Wednesday, May 25, 2016

RA MẮT TÁC PHẨM "THAY NGÔI ĐỔI CHỦ" VÀ LỜI CÁM ƠN CỦA TÁC GIẢ



Ông bà Phạm Đình Hưng


Kính thưa toàn thể quý vị

Trước hết, tôi xin chân thành cảm tạ toàn thể quý vị đã quang lâm đến tham dự buổi ra mắt sách ngày hôm nay. Tôi cũng không quên cám ơn Cộng Đồng Việt Nam Nam California, nhứt là Bà Trưởng Ban Tổ Chức Nguyễn Minh Nguyệt đã giúp tôi thỉnh mời được sự tham dự động đảo của nhiều quan khách và nhân vật quan trọng tại Little Saigon, thủ đô của người Việt ty nạn cộng sản.

Trước khi giả từ võ khí để vui thú điền viên trong tuổi già, tôi muốn cống hiến thế hệ trẻ một tài liệu chính xác vê lịch sử Việt Nam trong thời kỳ cận và hiện đại. Tôi hi vọng tác phẩm Thay Ngôi Đổi Chủ ra mắt đồng hương hôm nay có thể soi sáng thế hệ trẻ sanh sau năm 1975 để khỏi bị lầm lẫn trước âm mưu sửa đổi lịch sử của bộ máy tuyên giáo cộng sản và xóa bỏ môn Sử học trong chương trình giáo dục học sinh của bộ Giáo Dục và Đào Tạo cộng sản Việt Nam. Mặc dầu không phải là một sử gia nhưng với năng khiếu Thượng đế ban cho về luật học và sử học, tôi đã cố gắng ghi lại một cách trung thực các sự kiện lịch sử đã xảy ra trong thời kỳ cận và hiện đại dưới lăng kính của một luật gia sanh năm 1935 đã chứng kiến các diễn biến thời cuộc trong ba chế độ chánh trị tại Việt Nam: 

-Chế độ thực dân Pháp từ thập niên 1930 đến năm 1948
-Chế độ cộng sản Việt Nam từ 1945 đến ngày nay
-Chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ 1955 đến 1975. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa là hậu thân của chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) thành lập trên cơ sở Hiệp định Vịnh Hạ Long ký kết năm 1948 được bổ túc bởi Hiệp ước Élysée ký kết năm 1949 giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol.

Chủ đề chánh của tác phẩm thứ ba của tôi là Thay Ngôi Đổi Chủ. Hai phụ đề của quyển Thay Ngôi Đổi Chủ là: Tham vọng bành trướng của Hán tộc và Đại họa Bắc thuộc lần thứ 5 của dân tộc Việt Nam. Tôi xin phép nói trước về chủ đề Thay Ngôi Đổi Chủ.

Để duy trì lâu dài quyền thống trị nước Việt Nam, đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kể công đã phát động thành cộng Cách mạng tháng 8 và đánh thắng Phát xít Nhựt, tiến hành thắng lợi hai cuộc Chiến tranh Đông Dương, đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thâu hồi độc lập cho nước Việt Nam.

Sự thật lịch sử khác hẵn luận điệu tuyên truyền lừa bịp của đảng Cộng sản. Cái gọi là Cách mạng tháng 8 chỉ là một cuộc cướp chánh quyền của Nội Các Trần Trọng Kim do một vài cán bộ cộng sản thực hiện một cách dễ dàng tại Hà Nội sau khi nước Việt Nam đã thâu hồi độc lập từ ngày 11-3-1945 do Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng đế Bảo Đại công bố hai ngày sau khi Nhựt đảo chánh Pháp (9-3-1945).
Trong tháng 8 năm 1945 và đến ngày Đồng Minh giải giới quân Nhựt tại Việt Nam, Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ đánh nhau với quân chiếm đóng Nhựt mà còn phải cầu xin quân Nhựt cho phép đi qua cầu Sông Đuống để vào Hà Nội.

Cách mạng tháng 8 là khởi đầu của các hành động khủng bố, ám sát, giam cầm, giết hại các lãnh đạo tinh thần, lãnh tụ các chánh đảng quốc gia, đảng viên cộng sản Đệ tứ quốc tế và một số rất lớn trí thức và tinh hoa của dân tộc Việt Nam theo mật lịnh của Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng bộ Nội Vụ năm 1946, một thuộc hạ thân tín của Hồ Chí Minh đã được ông ta tuyển dụng tại Quảng Tây.

Cách mạng tháng 8 còn là khởi điểm của hai cuộc Chiến Tranh Đông Dương kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975, giết chết không dưới 10 triệu đồng bào vô tội, tàn phá nặng nề đất nước, chia rẽ dân tộc, đào sâu hận thù giai cấp, làm suy yếu nội lực và tinh thần yêu nước của dân tộc Lạc Việt để dễ bế khống chế, mua chuộc và Hán hóa cán binh cộng sản và nhân dân Việt Nam.

Cách mạng tháng 8 là một hành động bạo lực nhằm mục đích cướp đoạt chánh quyền chánh thống của Nhà Nguyễn, thay ngôi vua của Hoàng đế Bảo Đại để đưa một nhân vật xa lạ không ai biết lai lịch từ núi rừng Việt Bắc về Hà Nội làm vua của nước Việt Nam trong 24 năm đến khi qua đời năm 1969, không cần được dân tộc Việt bầu cử lần nào cả.

Trở thành “Cha già dân tộc” và được suy tôn như thần thánh trong lúc còn sống cũng như sau khi qua đời, nhân vật bí hiểm Hồ Chí Minh đã gây ra núi xương sông máu và tang tóc cho dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh và xây dựng chế độ cộng sản độc tài toàn trị theo mô hình của Trung Quốc để bức hại quảng đại quần chúng trong thời bình.

Đi theo bước chân của Hồ Chí Minh, Lê Duẫn cũng đã sử dụng bạo lực để cướp ngôi của Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu và thống trị cà nước Việt Nam. Các Tổng Bí thơ của đảng Cộng sản Việt Nam từ Nguyễn văn Linh đến Nguyễn Phú Trong đã kế tiếp nhau thay ngôi làm vua của nước Việt Nam thống nhứt dưới quyền cai trị của người cộng sản miền Bắc. Cũng y như Hồ Chí Minh và Lê Duẫn, các Tổng Bí thơ đảng CSVN không cần được nhân dân bầu cử làm vua.

Sự lãnh đạo tối cao của Hồ Chí Minh đã tác động rõ rệt đến sự đổi chủ của nước Việt Nam từ Pháp quốc qua Trung Quốc sau khi tiến hành hai cuộc chiến tranh Huynh Đệ Tương Tàn trong 30 năm để bắt buộc người Việt anh em phải bắn giết lẫn nhau với võ khí do người ngoại quốc, nhứt là Nga Tàu, cung cấp. Do đó, tôi đã dùng từ ngữ “The Fratricide” làm tựa đề tiếng Anh của sách Thay Ngôi Đổi Chủ.

Đến đây, tôi xin nói đến Tham vọng bành trướng của đế quốc Hán tộc, một phụ đề thứ nhứt của quyển Thay Ngôi Đổi Chủ.

Từ 1860, nước Tàu đã mất ảnh hưởng đối với nước Việt Nam. Sau khi bị Liên quân Anh-Pháp đánh bại trong cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, Nhà Thanh đành phải chấp nhận nước Pháp có quyền cai trị Nam kỳ như một thuộc địa và đặt nền bảo hộ tại An Nam và Bắc kỳ.

Nhưng ngay sau khi Thế chiến 2 mới bắt đầu, lãnh tụ Mao Trạch Đông của đảng Cộng sản Trung Quốc đã đặt kế hoạch bành trướng lãnh thổ của nước Tàu về phía Nam đến Việt Nam, Biển Đông và Đông Nam Á và giao cho Thiếu tá Hồ Quang thi hành kế hoạch nầy.

Từ 1940, Thiếu tá Hồ Quang đã được cài cắm trên đầu đảng Cộng sản Việt Nam tại hang Pác Bó trong tỉnh Cao bằng với nhiệm vụ huấn luyện, rèn luyện, dạy dỗ cán bộ cộng sản Việt Nam, tuyển chọn người trung thành với Trung Quốc để thành lập một chánh quyền của Tàu tại Việt Nam.

Năm 1945, sau khi cướp được chánh quyền, Thiếu tá Tàu Hồ Quang trở thành Chủ tịch nước Việt Nam kiêm Chủ tịch đảng Cộng sản. Từ năm 1950, Hồ Quang nhận được viện trợ quân sự hùng hậu của Trung Quốc để đánh quân Pháp và chiếm được miền Bắc Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ nhờ sự giúp đỡ của Thương tướng Tàu Vi Quốc Thanh, một người dân tộc Choang trong tỉnh Quảng Tây.

Viện trợ của Trung Quốc dành cho Thiếu tá Hồ Quang rất to lớn và hào hiệp đến mức “xin một, cho mười” và được tăng cường liên tục để giúp miền Bắc cộng sản đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc Chìến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975).
Lý do của sự hào phóng Trung Quốc: Thiếu tá Hồ Quang là người Tàu tên thật là Hồ Tập Chương, người dân tộc Hẹ sanh tại Đài Loan năm 1901, có sứ mạng tái lập ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam và bành trướng lãnh thổ của đế quốc Hán tộc về phía Nam.

Năm 2014, Trung Quốc chánh thức xác nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân dân Giải Phóng Trung Quốc.

Thiếu tá Hồ Quang tức Hồ Chí Minh là người Tàu hay người Việt? Lúc hoạt động gián điệp tại Hoa Nam, Hồ Quang có bí danh Lucius (tiếng La tinh Lucius có nghĩa là Sáng). Minh (Hồ Chí Minh), Quang(Hồ Quang) và Lucius đồng nghĩa với nhau:Sáng. Minh, Quang và Lucius là 3 bí danh của một người Tàu gốc Hẹ tên thật là Hồ Tập Chương.
Văn khố Trung Quốc (Chinese Archives) ghi rõ lý lịch của Hồ Quang bằng tiếng Hán, Anh và Việt, nguyên văn như sau: “Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang tức Chủ tịch Hồ Chí Minh tại lớp huấn luyện Nam Nhạc thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939, Hồ Quang-Phụ trách điện đài- 38 tuổi- Quảng Đông-Tốt nghiệp đại học Lĩnh Nam. Giáo viên trường trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ (Quan thoại).
Như vậy, Văn khố Trung Quốc chánh thức xác nhận Thiếu tá Hồ Quang năm 1939 được 38 tuổi nghĩa là ông ta sanh năm 1901, năm sanh của Hồ Tập Chương. Nếu Thiếu tá Hồ Quang là Nguyễn Tất Thành (bí danh Nguyễn Ái Quốc) sanh năm 1890 thì năm 1939 ông ta phải được 49 tuổi.

Sau cùng, tôi lo ngại Đại họa Bắc thuộc lần thứ 5 của dân tộc Việt Nam sẽ xảy ra năm 2020 căn cứ theo mật ước Thành Đô do Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười và Phạm văn Đồng ký kết với Giang Trạch Dân và Lý Bằng năm 1990. Đại họa nầy đã nằm trong dự đoán của ông Tùng Phong Ngô Đình Nhu khi viết tác phẩm Chính Đề Việ tNam..

Dưới ảnh hưởng nặng nề của Hố Chí Minh, nước Việt Nam cộng sản đã hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc và bị xem là “đứa con hoang” của Tàu phải nhanh chóng trở về nhà cha. Khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam đều có các nhượng địa hoặc tô giới Tàu cấm người Việt lai vãng: Khu khai thác bauxite trên Cao nguyện Trung phần, Động Đô Đại Phố tại tỉnh Bình Dương, Khu Công nghiệp Tự trị Vũng Áng tại Hà Tỉnh, Vùng cấm địa của người Tàu tại Đà Nẳng và Đèo Hải Vân, 300,000 héc ta rừng đầu nguồn của nhiều tỉnh cho người Tàu thuê trong 50 năm với giá tượng trưng.

Công hàm Phạm văn Đồng và hai hiệp ước ký kết năm 1999 và 2000 dưới thời Tổng Bí thơ Lê Khả Phiêu đã bán đất trên 6 tỉnh biên giới Việt-Hoa, nhượng biển và quần đảo cho Trung Quốc trong Vịnh Bắc Việt và Biển Đông (South China Sea).

Mới đây, vụ cá chết vô số trên bải biển Vũng Áng, Hà Tỉnh đang lan rộng xuống các tỉnh phía Nam do chất thải độc hại của Khu Công nghiệp tự trị Formosa đã chứng tỏ Việt Nam không phải là một quốc gia độc lập đối với thiên triều Bắc kinh. Nhân dân Việt Nam đã trông thấy rõ sự hèn yếu và vô trách nhiệm của nhà cầm quyền cộng sản. Quảng đại quẩn chúng không cộng sản đều quan tâm đến đại họa mất nước và mất dân tộc Việt Nam vì đảng Cộng sản đã bán nước cho Trung Quốc và đang tiếp tay với Tàu Cộng Hán hóa các thế hệ trẻ sanh sau năm 1975 với chánh sách ngu dân và xóa bỏ Lịch sử Việt Nam.

Trước khi dứt lời, tôi kính xin quý vị quan khách và thức giả vui lòng chỉ bảo cho tôi các sai lầm hoặc thiếu sót của tác phẩm Thay Ngôi Đổi Chủ để hoàn chỉnh khi tái bản.

Xin cám ơn tất cả quý vị đã lắng nghe tôi trình bày mục đích của tác phẩm Thay Ngôi Đổi Chủ.

Little Saigon, ngày 8-5-2016
Tác giả: Phạm Đình Hưng, cựu Thẩm phán VNCH

No comments:

Blog Archive