Bà Ngoại, Goodwill & Chuyện Người Do Thái
Người Việt tha hương trong những năm đầu trên đất Mỹ, có lẽ ai cũng từng ghé qua mua sắm ở Goodwill. Quần áo, giày dép, túi xách, đồ chơi, đồ điện máy, sách báo, tạp chí.. thứ gì Goodwill cũng có, nhiều món "quý hiếm" không còn thấy bán trong chợ nữa.
Người Mỹ hay dọn nhà, mua sắm, chi dùng rất hào phóng, nhất là ở những tiểu bang khí hậu lạnh, quần áo mặc theo mùa, lâu lâu soạn lại cái tủ hay dọn dẹp nhà cửa là sẽ có ngay vài túi lớn để đem tặng cho các hội đoàn từ thiện. Đặc biệt hội Goodwill rất được nhiều người ưa chuộng vì có những trạm nhận đồ ở gần nhà, có người ký biên nhận, giúp chuyển đồ từ trên xe xuống, khỏi phải đậu xe vào.
Mỗi lần mang quần áo và đồ dùng đi cho, tôi lại nhớ về bà ngoại. Bà ngoại mồ côi từ nhỏ, chỉ có anh trai được đi học, bà phải đi theo đứng ngoài cửa lớp mà học lóm từ người anh.Như để đền bù lại, trời phú cho bà một bộ óc rất tinh anh và nhạy bén cùng với trái tim nhân hậu, luôn sẵn lòng cưu mang, giúp đỡ những người bà con khốn khó. Bà ngoại rất giản dị, có phần hơi "hà tiện". Nghe kể trước năm 75, khi ông ngoại tôi đi làm được nhiều tiền, bà vẫn giữ nếp chi xài căn cơ, không hề sắm sanh hoang phí.
Ngày đó tôi là "con một, cháu một" nên rất được nuông chìu. Bà ngoại tôi lại chăm chỉ bươn chảy bán buôn nên quần áo giày dép, đồ chơi của tôi lúc nào cũng đầy đủ dù cả nước đang sống trong thời kỳ "thiên đường” đèn đóm "ngọn tỏ ngọn lu".
Có một điều mãi in sâu trong trí tôi đến tận bây giờ, là bà ngoại lúc nào cũng rất kỹ lưỡng chăm chút quần áo của tôi, luôn giữ thật tinh tơm, không để lấm lem nhựa cây, bánh trái.
Mỗi khi tôi muốn ra chơi ngoài đất cát, bán quán tạt lon lấm lem bùn sình, nhựa cây bám chặt vào vải khó giặt tẩy, bà đều bắt tôi phải thay những bộ đồ cũ, tối màu, để giữ cho những bộ đồ mới sáng màu luôn sạch sẽ. Tôi lớn nhanh như thổi, bà ngoại giữ những bộ quần áo của tôi mang về xóm nghèo quê cũ cho những người bà con thân sơ trong xóm. Thay vì đóng tiền "thuê" sách ở trường, bà ngoại hay mua cho tôi sách mới, dặn tôi giữ gìn cẩn thận, để hết năm học mang về quê cho. Ngoại cũng hay hỏi thăm những bạn bè ở gần nhà có quần áo cũ muốn bán rẻ thì bà mua lại, cứ thu nhặt mỗi nơi một ít, mang về "trữ" trong nhà.
Trừ những lúc ở trường, thì ngày nghỉ tôi luôn là "cái đuôi" của bà ngoại, bám cả theo những chuyến đi mang quà về quê cũ. Thuở đó đường sá từ tỉnh này qua tỉnh kia chỉ cách nhau khoảng trăm cây số mà chúng tôi phải vừa đi xe đò, vừa đi tàu, chặng cuối cùng là đò máy.
Tôi nhớ hoài những buổi trưa hè ngồi trên chiếc xe đò nóng bức dưới ánh nắng chang chang, hai chân tôi phải co lên hết vì bên dưới là 3, 4 bao đồ cũ chất cao lên hơn cả ghế ngồi. Khi nào mỏi, tôi duỗi chân ra thì coi như chuyển sang thế "chổng hai cẳng lên trời". Ngày nắng nóng đã mệt, ngày mưa còn khổ sở hơn. Những chiếc xe đò cũ kỹ từ thời nảo thời nao không hề có cửa kiếng, mà chỉ có những cánh cửa nhôm kéo xuống bít bùng. Đi xe đò mà gặp ngày mưa không khác nào bị nhốt trong cái hộp tối mò, thỉnh thoảng còn bị nước dột tong tong ướt cả áo quần, đầu tóc.
Ai từng đi xe đò những năm 80s chắc sẽ không bao giờ quên cảm giác khổ sở ngồi đợi xe lăn bánh, đến khi xe chạy rồi thì hơi xăng cùng hơi người, hơi gà vịt bốc lên nồng nặc, lại cầu cho xe ngừng đừng chạy nữa. Một đoạn đường khoảng 20 cây số mà xe chạy cà rịch cà tang, còn phải dừng lại đổ xăng đổ nước cả chục lần. Sau hơn nửa ngày lắc lư trên xe, ông bà cháu tôi "đổ bộ" tay xách nách mang, vai vác, dừng lại ngủ ở nhà người quen một đêm đợi sáng sớm mới có đò đi tiếp.
Đi đứng gian nan là vậy, nhưng cứ cách năm là ông bà tôi làm một chuyến về quê cũ. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh những em nhỏ trang lứa với tôi, tay chân khẳng khiu, áo quần phong phanh đóng phèn bạc thếch, đón lấy những bộ quần áo, tập sách cũ của tôi với ánh mắt rạng ngời.Tôi bỗng nhận ra những chặng đường "bầm dập" của ông bà cháu tôi thật thật có ý nghĩa biết bao...
Đến lúc từ trong quê trở ra ngoài chợ huyện để chuyển xe đi tiếp, ông bà cháu tôi phải dậy lúc nửa đêm để đón đò máy. Chuyến về thì nhẹ nhàng hơn, không còn những bao đồ lỉnh kỉnh, chỉ còn khô cá bà con gửi theo về. Tôi ngủ mê nên chỉ lơ mơ nghe tiếng ông bà cõng tôi xuống đò, rồi cứ vậy nằm co trong vòng tay bà mà ngủ trong tiếng máy đuôi tôm rì rì rẽ sóng.Mùi bùn từ dòng sông đặc quánh phù sa quyện cùng hơi nước, hơi sương mát lạnh ru tôi thêm say giấc trên chiếc đò máy dập dềnh. Có khi tôi choàng dậy thấy xung quanh là mênh mông sóng nước, và trên bầu trời xa lấp lánh những ánh sao…
Bỏ lại tuổi thơ êm đềm, bỏ lại Sài Gòn náo nhiệt xôn xao, tôi đến Seattle vào một ngày mưa gió mịt mù. Thời đó ở Sài Gòn đã có những "siêu thị" lớn bán quần áo, túi xách, giày dép cũng lung linh sang trọng (dù đa số là hàng nhái từ Quảng Châu), nên tôi không hình dung được khi qua Mỹ tôi sẽ đi sắm sửa đồ cũ ở Goodwill.
Chưa từng làm việc nặng lúc ở Việt Nam, nên những đồng tiền đầu tiên tôi kiếm được thật sự bằng công khó nhọc trên đất Mỹ, tôi cứ giữ hoài không muốn sứt mẻ một xu.Mùa đông năm ấy trời vừa nhiều mưa vừa lạnh, sau khi dạo quanh một vòng Target, Fred Meyer, Walmart, xem giá cả và...nhẩm tính đổi sang tiền Việt Nam đồng, tính tôi phải bưng bao nhiêu tô phở mới mua được cái áo ấm mặc đi mưa, tôi quyết định đến thăm tiệm Goodwill.
Xe bus thả tôi xuống trạm ngay trước cửa Goodwil giữa cơn mưa mùa đông nặng hạt, thấy tấp nập người trên bãi đậu xe, có cả những chiếc xe hơi sang trọng, nên tôi mạnh dạn tiến vào. Vừa mở cửa ra, một mùi thật lạ xộc ngay vào mũi làm tôi phải đứng sựng lại vài giây. Đó là mùi thuốc tẩy quần áo, mùi ẩm mốc của giày dép, túi xách, đồ dùng cũ…trong không gian đóng cửa kín mít mở máy sưởi mùa đông, tất cả gộp chung lại thành một cái mùi rất "Goodwill”.
Khi mũi đã quen dần với cái mùi đặc biệt, tôi đi dạo vòng vòng thì thấy tiệm có rất nhiều quần áo đồ đạc còn rất tốt, có nhiều món còn y nguyên giống như chưa mặc, chưa dùng lần nào.Hôm đó tôi mua được hết những thứ mình cần với giá “rẻ như cho”.
Bước ra về khi ngoài trời vẫn còn mưa, tôi đứng đợi xe bus mà lòng thấy “tự hào” vô cùng về số tiền mà mình "hà tiện" được. Tôi lâng lâng nghĩ cứ như đà này thì vài chục năm sau, báo Seattle Times sẽ đăng bài phỏng vấn triệu phú Tố Nguyễn về bí quyết làm giàu!
Về đến nhà rồi, tôi lục lọi túi đồ cũ ra, cẩn thận bỏ vào máy giặt lại hai lần vì cũng hơi ơn ớn nhớ ở Sài Gòn người ta hay gọi đồ cũ là "đồ Si Đa- (AIDS). Sau khi giặt sấy xong, tôi ngồi vuốt lại từng đường xếp, mép áo, mép quần, lòng bồi hồi nhớ về bà ngoại, nhớ ánh mắt rưng rưng khi nhận quà của những người bà con khổ nghèo lam lũ chốn quê xưa...
Khoác vào người chiếc áo ấm mới mua từ Goodwill, tôi chợt nghiệm ra cuộc sống là một vòng tròn khép kín, ngày xưa mình mang tặng cho người, giờ đến lượt mình được nhận. Nhìn ra ngoài cửa sổ, mưa ngoài trời nặng hạt hơn, nhưng tôi không thấy buồn bã nữa, lòng thầm cảm tạ người tôi chưa từng quen biết nơi này-thông qua Goodwill, đã cho tôi bộ quần áo tinh tơm sưởi ấm mùa đông đầu tiên trên đất Mỹ…Tôi chìm vào giấc ngủ, bồng bềnh như thởu tôi nằm trên con đò máy giữa sóng nước Hậu Giang…
Ngày tháng trôi mau, tôi đã không còn phải bưng phở kiếm tiền, cũng quên luôn thói quen đổi tiền USD ra tiền Việt, chỉ có một điều không đổi, là tôi vẫn chưa thành "triệu phú"! Tuy vậy, mỗi năm vài lần, tôi lại chở đồ dùng, quần áo đến tặng Goodwill, viết chi phiếu giúp vài tổ chức phi lợi nhuận…và nhớ đến ngoại tôi, nhớ những chuyến đò đêm lóng lánh ánh sao trời, nhớ lại giấc mơ "triệu phú" của cô gái bé nhỏ bên trạm xe bus lồng lộng gió mùa đông…
Nhắc đến triệu phú, tôi từng đọc một bài báo thống kê số người giàu sụ có nguồn gốc Do Thái chiếm tỷ lệ rất cao so với các dân tộc khác trên thế giới. Khi còn nhỏ, xứ "thiên đường" cúp điện liên miên nên thú vui duy nhất của tôi là đọc sách, đọc truyện, đọc riết không còn gì trong nhà để đọc thì dành dụm tiền lì xì mà ra tiệm thuê về đọc tiếp. Tôi đọc hết cả ba bốn quyển Ngàn Lẻ Một Đêm dầy cộm, nhớ truyện nào cũng nhắc đến "gã lái buôn người Do Thái" như những kẻ bần tiện, vô lương tâm, luôn lường gạt những người thật thà, nhẹ dạ.
Khác xa với những "gã lái buôn" mà tôi luôn mường tượng, ông chủ người Do Thái của tôi ở Seattle hoàn toàn không giống những gì tôi đọc trong truyện ngày xưa. Tuy rằng ông tính toán rất chi li trong việc làm ăn buôn bán, nhưng ông đãi ngộ nhân viên rất chu đáo, luôn tham gia những việc cộng đồng, công ích. Đặc biệt, mỗi năm tôi thấy ông tặng từ thiện rất là nhiều, mà phần lớn là cho nhà thờ và những hội đoàn Do Thái.
Đến lúc đi làm cho hãng kế toán thuế vụ ở Beverly Hills, tôi thấy có nhiều khách hàng mỗi năm đem tặng đồ dùng, quần áo cho Goodwill cả chục lần, mỗi lần mấy bao to. Họ giữ hết biên nhận lại để khai thuế, và Goodwill mang hàng đó đi bán lại để gây quỹ dạy nghề, tìm việc làm cho người dân, đôi bên cùng có lợi. Trong số đó có những khách gốc người Do Thái, từ những người triệu phú đến tầng lớp trung lưu, luôn tặng tiền, quà từ thiện rất nhiều. Nhưng họ ít tặng Goodwill, cũng như ông chủ gốc Do Thái ở Seattle, họ hay mang đến những hội đoàn, nhà thờ của người Do Thái. Tôi có đem thắc mắc đó hỏi ông chủ, thì ông bảo tôi đọc về cái người Do Thái gọi là Concept of Tzedakah.
Tôi lên Google, gõ vào chữ "Tzedakah" thì hiện ngay lên rất nhiều bài viết liên quan. Cho tặng từ thiện và giúp đỡ cộng đồng, theo văn hoá của người Do Thái, được coi là "responsibility, duty" - là trách nhiệm, bổn phận chứ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa thiện nguyện, làm cho vui, cho thấy "thân tâm" của mình "an lạc" như nhiều nền văn hoá khác. Mỗi gia đình người Do Thái gốc đều có những chiếc hộp nhỏ màu trắng hoặc xanh, dạy con cháu họ bỏ tiền bạc, dù chỉ là những đồng xu nhỏ vào đó để dành giúp đỡ những người Do Thái khác. Người Do Thái ươm mầm từ tâm, giúp đỡ và có trách nhiệm với cộng đồng từ khi ở tuổi ấu thơ. Đến lúc trưởng thành, họ được dạy phải luôn đóng góp, luôn làm mọi cách cho cộng đồng Do Thái vững mạnh và phát triển.
Theo thuyết Tzedakah, một người được gọi là "good contribution" nếu anh ta cho đi mười phần trăm thu nhập còn lại sau chi phí (net income) của mình.Hèn gì những người khách ở Beverly Hills cứ cho, tặng mỗi năm rất nhiều, nhiều đến vượt mức miễn trừ thuế và phải "carry over"-chuyển tiếp tới năm sau, năm sau nữa để trừ bớt income của họ.
Tzedakah có nhắc đến giúp đỡ, tương trợ thì không chỉ "by hand" mà còn phải "with the heart", cũng khá giống như nhiều lý thuyết của các tôn giáo, chỉ khác là người Do Thái đã đưa việc san sẻ, cứu giúp người nghèo khổ, yếu ớt, góp sức với cộng đồng lên thành bổn phận, trách nhiệm cho mỗi người dân.
Khi làm những hồ sơ thuế, xem xét các trương mục ngân hàng, tín dụng của những người Do Thái, tôi thấy họ chi xài rất căn cơ, số tiền để cho con cái học hành, cho nền tảng gia đình, cho cộng đồng của họ luôn được đặt lên ưu tiên hàng đầu. Người Do Thái cũng "nổi tiếng" bởi tính keo kiệt, lúc nào cũng muốn giàu thêm, giàu nữa. Muốn cứu người khỏi chết đuối thì phải biết bơi, họ tin rằng sự sung túc sẽ giúp cho mình và cho những người xung quanh mình có thêm nhiều điều tốt đẹp...
Tuy không "được lòng" những sắc dân khác, nhưng người Do Thái đã ung dung chứng minh phương châm sống của họ đã mang đến cho cộng đồng Do Thái một vị trí rất cao trong xã hội. Họ toàn sống trong những khu dân cư sang trọng, sạch đẹp, hưởng thụ hầu hết những tiện nghi văn hoá, văn minh nhân loại. Những lần đi làm về qua những khu nhà lộng lẫy ở Beverly Hills, tôi thấy tràn ngập những người Do Thái với những chiếc mũ nhỏ màu đen. Ở Beverly Hills còn có những ngôi trường tư thục dành cho người Do Thái, vậy mới thấy cộng đồng họ vững mạnh đến chừng nào.
Câu chuyện mất nước, bị diệt chủng, phải tha phương cầu thực khắp nơi trên thế giới của người Do Thái chắc rằng ai cũng có lần nghe qua. Câu chuyện giữ gìn văn hóa, chữ viết khi trôi dạt khắp quả địa cầu cũng được nhiều người biết tới. Giờ đây tôi lại thêm ngưỡng mộ mà biết thêm người Do Thái có tinh thần đoàn kết, tương trợ rất tuyệt vời. Văn hoá đoàn kết, thuyết Tzedakah của người Do Thái đã góp phần giúp họ khôi phục lại quê nhà, xây dựng một đất nước Israel muôn người ngưỡng mộ.
Mỗi lần nghĩ về người bà nhân hậu chỉ biết đọc viết sơ sài, nhưng "tính rợ" tiền bạc thật là nhanh nhẹn chi li, tôi thấy bà nào có khác gì những người Do Thái trên xứ cờ hoa, cứ tẩn mẩn cần cù, như con ong hút mật về xây tổ, mặc thế sự miệng đời...
Tôi cũng bắt chước bà ngoại tôi, bắt chước người Do Thái...”hà tiện” và dạy con cái mình giữ gìn cẩn thận những đồ dùng, đồ chơi, vì sau đó chúng sẽ được mang đi cho, đi tặng.Tôi cũng làm một cái hộp màu hồng cho con gái và màu xanh cho cậu con trai, dạy con bỏ tiền vào đó để dành.
Cũng thật mừng là người Việt mình đa số "kẹo" y như…tôi, thông minh chăm chỉ như người Do Thái, nên đi đâu cũng thấy Dr Nguyễn, Dr Lê, Dr Trần khắp mọi nơi trên xứ cờ hoa. Thật là hãnh diện, hơn 40 năm lưu lạc xứ người, dân tộc Việt Nam đã góp nhiều "tiếng nói" trên đất mới, đời sống ung dung không khác gì những người những sắc dân đã cắm rễ nơi này từ rất xa xưa.
Hơn ba mươi năm sau những chuyến đò đêm mênh mông sóng nước của tôi, quê ngoại tôi cũng đã "đổi đời", nhiều nhà mái ngói mọc lên thay cho những túp lều lá dừa rách nát. Nhưng xót xa thay, những mái nhà kia đa số được xây từ nước mắt của những cô gái gửi thân làm vợ nơi đất khách quê người “trong nhờ đục chịu”, có cô trở về quê mẹ trong chiếc hũ sành lạnh lẽo chơ vơ.
Tôi vẫn se thắt lòng thấy còn nhiều em bé tay chân khẳng khiu, áo quần phong phách rách rưới ....giống y như những em bé quê nghèo mà tôi gặp năm xưa.
Tôi còn thấy những hình ảnh năm xưa tôi chưa được thấy, những em bé đu dây, lội sông, nằm trong túi ni long để đến trường, có em còn phải nặng oằn gánh mưu sinh, đeo bám cổng trường để xem những bạn bè trang lứa xúng xính ngày khai giảng.
Thương lắm những dòng sông quê đang oằn mình chịu bao hoá chất ngày ngày thải ra đầu độc, thương lắm những cô gái quê tha phương cầu thực xứ người, thương lắm những em bé nghèo rách rưới lấm lem...
Tôi luôn mơ một ngày tươi sáng, những Dr Nguyễn, Dr Lê, Dr Trần từ khắp mọi nơi trên quả địa cầu có thể chung lòng mà dựng lại một Israel thứ hai cho những phận đời thôi hết lầm than.
Tố Nguyễn
No comments:
Post a Comment