chế, Trận Chiến Cuối Cùng, Warran Michigan, (Tác giả tự xuất bản, 2010), 75. Theo ông Chế, thực ra Đại Tá Ngô Kỳ Dũng là người nhận lệnh Tướng Đảo bay trực thăng tới để báo cho Tiểu Đoàn 2/43 về việc phải đổi lộ trình đi xuyên rừng để tránh Cộng quân.
(106) Khi tác giả G. Veith viết bài này năm 2001, bài viết “Tuyến Thép Xuân Lộc” của Đại Tá VNCH Hứa Yến Lến và sách Trận Chiến Cuối Cùng của Thiếu Tá VNCH Nguyễn Hữu Chế chưa được xuất bản. Hai bài viết này, của hai vị chỉ huy đã có nhiều đóng góp trong trận Xuân Lộc, rất mạch lạc và có đầy đủ dữ kiện.