Cho một người bạn vừa rời trạm Z
(để nhớ Nguyên Nhi)
Đinh Yên Thảo
Khuya! Rất khuya. Tôi vẫn ngồi trước màn hình, nghĩ ngợi về “trạm Z”- cái tên anh đặt cho đời sống này. Giá có thêm một vài tính từ đại loại như “phù du, mong manh, ngắn ngủi…” hay gì nữa như người ta vẫn thường nói, ắt cũng được. Chỉ e rằng lặp lại sáo ngữ, dù sự thật có là như vậy. Cái “trạm Z” đôi khi cứ ám ảnh, làm tôi suy nghĩ, mỗi khi nghe tin những mất mát. Ly tan. Lẽ tự nhiên, nó dữ dội hơn trước mất mát của những người thân, những bạn bè, những người mình quý mến.
Anh đặt tựa cho truyện ngắn của mình là “Những ngày nằm chờ ở trạm Z”. Cái tựa nghe ngồ ngộ. Nhưng cuồn cuộn trí lực của một người cầm bút đầy sự suy tưởng. Có phải cứ ngẫu nhiên oe oe bước vào “trạm A”, đi qua bao chặng ngắn dài, cuối cùng cũng về đến “trạm Z”- ga cuối của cuộc đời? Qua khỏi trạm này, không còn đường ray xe lửa hay những con đường tráng nhựa, chẳng biết sẽ đưa người ta về đâu. Hay quay lại với khởi đầu “trạm A”? Những người thông thái hay thức giả nhất chắc cũng chẳng mấy ai đoan chắc câu trả lời. Ngoại trừ bằng đức tin. Vì những người đã “qua” cái “trạm Z” đó rồi cũng chẳng thể nào kể cho mình nghe được. Chỉ còn đoán. Và tin. Rằng nó sẽ đưa ta đến trạm !,@,#,&… sáng lọi hay u minh vô hình nào đó. Không biết anh có tin điều đó không? Nhưng tôi chắc rằng anh đã tin mình sẽ gặp lại người bạn đời của anh đã đi qua “trạm Z” hơn bốn năm trước, một khi đến phiên mình. Tôi cũng tin vậy. Và cầu chúc cho họ được vậy. Bởi họ từng là một chiếc lá rất đẹp của hai nửa chẳng vẹn toàn. Cũng đẹp. Chỉ nửa anh có khi gai góc. Bất ổn.
Tôi biết anh là một một nhà văn có tài. Dù chúng tôi chưa bao giờ nói về nhau như vậy. Bởi chữ nghĩa là cái duyên để chúng tôi biết, rồi quen nhau. Nhưng nó chẳng phải điều để chúng tôi nhìn tới hay giữ được tình thân. Cả anh cũng nghĩ vậy. Có lần tôi điều dẫn chương trình cho một buổi ra mắt sách của nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, anh là người sẽ có đôi tâm tình, cảm nhận về thơ tác giả. Anh nói riêng cùng tôi rằng, khi giới thiệu, đừng thêm tiếng “nhà văn” cho anh. Quả anh gây khó cho ban tổ chức. Anh viết văn, làm thơ, in sách, anh em văn nghệ biết tên quen tiếng, lâu lắm mới trân trọng một tiếng “nhà văn” chỗ đông người cũng được chớ sao. Giới thiệu trống không, người ngoài không biết lại ngỡ tôi bất nhã. Mời “nhà văn” giới thiệu sách, chớ chẳng lẽ đưa lên… “nhà đòn”. Nhưng chiều ý anh, tôi cũng chỉ giới thiệu “Nguyên Nhi”. Như cách chúng tôi vẫn thường gọi nhau trong thân tình. Dù anh hơn tôi quá cả con giáp.
Nhưng thật, văn chương của anh là lạ, đọc cứ như những truyện dịch. Lời văn đẹp, đầy suy tưởng và dụ ngôn, nhưng cũng nhiều khi phúng biếm, chua cay. Những câu thơ thì có khi khí khái, ngang tàng, cũng lắm khi cô độc, lẻ loi. Chúng thất thường. Không phải ở tài hoa, mà ở trong tâm tưởng. Có lẽ chúng êm ả, nhẹ nhàng trong những lúc đời sống tươi đẹp và rồi cay đắng, bứt rứt lúc cô đơn. Của những năm cô độc. Trước khi gặp Phạm Chi Lan, rồi sau khi Lan qua đời. Có khi là “như tráng sĩ mạt thời đêm đêm ngắm trăng mài kiếm / để tự cắt đầu mình” hay “ngọn quái phong thổi suốt bốn ngàn năm / thổi thông thống nửa vòng trái đất / Dừng lại đây một chiều thở mệt…”. Và có lúc hạnh phúc lên ngôi, tráng sĩ thôi mài kiếm, ngu sao mà tự cắt đầu “Chào, cúi chào những bông tuyết đầu mùa / chàng thủy thủ cuối cùng rồi cặp bến / Trả giông tố cho mịt mù biển lớn / trả nắng cho boong, trả gió cho buồm” để “ta đến đây như làm lại từ đầu / thả chiếc neo giữa lòng em độ lượng”. Đẹp. Tôi mừng cho anh. Và cho Lan. Họ đã có nhau một thời gian hạnh phúc. Ngao du khắp nơi, hoa cảnh rực hiên vàng hồng tím đỏ, viết lách, hoạt động văn nghệ nhiều hơn.
Có thời gian, cùng nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, có thêm Quỳnh Như, Diễm Tú, Tôn Thất Phương, chúng tôi cùng làm chương trình Tạp Chí Văn Nghệ Truyền Thanh hàng tuần trên đài Tiếng Nước Tôi do anh Thái Hóa Lộc làm giám đốc. Rồi cả hai viết dịch, cộng tác cùng Trẻ. Bạn bè nhóm Liên mạng Nghệ Thuật Liên Mạng thỉnh thoảng bay sang tụ họp, hát cười thâu đêm như những con dế nhỏ. Vui gì đâu.
Lần đầu tôi đọc anh và cái tên Nguyên Nhi còn ở lại, là truyện ngắn về một chàng thủy thủ học văn khoa, làm say đắm một cô gái tật nguyền mê văn chương. Truyện được viết trước khi Nguyên Nhi và Chi Lan gặp và đến với nhau, không nhớ đăng trên Vietnam Weekly News của Trần Lộc hay trên VHNT-LM. Trùng hợp, như một điều dự báo.
Thơ văn Nguyên Nhi viết nhiều về biển, về nắng gió, hải đăng, về con ốc nhỏ, về chàng thủy thủ. Thì ra Nguyên Nhi từng là thủy thủ mà. Từng học văn khoa, từng sang Mỹ huấn luyện khoá hải quân. Nghe kể cũng tham chiến trận bảo vệ Hoàng Sa, nên lấy tên đảo đặt cho hai con trai: Hoàng Sa và Trường Sa. Ngần ấy trải nghiệm đã gom thành tập truyện “Con gái người gác đèn biển” và tập thơ “Quái Phong” thâm hậu, mang cùng không khí biển mặn đó.
Nhưng thú thật, tôi khoái những bài thơ lục tỉnh, Mỹ Tho sanh quán của anh. “Tên đãng tử Mỹ Tho nhớ dòng Bảo Định / Một khoảnh đời gạo chợ nước sông / Nha Mân tháng này con nước hỗn leo đồng / Bầy cá quẫy lia chia đầu ngọn sạ”. Hay “Trưa hè treo võng hát Lục Vân Tiên / Má chỉ muốn con như họ Lục / Cho dẫu má vẫn đầu trần chân đất / Gió cứ lùa thông mái vách xưa”. Đã gì đâu, cứ như khô cá sặt nhậu cùng đế Chợ Gạo, rồi nghe câu cải lương tài tử vừa xuống giọng, khác hẳn thứ cognac, whisky trong không khí thơ bên trên.
Rồi Nguyên Nhi ra thêm vài tập truyện như “Lẽ ra mùa mận”, “Trèo lên cây Bưởi”, “Bước xuống vườn cà”. Chẳng để làm gì, chỉ lâu lâu ngó chúng mà… buồn chơi. Không có cuốn nào ra mắt sách hay quảng bá đó đây. Ngoại trừ lần Trẻ tổ chức cho anh đêm họp mặt chỉ mươi thân hữu thân tình “ăn mừng” cuốn “Trèo lên cây Bưởi”. Vui. Có anh Phan Xuân Sinh và lần đầu gặp mặt Bác “Hai Trầu” Lương Thư Trung cùng các “đại ca”, cách chúng tôi gọi thân tình những anh Đức Phổ, Trần Phù Thế, Đỗ Xuân Quang… từng nghe tên và được kết thân từ dạo đó.
Nguyên Nhi đang định in tiếp “Một miếng trầu cay” thì bước qua “trạm Z”. Chẳng hề muốn in sách để trở thành “văn sĩ”, Nguyên Nhi in sách chỉ do Chi Lan khuyến khích khi còn sống và ước nguyện trước lúc đi xa. Sách của mình in ra giấy vẫn còn đó, anh sợ rằng những trang bản thảo sẽ lặp lại chuyện “cái thuở người xa tàu mất biển”. Anh kể với tôi và đưa vào trong truyện ngắn của mình “Ta đã đi, đã sống, đã tìm. Đã gặp. Ta đã nhận, đã trân trọng giữ gìn. Nhưng ta biết làm gì với những tặng vật của vũ trụ và cuộc sống đây? Và ta biết làm chi cho hết cuộc đời ta?” Ông lão ngậm ngùi. “Với những thứ đã có ấy, sao chàng không làm thơ?” Lan thì thầm. Vậy đó, ông lão làm thơ.” Tôi sang nhà, sách in chất những thùng. Vẫn còn. Tặng thân hữu, bạn bè được mươi cuốn? Không còn Chi Lan, còn ai quý “những tặng vật của vũ trụ và cuộc sống” mà anh tha thiết, giữ gìn. Giá có lướt qua, đôi khi bận rộn, chúng ta chỉ đọc những dòng chữ bằng mắt, chứ không bằng trí tưởng. Và rồi cũng lắm khi mệt mỏi, ta chỉ nhìn con người và mọi việc bằng lý lẽ chứ chẳng qua tấm lòng. Để cảm thông. Để cuộc đời đẹp và độ lượng hơn. Nhưng chịu thôi. Ai mà chẳng có riêng một “trạm Z” để lo, để nghĩ. Và sống trong cách nghĩ của mình.
Vài ngày trước lúc anh giã biệt đời sống, tôi vào bịnh viện thăm anh. Con trai vừa gọi vào thăm bố. Nước mắt còn chảy trên khuôn mặt, trông anh đã quá đỗi tiều tụy. Chắc anh đã linh cảm cho một chuyến đi xa. Tôi cũng muốn khóc, nhưng chẳng chảy nước mắt. Chỉ ngồi yên. Vào bịnh viện hai hôm đã nhớ nhà. Anh bảo tôi, anh nhớ cái bếp. Vài năm nay, từ ngày Chi Lan mất, anh đi chợ, lựa từng bó rau, con cá, mỗi tối tự tay nấu cho hai con trai, cao to lực lưỡng gấp mấy lần bố, đi làm xong ghé ngang qua xách về ăn. Khi đã biết bịnh và yếu đi nhiều trong hơn tháng qua, anh cũng còn vô bếp. Như đoán được ý nghĩ của tôi, anh tắc lưỡi, phân trần “còn lo cho nó được ngày nào thì lo”. Nó làm tôi xúc động. Tôi cũng làm cha mà chưa thấu đáo tâm trạng người cha. Tôi không còn thấy tráng sĩ, thủy thủ, nhà văn, nhà thơ, hay bất cứ danh xưng nào là quan trọng. Chúng chỉ là những ngẫu nhiên, đặt để của mỗi người. Mà trước mắt tôi chỉ còn là một con người. Người Chồng. Người Cha. Người Bạn. Ở trước giờ “G” thoát khỏi “trạm Z”.
Thôi đi bình yên nhé Nguyên Nhi. Hãy về canh sáng ngọn hải đăng cùng con gái người gác đèn biển. Anh có nói rồi mà, “Hỡi những ngọn đèn biển bờ Tây Bắc / Thênh thang ta đã có một phương về”(*).
Dallas, 19/10/2013
ĐYT
(*) Những chữ nghiêng trích từ thơ, văn Nguyên Nhi
No comments:
Post a Comment