Trung Đạo
Thú thật tôi không thường xuyên xem các chương trình của Barbara Walters. Giản dị tôi ít khi mở TV xem ban ngày, nhất là buổi sáng hoặc đêm khuya khoắt, thời gian chương trình do bà phụ trách phát hình. Lúc mới qua thì bận bịu đi làm. Khi về hưu chỉ có buổi sáng còn nhiều sinh lực, đầu óc sáng suốt. Và tôi muốn dùng thời gian này vào việc khác hơn là dán mắt vào màn ảnh truyền hình. Tôi cũng ít xem TV vào lúc tối khuya, là lúc tôi dành để đọc sách trước khi đi ngủ. Mẫu mực này đã thành thói quen.
Bà Barbara Walters là nữ phóng viên truyền hình tên tuổi, giàu có. Bà là người đã phá vỡ cái “trần nhà bằng kiếng”, mở đường cho những thế hệ phụ nữ Mỹ sau bà, muốn sinh hoạt trong ngành truyền thông báo chí một dạo chỉ dành cho đàn ông. Bà đoạt nhiều giải thưởng. Bà đầy vẻ tự tin, nghiêm túc, như pho tượng sáp, chỉ cặp môi mấp máy khi đọc tin với giọng hơi khàn.
Tóm lại, tôi ít có dịp theo dõi bà trên Tivi, càng ít có dịp đọc về bà trong các mục tin tức sinh hoạt truyền hình.
Thế nhưng tôi đã đọc cuốn hồi ký “Audition” cuả bà với tất cả thích thú từ đầu đến cuối. Tôi thích hầu hết những câu chuyện bà kể, phần lớn liên hệ đến nghề nghiệp, những loại hậu trường (behind the scene) mà tôi vẫn yêu thích. Một số bài liên quan tới hành trình nghiên cứu, sắp xếp và thực hiện một chương trình truyền hình. Ngòai ra, đó đây, bà điểm chút mắm muối trong những chuyện đời tư, có cái rất là riêng tư nữa là khác (như mối tình của bà với một nghị sĩ da đen đã có vợ), khiến người đọc thú vị vừa ngạc nhiên ở sự chân thật của bà. Điểm lôi cuốn khác là lối hành văn đơn giản, thành thật khiêm tốn, lời kể chuyện pha chút khôi hài nhẹ nhàng. Tất cả phản ảnh tính đôn hậu hiếm thấy ở người phóng viên trong một nghề nặng tính cạnh tranh, vô tình và kỳ thị tàn nhẫn.
Bà bị đối xử kỳ thị ở những năm đầu, nhưng bà kiên trì nên sống sót. Cộng thêm là nữ lưu, có khả năng truyền cảm, nhan sắc vừa phải bên cạnh kinh nghiệm nghề nghiệp thấy rõ. Nhiều nhân vật tên tuổi, chính khách thế giới đã dành cho bà nhiều ưu ái, giúp bà qua mặt cả những tên tuổi trong giới truyền thông, kể cả cây “cổ thụ” Walter Conkrite. Đáng kể là dành được cuộc phỏng vấn lịch sử với hai kẻ thù không đội trời chung: Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat và Thủ tướng Do Thái Menachem Begin cuối năm 1977. Hoặc Fidel Castro, chưa bao giờ cho ai, mà đã chấp thuận cho bà phỏng vấn và dành cho nhóm quay phim sự thù tiếp hiếm có.
“Audition” có nghĩa thử giọng hoăc tuyển lựa, ở đây cũng có nghĩa phỏng vấn đánh gía (evaluation/ rating), đề bạt (promotion). Người ta không chỉ thử giọng mà còn xem xét dung nhan, khả năng và kinh nghiệm của người dự tuyển.
“Audition” còn là sự đánh giá của khán giả trong lãnh vực truyền hình. Trong môi trường này, lúc nào cũng có sẵn những người trẻ hơn, bắt mắt hơn, giỏi hơn đang rình rập sẵn sàng đá đít để thay thế mình. Hệ thống đánh gía rất nghiệt ngã nhằm lôi kéo các công ty quảng cáo, giới đài thọ cho những cơ sở truyền hình.
Về vấn đề công việc làm, không kể mấy việc lặt vặt khi mới ra đời, bà Walters chỉ làm lâu dài cho hai hãng truyền hình NBC (1961--1974) và ABC (1974--2004). Một chi tiết nữa, đầu thập niên 1991, lúc ấy đã trên 60 tuổi, bà dự tính nhẩy thêm bước nữa từ ABC qua CBS. CBS News lôi kéo bà với hợp đồng 10 triệu Mỹ kim (số tiền khổng lồ lúc đó). Từ đó báo chí cho ra đời danh từ “The Million-Dollar Baby” khi nói về bà (trang 281). Số tiền này gấp đôi số tiền bà đang lãnh bên ABC. Cuối cùng bà bỏ ý định đó vì đã quen thuộc, thoải mái với những cộng tác viên và nơi chốn đang làm việc.“ Ở đây (ABC News), tôi đã biết phòng vệ sinh nằm ở đâu.” bà giễu cợt. Có lẽ đã thấm mệt sau mấy chục năm trong nghề, bà nói:
“Tôi không muốn có thêm một cuộc tuyển lựa nào nữa” (trang 399). “Tôi chán ngán hệ thống đánh gía bất công, vốn căn cứ vào thị hiếu quần chúng hơn là phẩm chất nội dung của chương trình truyền hình. Tôi thà-làm-ma-cũ một ít năm nữa trước khi về hưu."
Cuốn Audition dầy 614 trang, do nhà Alfred A. Knoff, New York xuất bản giữa năm 2008, bìa cứng, giá $29.95. Tôi mua cuốn sách này với gía rẻ mạt tại một tiệm bán sách cũ. Tôi thích lối chia sách ra thành từng chương theo thứ tự thời gian nào đó, tự nó là một bài riêng, có thể đọc nhẩy chương nếu thích. Lối viết sách phân loại từng bài ngắn thế này giúp người viết không nản chí, không phải đối diện với một dàn bài chặt chẽ đồ sộ. Tuy nhiên, có thì giờ đọc liên tục từ đầu đến cuối thì vẫn tốt hơn. Sách gồm 50 bài, không đánh số chương (tôi phải tự đếm lấy), mỗi bài có cái tựa riêng nói về một chủ đề hay một nhóm nhân vật có tiếng tăm. Ví dụ cuộc phỏng vấn tổng thống Ai Cập và Thủ tướng Do Thái trong năm 1977 đã giúp danh tiếng bà nổi bật mà bà đã mô tả chi tiết trong chương “Cuộc phỏng vấn lịch sử: Anwar Sadat và Menachem Begin”.
Cuốn Audition dầy 614 trang, do nhà Alfred A. Knoff, New York xuất bản giữa năm 2008, bìa cứng, giá $29.95. Tôi mua cuốn sách này với gía rẻ mạt tại một tiệm bán sách cũ. Tôi thích lối chia sách ra thành từng chương theo thứ tự thời gian nào đó, tự nó là một bài riêng, có thể đọc nhẩy chương nếu thích. Lối viết sách phân loại từng bài ngắn thế này giúp người viết không nản chí, không phải đối diện với một dàn bài chặt chẽ đồ sộ. Tuy nhiên, có thì giờ đọc liên tục từ đầu đến cuối thì vẫn tốt hơn. Sách gồm 50 bài, không đánh số chương (tôi phải tự đếm lấy), mỗi bài có cái tựa riêng nói về một chủ đề hay một nhóm nhân vật có tiếng tăm. Ví dụ cuộc phỏng vấn tổng thống Ai Cập và Thủ tướng Do Thái trong năm 1977 đã giúp danh tiếng bà nổi bật mà bà đã mô tả chi tiết trong chương “Cuộc phỏng vấn lịch sử: Anwar Sadat và Menachem Begin”.
Cũng trong cuốn này, hai nhân vật khác được dành riêng cho mỗi người một chương là “Finally, Fidel Castro”(1) và “Monica Lewinsky”(2). Ngoài ra cũng có hai chương viết về cô con gái nuôi Jacqueline bà thương như con ruột: “Ra đời trong trái tim tôi” (Born in my Heart) và “Chương Viết Khó Nhất” (The Hardest Chapter to Write) nói về liên hệ giữa hai mẹ con sau này.
Bà Barbara Walters sinh năm 1931( tuổi Nhâm thân) tại Boston, Massachusetts. Cha mẹ gốc Do Thái, nhưng không theo sát truyền thống. Gia đình bên nội bà bỏ nơi lập nghiệp lâu đời ở Đông Au, qua Anh lánh nạn kỳ thị cuối thế kỷ 19. Và cuối cùng đến Mỹ đầu thế kỷ 20. Gia đình mẹ bà thì sang thẳng Mỹ từ đầu. Bố mẹ bà gặp nhau ở Boston. Mẹ bà trước sau ở nhà làm công việc nội trợ và săn sóc người con gái lớn là Jacqueline (chị bà). Cô này bị chứng nói lắp, chậm phát triển. Bà Walters đã đề tặng cuốn Audition cho người chị mất sớm vì bệnh ung thư buồng trứng khi ngoài 40t. Bà tưởng nhớ đến người chị bất hạnh, không được phần phước như bà (sức khoẻ, tiền tài, danh vọng). Sách cũng đề tặng người con gái nuôi. Bà bị sẩy thai ba lần, cuối cùng thì xin con nuôi và cũng đặt tên con là Jacqueline. Bà nói “ Hai Jacqueline đã thay đổi đời tôi”.
Ông bố bà là Lou Walters, một người hoạt động sôi nổi trong ngành giải trí. Ông sản xuất, dàn dựng ra nhiều show lộng lẫy, tốn kém cho Casino tại Las Vegas (Tropicana, Bally). Điều trớ trêu là “cái” nghề nghiệp đã đưa Barbara lên đài danh vọng lại là “cái” đã giết chết sự nghiệp của ông bố bà. Khi truyền hình ra đời, người ta ít đi hộp đêm mà ngồi nhà cùng gia đình, thưởng thức các show trên Tivi. Kết quả ông bị sạt nghiệp, không phải một mà nhiều lần. Từ đó gánh nặng mưu sinh của gia đình rớt xuống vai bà. Walters phải làm việc cực nhọc để nuôi gia đình gồm cha mẹ và người chị bệnh tật.
Bà tốt nghiệp cử nhân Anh văn tại Sarah Lawrence College, Bronxville, N.Y năm 1953. Sau đó Barbara sang Châu Au làm những công việc lặt vặt, kể cả làm người mẫu cho công ty Carven ở Paris, chuyên sản xuất thời trang cho phụ nữ nhỏ con. Rồi bà bị ông bố gọi về, áng chừng lo cho thân gái dặm trường nơi xứ người. Về Mỹ, bà đi làm cho công ty quảng cáo trong thời kỳ TV đang đi những bước chập chững. Thỉnh thoảng bà cũng thực hiện những đoạn phim quảng cáo cho đài truyền hình. Kế tiếp bà phụ trách thu dụng nhân viên và lãnh vực nhân sự cho hãng tuyển người. Kinh nghiệm làm việc tại studio và phỏng vấn giúp bà rất nhiều sau này, khi bà chen chân vào ngành truyền hình.
Năm 1961, Walters được tạp chí lớn Redbook mời cộng tác viết bài quảng cáo, Công việc nhàm chán. nhưng vì sinh kế, bà không có sự lựa chọn. Bà viết
Công việc mới cuả Barbara là tạo dựng, điều hành chương trình “Today” dành cho phụ nữ. Phần này chỉ có 5 phút mỗi ngày, nhưng bà rời nhà lúc 4g30 sáng để chuẩn bị cho chương trình trực tiếp phát hình lúc 9g sáng. Sau phần phát hình thì mọi người ra về, bà Walters vẫn ở lại sắp xếp và viết bài cho ngày hôm sau. Được mấy tháng công ty tài trợ chương trình chấm dứt tài trợ. Barbara cầm bằng thất nghiệp. Nhưng thần may mắn đã mỉm cười với bà: Người nữ biên tập viên duy nhất, trong ban biên tập tám người của Today, nghỉ việc đi lấy chồng, Barbara Walters được đưa vào thay thế.
Cuối cùng Walters cũng được đưa lên màn ảnh, bắt đầu bằng những vai trò nhỏ, rồi cứ thế cái này dẫn tới cái khác. Lúc đó, bà là một trong rất ít người nữ, nếu không nói duy nhất, đã quyết tâm theo đuổi ngành truyền thông bất chấp trở ngại, sự kỳ thị. Bà đã từ từ leo lên đài danh vọng chót vót của một nữ phóng viên truyền hình. Bà nổi tiếng là người phỏng vấn nghiêm chỉnh, công bằng, một khuôn mặt đáng tin cậy. Suốt 13 năm làm cho NBC, mỗi ngày Walters thức dậy đến đài khi mọi người còn đang ngủ, năm ngày một tuần đều đặn. Rồi chưa kể những chuyến công tác xa nhà. NBC muốn chương trình sống động hơn, phát hình trực tiếp từ bên ngoài hoặc nước ngoài với sắc thái địa phương, qua hệ thống vệ tinh áp dụng giữa thập niên 1960. Bà cũng là một trong một nhúm nữ phóng viên được chọn vào phái đoàn báo chí tháp tùng Tổng thống Richard Nixon trong chuyến công du lịch sử sang Trung Hoa năm 1972. Bà đã có những lời bình luận sâu sắc về Giang Thanh, Chu An Lai…và mặt thật của xã hội Trung hoa còn rất khép kín thời bấy giờ.
Năm 1974, Walters thôi việc bên NBC, sang làm cho ABC với giao kèo 5 triệu Mỹ kim/5 năm. Từ đó phát sinh ra danh từ “The Million-Dollar Baby” khi nói về bà. Bà nhận lời mời cuả ABC vì chức vụ co-host chương trình tin tức buổi tối lúc 7g. Lần đầu tiên một phụ nữ có địa vị này thời điểm đó. Đã hẳn là đồng sự Harry Reasoners không vui gì khi làm việc với một phụ nữ được đặt ngang hàng với mình. Và Walters cũng khốn khổ không kém trong thời gian hai năm đầu. Sự xung đột âm thầm nhưng vẫn để lộ ra trên màn ảnh, qua báo chí mà bà bị chê nhiều hơn được khen. Có lẽ quần chúng chưa quen hình ảnh một phụ nữ nói chuyện thời sự và chính trị “với”họ, Walters nhẫn nhịn, song cũng dần dần mất tự tin. Tới độ tài tử John Wayne, bà chưa quen biết, gởi bức điện tín khích lệ: “Đừng để bọn khốn nạn làm cô nản chí nghe” ( Don’t let the bastards get you down). Và bà đã dùng câu này làm tựa cho chương sách viết về giai đoạn này (trang 269). Để tránh va chạm, bà xin ra ngoài phỏng vấn nhiều hơn là làm co-host trong studio. Nhờ vậy (tái ông thất mã) bà có dịp thực hiện nhiều phỏng vấn gía trị với những nhân vật danh tiếng, nguyên thủ quốc gia, chính trị gia...ngoại trừ Đức Giáo Hoàng và Nữ Hoàng Anh. Theo truyền thống, các vị này không cho phỏng vấn.
Những người đàn ông trong đời tôi.
Edwrard W. Brooke.
Ông là Thượng nghị sĩ da đen đầu tiên được bầu vào Thượng viện với số phiếu tuyệt đối của cử tri da trắng tại tiểu bang có truyền thống Dân chủ Massachusetts. Ông phục vụ hai nhiệm kỳ từ 1967—1979, ngôi sao sáng của đảng Cộng hoà, tràn trề hy vọng trở thành Phó Tổng thống hoặc Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Trước khi đến Washington, ông là Bộ trưởng Tư pháp Massachusetts cũng hai nhiệm kỳ.
Bà kể: “Cuộc tình của Brook (bà hay gọi ông như vậy) và tôi kéo dài kín đáo trong nhiều năm, rất nhiều sóng gió (long and rocky affair). Chúng tôi gặp nhau năm 1973 trong một tiệm ăn tại NewYork. Brooke, nước da bánh mật, rất thông minh và quyến rũ, có óc hài hước và một cá tính mạnh mẽ. Chính điều cuối này khiến tôi yêu ông. Vâng, Ông đã có vợ! Tôi không thiếu đàn ông. Đàn ông đến với tôi nhiều hơn tôi cần. Chưa bao giờ Brooke mặc cảm về màu da của mình. Lúc đó tôi trên 40 và ông lớn hơn tôi 10 tuổi. Vợ ông gốc Ý, không thông thạo tiếng Mỹ. Bà ít ra ngoài, không thích cuộc sống chính trị của chồng, (chính trị cũng là nỗi đam mê của tôi). Nhưng khổ nỗi vợ ông lại giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp của chồng. Bà có ảnh hưởng mạnh mẽ trong khối cộng đồng Mỹ gốc Ý. Bà cư ngụ tại Florida và ông thì làm việc tại Washington D.C. Ông có số đào hoa, liên hệ với nhiều phụ nữ nhưng chưa bao giờ có ý định ly dị vợ. Ông chỉ về thăm gia đình trong các ngày lễ lớn. Vợ ông chấp nhận cuộc sống thế này. Ông và tôi yêu nhau và lần này thì ông quyết định ly dị vợ! Vợ ông phản ứng rất mạnh mẽ ngoài sự dự đoán. Giới tryền thông đồng loạt khai thác ồn aò, đáng kể là tạp chí lá cải National Enquirer. Chúng tôi vô cùng bối rối, suy xét hậu quả ảnh hưởng đến sự nghiệp của cả hai. (Cuộc ly dị trước đây của tôi với Lee đã diễn ra êm thắm). Cuối cùng chỉ còn giải pháp xa nhau. Tôi là vai chính trong giải pháp này. Tuy nhiên quyết định này vẫn không cứu vãn được sự nghiệp chính trị của ông. Ông đã thất cử sau đó. Năm 2003, ông bị bệnh “breast cancer”, căn bệnh hiếm hoi, và giải phẩu hai lần. Lần cuối tôi nghe về ông, ông đã 83 tuổi.
Alan Greenspan.
Tôi gặp Alan Greenspan năm 1975 trong tiệc trà cuả Phó TT Nelson Rockefeller. Tối đó, bất ngờ có một ông dong dỏng cao, ăn mặc lập dị, bước đến bàn mời tôi khiêu vũ! Ông là Alan Greesnpan, Tổng giám đốc cơ quan cố vấn kinh tế cho TT Ford. Ngạc nhiên thứ hai, ngoài chuyện ăn mặc không giống ai, là ông nhẩy đầm rất hay! Và ông còn biết chơi kèn clarinet không thua nhà nghề. Lúc ngoài 20, ông lấy vợ nhưng cuộc hôn nhân không bền. Tôi luôn có cảm giác bình yên khi ở bên cạnh ông. Ông cực kỳ thông minh, kiến thức rộng và khiêm tốn. Ông ăn nói nhỏ nhẹ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến ông to tiếng dù sau khi đã trở thành Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên Bang. Còn nữa, ông có thể ngồi lắng nghe hàng giờ đồng hồ khi có người muốn trình bày một vấn đề. Ông không có tính chỉ trích (He never criticized). Ông có óc hài hước tỉnh queo. Không thiếu người đến vấn kế ông về tài chánh, địa ốc, cổ phiếu …và phần lớn ông từ chối trả lời với thái độ hòa nhã. Lý do một lời nói của ông có thể ảnh hưởng cuộc sống hàng triệu người.
Cuộc tình chúng tôi cứ thế trôi đi. Có người nói ông tính nhút nhát. Không, ông khiêm cung. Có thể vì chúng tôi đa đoan với công việc mà quên sống cho chính mình.
Chúng tôi quyết định xa nhau, trong tình bạn bè. Và mỗi khi tôi gặp hoàn cảnh khó khăn, ông luôn luôn có mặt để chia sẻ. Năm 1997, ông kết hôn với một người đàn bà đẹp, trí thức, phóng viên danh tiếng hiện nay cuả NBC: Andrea Mitchell.
John Warner.
Ông là Thượng nghị sĩ đẹp trai giàu có, kỳ cựu nhất của tiểu bang Virginia, đắc cử liên tiếp năm nhiệm kỳ (30 năm), được giới chính khách kính trọng. Ông tính tình thận trọng, bảo thủ. Tôi đã có dịp phỏng vấn ông trên Today show. Ông học luật, từng phục vụ binh chủng Thuỷ quân lục chiến trong chiến tranh Triều tiên. Năm 1957, ông kết hôn với người con gái duy nhất của gia đình tỷ phú Paul Mellon (dầu hoả). Ông Warner đã đóng góp rất nhiều cho cuộc tranh cử của TT Nixon và được bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng Hải quân, nhiệm kỳ 1972--1974. Ông ly dị vợ năm 1973, nhưng vẫn được bố vợ chia cho một số tài sản trong đó có một nông trại rộng 3,000 mẫu. Lý do: trong nhiều năm, ông đã có công nuôi dưỡng các con (hai gái một trai). Vợ ông bà Catherine Mellon còn trẻ, chưa thích hợp vai trò làm mẹ và cũng không thích cuộc sống hoạt động chính trị của chồng. Chúng tôi quen nhau sau khi ông ly dị. Ông là người rất tốt, luôn luôn chăm sóc gia đình tôi và mối tình này cũng không đi đến đâu. Chúng tôi chia tay.
Tại sao cô dám vạch quần lót trước mặt vị TT Hoa kỳ?
“Chỉ là chiêu bài khuyến rũ, vì tôi thích ông. Trước đây tôi chê ông có cái mũi cà chua, giọng nói khàn đục, mái tóc điểm bạc thô ráp trông già hơn tuổi. Nhưng khi gặp ông, mới cảm nhận được đôi mắt, tia nhìn“chết người” của ông như muốn lột trần quần aó trên người cô. ( his eyes were very soul-searching, very wanting, very needing, and very loving). Tuổi tác ông hơn cô gấp đôi. Ông 50 và cô 25. “ Tổng thống cũng chỉ là đàn ông như mọi đàn ông khác”.
Trong cuốn “Monica’story”, cô kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên (trang 57).
Bà Barbara Walters sinh năm 1931( tuổi Nhâm thân) tại Boston, Massachusetts. Cha mẹ gốc Do Thái, nhưng không theo sát truyền thống. Gia đình bên nội bà bỏ nơi lập nghiệp lâu đời ở Đông Au, qua Anh lánh nạn kỳ thị cuối thế kỷ 19. Và cuối cùng đến Mỹ đầu thế kỷ 20. Gia đình mẹ bà thì sang thẳng Mỹ từ đầu. Bố mẹ bà gặp nhau ở Boston. Mẹ bà trước sau ở nhà làm công việc nội trợ và săn sóc người con gái lớn là Jacqueline (chị bà). Cô này bị chứng nói lắp, chậm phát triển. Bà Walters đã đề tặng cuốn Audition cho người chị mất sớm vì bệnh ung thư buồng trứng khi ngoài 40t. Bà tưởng nhớ đến người chị bất hạnh, không được phần phước như bà (sức khoẻ, tiền tài, danh vọng). Sách cũng đề tặng người con gái nuôi. Bà bị sẩy thai ba lần, cuối cùng thì xin con nuôi và cũng đặt tên con là Jacqueline. Bà nói “ Hai Jacqueline đã thay đổi đời tôi”.
Ông bố bà là Lou Walters, một người hoạt động sôi nổi trong ngành giải trí. Ông sản xuất, dàn dựng ra nhiều show lộng lẫy, tốn kém cho Casino tại Las Vegas (Tropicana, Bally). Điều trớ trêu là “cái” nghề nghiệp đã đưa Barbara lên đài danh vọng lại là “cái” đã giết chết sự nghiệp của ông bố bà. Khi truyền hình ra đời, người ta ít đi hộp đêm mà ngồi nhà cùng gia đình, thưởng thức các show trên Tivi. Kết quả ông bị sạt nghiệp, không phải một mà nhiều lần. Từ đó gánh nặng mưu sinh của gia đình rớt xuống vai bà. Walters phải làm việc cực nhọc để nuôi gia đình gồm cha mẹ và người chị bệnh tật.
Bà tốt nghiệp cử nhân Anh văn tại Sarah Lawrence College, Bronxville, N.Y năm 1953. Sau đó Barbara sang Châu Au làm những công việc lặt vặt, kể cả làm người mẫu cho công ty Carven ở Paris, chuyên sản xuất thời trang cho phụ nữ nhỏ con. Rồi bà bị ông bố gọi về, áng chừng lo cho thân gái dặm trường nơi xứ người. Về Mỹ, bà đi làm cho công ty quảng cáo trong thời kỳ TV đang đi những bước chập chững. Thỉnh thoảng bà cũng thực hiện những đoạn phim quảng cáo cho đài truyền hình. Kế tiếp bà phụ trách thu dụng nhân viên và lãnh vực nhân sự cho hãng tuyển người. Kinh nghiệm làm việc tại studio và phỏng vấn giúp bà rất nhiều sau này, khi bà chen chân vào ngành truyền hình.
Năm 1961, Walters được tạp chí lớn Redbook mời cộng tác viết bài quảng cáo, Công việc nhàm chán. nhưng vì sinh kế, bà không có sự lựa chọn. Bà viết
“Tôi nghĩ đến những người đàn ông, lúc đó, cũng phải làm những công việc nhàm chán, bám trụ cho đến khi tìm được công việc thích hợp. Còn những bạn gái của tôi, nếu chán việc, có thể khơi khơi bỏ việc đi lấy chồng hoặc nằm nhà. Tóm lại, tôi cảm tưởng, chỉ có đàn ông và tôi (đàn bà) thì phải làm việc. Ngày nay đã thay đổi, phụ nữ trực diện nhu cầu có việc làm để mưu sinh, nhưng hồi ấy là gánh nặng của giới đàn ông”.
Đang lúc ngao ngán công việc tại Redbook, bà nhận được điện thoại của nhà sản xuất chương trình Today bên NBC. Họ cần một tay viết bài. Biết rằng công việc tạm thời, nhưng bà Walters không ngần ngại chộp lấy cơ hội.
“Tôi biết tôi đang bỏ việc làm chắc chắn để theo đuổi một việc làm tạm thời. Nhưng tôi yêu thích lãnh vực truyền hình nhiều sáng taọ, có dịp gặp gỡ những nhân vật thú vị…Khác với ngành giao tế nhân sự, tôi không phải thường xuyên đi “rao bán hàng”! Hơn thế, nếu chịu khó làm việc, biết đâu tôi sẽ được nhận vào làm chính thức” (trang 105).
Đang lúc ngao ngán công việc tại Redbook, bà nhận được điện thoại của nhà sản xuất chương trình Today bên NBC. Họ cần một tay viết bài. Biết rằng công việc tạm thời, nhưng bà Walters không ngần ngại chộp lấy cơ hội.
“Tôi biết tôi đang bỏ việc làm chắc chắn để theo đuổi một việc làm tạm thời. Nhưng tôi yêu thích lãnh vực truyền hình nhiều sáng taọ, có dịp gặp gỡ những nhân vật thú vị…Khác với ngành giao tế nhân sự, tôi không phải thường xuyên đi “rao bán hàng”! Hơn thế, nếu chịu khó làm việc, biết đâu tôi sẽ được nhận vào làm chính thức” (trang 105).
Công việc mới cuả Barbara là tạo dựng, điều hành chương trình “Today” dành cho phụ nữ. Phần này chỉ có 5 phút mỗi ngày, nhưng bà rời nhà lúc 4g30 sáng để chuẩn bị cho chương trình trực tiếp phát hình lúc 9g sáng. Sau phần phát hình thì mọi người ra về, bà Walters vẫn ở lại sắp xếp và viết bài cho ngày hôm sau. Được mấy tháng công ty tài trợ chương trình chấm dứt tài trợ. Barbara cầm bằng thất nghiệp. Nhưng thần may mắn đã mỉm cười với bà: Người nữ biên tập viên duy nhất, trong ban biên tập tám người của Today, nghỉ việc đi lấy chồng, Barbara Walters được đưa vào thay thế.
Rồi cuối năm 1964, NBC gặp trục trặc giao kèo với người nữ xướng ngôn viên duy nhất của tổng đài, và các xếp đang lúng túng thì có người lên tiếng “tại sao chúng ta không dùng Barbara nhỉ?” Thời ấy chỉ những diễn viên đã có tiếng tăm, khán giả biết mặt mới mong được mời làm xướng ngôn viên chính (anchor) trên đài. Bà viết:
“Lý do gì khiến các xếp lớn ở NBC không để mắt đến Barbara?”
Câu trả lời: Cô ta không nổi tiếng, không đẹp. Công ty bảo trợ quảng cáo không thích cô. Nhưng lý do sâu xa mang tính kỳ thị là: “nếu NBC cho tôi dịp may thì tôi phải làm với số lương rẻ mạt, tôi là đàn bà!”(trang 139).
Cuối cùng Walters cũng được đưa lên màn ảnh, bắt đầu bằng những vai trò nhỏ, rồi cứ thế cái này dẫn tới cái khác. Lúc đó, bà là một trong rất ít người nữ, nếu không nói duy nhất, đã quyết tâm theo đuổi ngành truyền thông bất chấp trở ngại, sự kỳ thị. Bà đã từ từ leo lên đài danh vọng chót vót của một nữ phóng viên truyền hình. Bà nổi tiếng là người phỏng vấn nghiêm chỉnh, công bằng, một khuôn mặt đáng tin cậy. Suốt 13 năm làm cho NBC, mỗi ngày Walters thức dậy đến đài khi mọi người còn đang ngủ, năm ngày một tuần đều đặn. Rồi chưa kể những chuyến công tác xa nhà. NBC muốn chương trình sống động hơn, phát hình trực tiếp từ bên ngoài hoặc nước ngoài với sắc thái địa phương, qua hệ thống vệ tinh áp dụng giữa thập niên 1960. Bà cũng là một trong một nhúm nữ phóng viên được chọn vào phái đoàn báo chí tháp tùng Tổng thống Richard Nixon trong chuyến công du lịch sử sang Trung Hoa năm 1972. Bà đã có những lời bình luận sâu sắc về Giang Thanh, Chu An Lai…và mặt thật của xã hội Trung hoa còn rất khép kín thời bấy giờ.
Năm 1974, Walters thôi việc bên NBC, sang làm cho ABC với giao kèo 5 triệu Mỹ kim/5 năm. Từ đó phát sinh ra danh từ “The Million-Dollar Baby” khi nói về bà. Bà nhận lời mời cuả ABC vì chức vụ co-host chương trình tin tức buổi tối lúc 7g. Lần đầu tiên một phụ nữ có địa vị này thời điểm đó. Đã hẳn là đồng sự Harry Reasoners không vui gì khi làm việc với một phụ nữ được đặt ngang hàng với mình. Và Walters cũng khốn khổ không kém trong thời gian hai năm đầu. Sự xung đột âm thầm nhưng vẫn để lộ ra trên màn ảnh, qua báo chí mà bà bị chê nhiều hơn được khen. Có lẽ quần chúng chưa quen hình ảnh một phụ nữ nói chuyện thời sự và chính trị “với”họ, Walters nhẫn nhịn, song cũng dần dần mất tự tin. Tới độ tài tử John Wayne, bà chưa quen biết, gởi bức điện tín khích lệ: “Đừng để bọn khốn nạn làm cô nản chí nghe” ( Don’t let the bastards get you down). Và bà đã dùng câu này làm tựa cho chương sách viết về giai đoạn này (trang 269). Để tránh va chạm, bà xin ra ngoài phỏng vấn nhiều hơn là làm co-host trong studio. Nhờ vậy (tái ông thất mã) bà có dịp thực hiện nhiều phỏng vấn gía trị với những nhân vật danh tiếng, nguyên thủ quốc gia, chính trị gia...ngoại trừ Đức Giáo Hoàng và Nữ Hoàng Anh. Theo truyền thống, các vị này không cho phỏng vấn.
Những người đàn ông trong đời tôi.
Edwrard W. Brooke.
Ông là Thượng nghị sĩ da đen đầu tiên được bầu vào Thượng viện với số phiếu tuyệt đối của cử tri da trắng tại tiểu bang có truyền thống Dân chủ Massachusetts. Ông phục vụ hai nhiệm kỳ từ 1967—1979, ngôi sao sáng của đảng Cộng hoà, tràn trề hy vọng trở thành Phó Tổng thống hoặc Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Trước khi đến Washington, ông là Bộ trưởng Tư pháp Massachusetts cũng hai nhiệm kỳ.
Bà kể: “Cuộc tình của Brook (bà hay gọi ông như vậy) và tôi kéo dài kín đáo trong nhiều năm, rất nhiều sóng gió (long and rocky affair). Chúng tôi gặp nhau năm 1973 trong một tiệm ăn tại NewYork. Brooke, nước da bánh mật, rất thông minh và quyến rũ, có óc hài hước và một cá tính mạnh mẽ. Chính điều cuối này khiến tôi yêu ông. Vâng, Ông đã có vợ! Tôi không thiếu đàn ông. Đàn ông đến với tôi nhiều hơn tôi cần. Chưa bao giờ Brooke mặc cảm về màu da của mình. Lúc đó tôi trên 40 và ông lớn hơn tôi 10 tuổi. Vợ ông gốc Ý, không thông thạo tiếng Mỹ. Bà ít ra ngoài, không thích cuộc sống chính trị của chồng, (chính trị cũng là nỗi đam mê của tôi). Nhưng khổ nỗi vợ ông lại giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp của chồng. Bà có ảnh hưởng mạnh mẽ trong khối cộng đồng Mỹ gốc Ý. Bà cư ngụ tại Florida và ông thì làm việc tại Washington D.C. Ông có số đào hoa, liên hệ với nhiều phụ nữ nhưng chưa bao giờ có ý định ly dị vợ. Ông chỉ về thăm gia đình trong các ngày lễ lớn. Vợ ông chấp nhận cuộc sống thế này. Ông và tôi yêu nhau và lần này thì ông quyết định ly dị vợ! Vợ ông phản ứng rất mạnh mẽ ngoài sự dự đoán. Giới tryền thông đồng loạt khai thác ồn aò, đáng kể là tạp chí lá cải National Enquirer. Chúng tôi vô cùng bối rối, suy xét hậu quả ảnh hưởng đến sự nghiệp của cả hai. (Cuộc ly dị trước đây của tôi với Lee đã diễn ra êm thắm). Cuối cùng chỉ còn giải pháp xa nhau. Tôi là vai chính trong giải pháp này. Tuy nhiên quyết định này vẫn không cứu vãn được sự nghiệp chính trị của ông. Ông đã thất cử sau đó. Năm 2003, ông bị bệnh “breast cancer”, căn bệnh hiếm hoi, và giải phẩu hai lần. Lần cuối tôi nghe về ông, ông đã 83 tuổi.
Alan Greenspan.
Tôi gặp Alan Greenspan năm 1975 trong tiệc trà cuả Phó TT Nelson Rockefeller. Tối đó, bất ngờ có một ông dong dỏng cao, ăn mặc lập dị, bước đến bàn mời tôi khiêu vũ! Ông là Alan Greesnpan, Tổng giám đốc cơ quan cố vấn kinh tế cho TT Ford. Ngạc nhiên thứ hai, ngoài chuyện ăn mặc không giống ai, là ông nhẩy đầm rất hay! Và ông còn biết chơi kèn clarinet không thua nhà nghề. Lúc ngoài 20, ông lấy vợ nhưng cuộc hôn nhân không bền. Tôi luôn có cảm giác bình yên khi ở bên cạnh ông. Ông cực kỳ thông minh, kiến thức rộng và khiêm tốn. Ông ăn nói nhỏ nhẹ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến ông to tiếng dù sau khi đã trở thành Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên Bang. Còn nữa, ông có thể ngồi lắng nghe hàng giờ đồng hồ khi có người muốn trình bày một vấn đề. Ông không có tính chỉ trích (He never criticized). Ông có óc hài hước tỉnh queo. Không thiếu người đến vấn kế ông về tài chánh, địa ốc, cổ phiếu …và phần lớn ông từ chối trả lời với thái độ hòa nhã. Lý do một lời nói của ông có thể ảnh hưởng cuộc sống hàng triệu người.
Năm 1977, New York đang bên bờ vực thẳm. Tôi định mua một căn nhà rộng rãi, gía rẻ trong khu cao cấp. Nhà 4 phòng ngủ, phòng ăn, phòng khách tại Central Park. (khu bà Jacqueline Kennedy lưu ngụ), giá $250,000. Ông khuyên tôi “Đừng mua. NY sẽ còn xuống nữa”. Dĩ nhiên tôi lời nghe ông. Bây giờ căn nhà đó giá $30 triệu. Tôi vẫn“chọc quê” ông về chuyện này. Với tôi, ông chẳng có dáng dấp gì là kinh tế gia lỗi lạc mà chỉ giống một ông giáo sư đãng trí. Ông quên trả tiền ăn, quên cái check lãnh lương, quên mua quà Giáng sinh cho người thân…
Cuộc tình chúng tôi cứ thế trôi đi. Có người nói ông tính nhút nhát. Không, ông khiêm cung. Có thể vì chúng tôi đa đoan với công việc mà quên sống cho chính mình.
Chúng tôi quyết định xa nhau, trong tình bạn bè. Và mỗi khi tôi gặp hoàn cảnh khó khăn, ông luôn luôn có mặt để chia sẻ. Năm 1997, ông kết hôn với một người đàn bà đẹp, trí thức, phóng viên danh tiếng hiện nay cuả NBC: Andrea Mitchell.
John Warner.
Ông là Thượng nghị sĩ đẹp trai giàu có, kỳ cựu nhất của tiểu bang Virginia, đắc cử liên tiếp năm nhiệm kỳ (30 năm), được giới chính khách kính trọng. Ông tính tình thận trọng, bảo thủ. Tôi đã có dịp phỏng vấn ông trên Today show. Ông học luật, từng phục vụ binh chủng Thuỷ quân lục chiến trong chiến tranh Triều tiên. Năm 1957, ông kết hôn với người con gái duy nhất của gia đình tỷ phú Paul Mellon (dầu hoả). Ông Warner đã đóng góp rất nhiều cho cuộc tranh cử của TT Nixon và được bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng Hải quân, nhiệm kỳ 1972--1974. Ông ly dị vợ năm 1973, nhưng vẫn được bố vợ chia cho một số tài sản trong đó có một nông trại rộng 3,000 mẫu. Lý do: trong nhiều năm, ông đã có công nuôi dưỡng các con (hai gái một trai). Vợ ông bà Catherine Mellon còn trẻ, chưa thích hợp vai trò làm mẹ và cũng không thích cuộc sống hoạt động chính trị của chồng. Chúng tôi quen nhau sau khi ông ly dị. Ông là người rất tốt, luôn luôn chăm sóc gia đình tôi và mối tình này cũng không đi đến đâu. Chúng tôi chia tay.
Năm 1976, trong một dạ tiệc, tôi gặp lại ông, bên cạnh là tài tử lừng danh Elizabeth Taylor (cũng tuổi Nhâm Thân). Cuộc hôn nhân này giúp ông càng nổi tiếng hơn. Trong cuộc vận động tranh cử, cử tri kéo đến đông đảo, không phải để nghe ông đọc diễn văn mà muốn gặp mặt vợ ông và được bắt tay bà. Bà than phiền“ phải bắt tay suốt ngày, bàn tay bà sẽ xấu xí, không đeo hột xoàn được nữa”. Ít lâu sau, bà Liz Taylor nhận ra một điều: Bà ghét chính trị, không thích hợp nếp sống nghiêm túc, tẻ nhạt, gò bó giờ giấc của chồng (bà có thói quen đến trễ). Bà không thích thú gì những buổi tiệc khuôn sáo, kéo dài lê thê taị Washington D.C. Bà thích bạn bè trong giới Hollywơod hơn tiệc tùng, uống rượu và tán dóc. Bà thích nói chuyện tiếu lâm hơi tục (slightly ribald sense of humor), thích ăn vặt, bắt đầu mập ra, có dấu hiệu căn bệnh tâm thần. Ông là chính trị gia nghiêm túc, nhiều tham vọng. Cuối cùng họ chia tay nhau không làm ai ngạc nhiên. Và tôi cũng không may mắn gì hơn khi trở thành bạn gái của ông sau này.
Bà Barbara Walters về hưu năm 2004 sau nhiều năm làm việc cho ABC. Bà chủ trì chương trình 20/20 và The View (dành cho phụ nữ). Cũng cần ghi lại: Đầu thập niên 1991, CBS đã chiêu dụ bà về bằng giao kèo 10 triệu Mỹ kim nhưng bà từ chối vì gần đến tuổi hưu trí. Hiện nay (2008), đã 77 tuổi, bà Walters vẫn nhận lời đứng ra sản xuất mỗi năm một hai chương trình đặc biệt cho ABC: Barbara Walters Specials, hoặc Barbara Walters Exclusive.
Một trong những bí quyết thành công của bà Walters, theo tôi, bàng bạc qua những trang hồi ký, là lòng trắc ẩn (compassion). Ngoài ra bà có khả năng duy trì mối liên hệ tốt đẹp với mọi người qua thư từ, một cánh thiệp Giáng Sinh do tự tay bà viết. Khác với nhiều phóng viên, bà không rút cầu sau khi sang sông (sau cuộc phỏng vấn), dù không toại ý hay thành công. Bằng chứng hiển nhiên nhiều nhân vật tên tuổi đã yên tâm, bằng lòng cho bà phỏng vấn. Họ tin tưởng bà là người chuyên nghiệp, khách quan, công bằng và có từ tâm. Tiện đây cũng nói, bà phỏng vấn ngài Dalai Lama năm 2005 tại Dharamsala, Ấn Độ và ngài đã để lại dấu ấn khó quên là lòng trắc ẩn cho đời sống tinh thần của bà.
Ba lần lập gia đình, rồi cuối cùng cũng chia tay, trong tình bạn. Ba lần sẩy thai, có thể vì bà làm việc nhiều qúa. Cuối cùng bà Walters xin một bé gái làm con nuôi ngay khi bé vừa lọt lòng mẹ. Bà đặt tên con là Jacqueline theo tên người chị. Bà Walters tự trách mình đã lấy hết phước phần của chị, tự trách bà đã qúa say mê công việc khiến con gái có thời hoang đàng ở tuổi vị thành niên. Tâm trạng dằng co (gia đình và sự nghiệp) là tâm trạng chung của nhiều phụ nữ thành công ngày nay, điều mà ít đàn ông phải đối phó. Vì thế tôi đọc Audition với tất cả thú vị và cảm mến. Tôi rất tiếc chưa thể dịch vài chương tiêu biểu trong cuốn sách để cống hiến bạn đọc.
Ghi chú.
1. Fidel Castro.
Từ năm 1975, bà Walters đã bắt đầu gởi nhiều thư xin phỏng vấn TT Fidel Castro qua tòa đại sứ Tiệp khắc tại Washington,( hai nước chưa có quan hệ ngoại giao). Chờ đợi hai năm, tháng 5, 1977 thì bà được sự đồng ý. Cuộc phỏng vấn diễn ra tại thủ đô Havana ngày 20 tháng 5, 1977, kéo dài năm giờ đồng hồ, chấm dứt lúc 1:29 phút sáng! Bà và cô thông dịch viên đã mệt lả nhưng ông Fidel Castro vẫn tỉnh queo. Ông chạy vào bếp tự tay làm món “melted cheese sandwiches” đãi khách. Phỏng vấn đặc biệt này được phát hình ngày 9 tháng 6, 1977, thu hút số khán giả kỷ lục chỉ đứng sau cuộc phỏng vấn Monica Lewinsky.
Trong thời gian tại Cuba, ông Castro, theo lời bà yêu cầu, đã đưa bà đi thăm vịnh Con Heo (Bay of Pig), thăm thú nhiều nơi (Castro tự tay lái xe Jeep) và nấu ăn đãi khách, toàn là những chuyện hiếm có.
Hai năm sau (1979) bà gặp lại F. Castro khi ông đến New York, đọc diễn văn tại Liên hiệp quốc. Ông nhắn đến bà những lời hỏi thăm thân tình, mời bà đi dùng cơm tối tại nhà hàng Cuban Mission, NY…Rồi có tin đồn hai người đã có tình ý. Bà đính chính tin này. Năm 2006, Castro đau nặng, bà gởi e-mail thăm hỏi sức khỏe ông, đồng thời xin một phỏng vấn khác, nhưng ông F.Castro không trả lời.
2. Monica Lewinsky.
Cuộc phỏng vấn kéo dài bốn tiếng rưỡi. Chương trình được phát hình trên ABC ngày 3 tháng 3, 1999 với hơn 50 triệu người đón xem, một kỷ lục trong suốt hơn 40 năm nghề nghiệp của bà Walters (với hàng ngàn lần phỏng vấn.)
Vài sự kiện tổng quát:
Monica gặp mặt TT Clinton lần đầu vào mùa hè 1995, lúc cô 22 tuổi. Cô được tuyển dụng làm thực tập viên (intern) tại White House, không lương. Ngày 15 tháng 10, cô giáp mặt TT đứng một mình trong phòng của Chánh văn phòng. Cô nói “Bốn mắt chạm nhau (intense eye contact.) và tôi muốn đứt thở ( my breath was taken away”). Ngay tối hôm ấy hai người chung đụng thể xác lần đầu (blow job). Hai ngày sau, cô đem pizza vào cho TT và chuyện đó lại tái diễn và nhiều lần sau đó…
Tháng 4, 1996, cô bị thuyên chuyển ra khỏi White House, sang bên Ngũ giác đài. Cô bất mãn và tiết lộ câu chuyện. Điều tra viên độc lập Kenneth W, Starr khởi tố nội vụ. Tên Monica kèm theo danh từ “blow job” được nhắc đến khắp nơi. Trong năm 1998, tên cô được nhắc hơn 100,000 lần trên báo chí truyền hình tại Mỹ. Đài ABC muốn có ngay cuộc phỏng vấn Monica nhưng bất thành vì nhiều hãng truyền thông nhẩy vào cuộc. Monica thì cần tiền trả luật sư, tổng cộng hơn một triệu Mỹ kim, vị chi $15,000/ một ngày.
Tỷ phú Rupert Murdoch (Washington Post) đề nghị năm triệu đô để thực hiện hai show truyền hình cho Fox và ấn hành một cuốn sách sau đó. NBC cũng sẵn sàng trả một số tiền lớn. Nhưng rốt cục Monica không ký được giao kèo nào cả tại Mỹ. Lý do trước đó cô bắt buộc phải khai tỉ mỉ câu chuyện với ủy ban điều tra.
Một tháng sau, Monica nhận lời xuất hiện trên đài số 4 của British Broacast, Anh quốc, với số thù lao $600,000 (giá qúa rẻ cho buổi phỏng vấn đầu tiên). Chương trình được trình chiếu tòan cầu. Tiếp đó cô được trả thêm nửa triệu đô cho môt số hình ảnh đăng trên tạp chí “Hello” nổi tiếng tại Au châu.
Ngày 16, tháng 11, 1998, Monica được đề nghị một triệu đô cho cuốn sách “Monica’s story”do Andrew Morton, tác giả người Anh viết. Sách này dày 281 trang, phát hành năm 1999, gía $24.95. Ông này cũng là tác giả cuốn sách “best-seller” viết về Công nương Diana (Her true story) phát hành năm 1992.
Cuối cùng, bà Walters cũng có dịp phỏng vấn Monica. ABC không phải trả một xu nào vì Monica chỉ mong muốn mọi người thay đổi nhãn quan công bình hơn đối với cô.
Bà Walters kể:
Bà Barbara Walters về hưu năm 2004 sau nhiều năm làm việc cho ABC. Bà chủ trì chương trình 20/20 và The View (dành cho phụ nữ). Cũng cần ghi lại: Đầu thập niên 1991, CBS đã chiêu dụ bà về bằng giao kèo 10 triệu Mỹ kim nhưng bà từ chối vì gần đến tuổi hưu trí. Hiện nay (2008), đã 77 tuổi, bà Walters vẫn nhận lời đứng ra sản xuất mỗi năm một hai chương trình đặc biệt cho ABC: Barbara Walters Specials, hoặc Barbara Walters Exclusive.
Một trong những bí quyết thành công của bà Walters, theo tôi, bàng bạc qua những trang hồi ký, là lòng trắc ẩn (compassion). Ngoài ra bà có khả năng duy trì mối liên hệ tốt đẹp với mọi người qua thư từ, một cánh thiệp Giáng Sinh do tự tay bà viết. Khác với nhiều phóng viên, bà không rút cầu sau khi sang sông (sau cuộc phỏng vấn), dù không toại ý hay thành công. Bằng chứng hiển nhiên nhiều nhân vật tên tuổi đã yên tâm, bằng lòng cho bà phỏng vấn. Họ tin tưởng bà là người chuyên nghiệp, khách quan, công bằng và có từ tâm. Tiện đây cũng nói, bà phỏng vấn ngài Dalai Lama năm 2005 tại Dharamsala, Ấn Độ và ngài đã để lại dấu ấn khó quên là lòng trắc ẩn cho đời sống tinh thần của bà.
Ba lần lập gia đình, rồi cuối cùng cũng chia tay, trong tình bạn. Ba lần sẩy thai, có thể vì bà làm việc nhiều qúa. Cuối cùng bà Walters xin một bé gái làm con nuôi ngay khi bé vừa lọt lòng mẹ. Bà đặt tên con là Jacqueline theo tên người chị. Bà Walters tự trách mình đã lấy hết phước phần của chị, tự trách bà đã qúa say mê công việc khiến con gái có thời hoang đàng ở tuổi vị thành niên. Tâm trạng dằng co (gia đình và sự nghiệp) là tâm trạng chung của nhiều phụ nữ thành công ngày nay, điều mà ít đàn ông phải đối phó. Vì thế tôi đọc Audition với tất cả thú vị và cảm mến. Tôi rất tiếc chưa thể dịch vài chương tiêu biểu trong cuốn sách để cống hiến bạn đọc.
Ghi chú.
1. Fidel Castro.
Từ năm 1975, bà Walters đã bắt đầu gởi nhiều thư xin phỏng vấn TT Fidel Castro qua tòa đại sứ Tiệp khắc tại Washington,( hai nước chưa có quan hệ ngoại giao). Chờ đợi hai năm, tháng 5, 1977 thì bà được sự đồng ý. Cuộc phỏng vấn diễn ra tại thủ đô Havana ngày 20 tháng 5, 1977, kéo dài năm giờ đồng hồ, chấm dứt lúc 1:29 phút sáng! Bà và cô thông dịch viên đã mệt lả nhưng ông Fidel Castro vẫn tỉnh queo. Ông chạy vào bếp tự tay làm món “melted cheese sandwiches” đãi khách. Phỏng vấn đặc biệt này được phát hình ngày 9 tháng 6, 1977, thu hút số khán giả kỷ lục chỉ đứng sau cuộc phỏng vấn Monica Lewinsky.
Trong thời gian tại Cuba, ông Castro, theo lời bà yêu cầu, đã đưa bà đi thăm vịnh Con Heo (Bay of Pig), thăm thú nhiều nơi (Castro tự tay lái xe Jeep) và nấu ăn đãi khách, toàn là những chuyện hiếm có.
Hai năm sau (1979) bà gặp lại F. Castro khi ông đến New York, đọc diễn văn tại Liên hiệp quốc. Ông nhắn đến bà những lời hỏi thăm thân tình, mời bà đi dùng cơm tối tại nhà hàng Cuban Mission, NY…Rồi có tin đồn hai người đã có tình ý. Bà đính chính tin này. Năm 2006, Castro đau nặng, bà gởi e-mail thăm hỏi sức khỏe ông, đồng thời xin một phỏng vấn khác, nhưng ông F.Castro không trả lời.
2. Monica Lewinsky.
Cuộc phỏng vấn kéo dài bốn tiếng rưỡi. Chương trình được phát hình trên ABC ngày 3 tháng 3, 1999 với hơn 50 triệu người đón xem, một kỷ lục trong suốt hơn 40 năm nghề nghiệp của bà Walters (với hàng ngàn lần phỏng vấn.)
Vài sự kiện tổng quát:
Monica gặp mặt TT Clinton lần đầu vào mùa hè 1995, lúc cô 22 tuổi. Cô được tuyển dụng làm thực tập viên (intern) tại White House, không lương. Ngày 15 tháng 10, cô giáp mặt TT đứng một mình trong phòng của Chánh văn phòng. Cô nói “Bốn mắt chạm nhau (intense eye contact.) và tôi muốn đứt thở ( my breath was taken away”). Ngay tối hôm ấy hai người chung đụng thể xác lần đầu (blow job). Hai ngày sau, cô đem pizza vào cho TT và chuyện đó lại tái diễn và nhiều lần sau đó…
Tháng 4, 1996, cô bị thuyên chuyển ra khỏi White House, sang bên Ngũ giác đài. Cô bất mãn và tiết lộ câu chuyện. Điều tra viên độc lập Kenneth W, Starr khởi tố nội vụ. Tên Monica kèm theo danh từ “blow job” được nhắc đến khắp nơi. Trong năm 1998, tên cô được nhắc hơn 100,000 lần trên báo chí truyền hình tại Mỹ. Đài ABC muốn có ngay cuộc phỏng vấn Monica nhưng bất thành vì nhiều hãng truyền thông nhẩy vào cuộc. Monica thì cần tiền trả luật sư, tổng cộng hơn một triệu Mỹ kim, vị chi $15,000/ một ngày.
Tỷ phú Rupert Murdoch (Washington Post) đề nghị năm triệu đô để thực hiện hai show truyền hình cho Fox và ấn hành một cuốn sách sau đó. NBC cũng sẵn sàng trả một số tiền lớn. Nhưng rốt cục Monica không ký được giao kèo nào cả tại Mỹ. Lý do trước đó cô bắt buộc phải khai tỉ mỉ câu chuyện với ủy ban điều tra.
Một tháng sau, Monica nhận lời xuất hiện trên đài số 4 của British Broacast, Anh quốc, với số thù lao $600,000 (giá qúa rẻ cho buổi phỏng vấn đầu tiên). Chương trình được trình chiếu tòan cầu. Tiếp đó cô được trả thêm nửa triệu đô cho môt số hình ảnh đăng trên tạp chí “Hello” nổi tiếng tại Au châu.
Ngày 16, tháng 11, 1998, Monica được đề nghị một triệu đô cho cuốn sách “Monica’s story”do Andrew Morton, tác giả người Anh viết. Sách này dày 281 trang, phát hành năm 1999, gía $24.95. Ông này cũng là tác giả cuốn sách “best-seller” viết về Công nương Diana (Her true story) phát hành năm 1992.
Cuối cùng, bà Walters cũng có dịp phỏng vấn Monica. ABC không phải trả một xu nào vì Monica chỉ mong muốn mọi người thay đổi nhãn quan công bình hơn đối với cô.
Bà Walters kể:
“Sáng hôm ấy, 20 tháng 2,1998, vì sự bảo mật, chúng tôi đưa cô vào phòng thu hình của chương trình 20/20, qua cửa garage bãi đậu xe. Cô lúc đó 25 tuổi. Nét mặt căng thẳng nhưng cô rất đẹp, tóc dầy, đen. Cô khéo trang điểm, dùng loại son môi bóng, màu hồng đậm. Sau đó hàng trăm cú phone gọi vào đài, hỏi thăm về loại son môi này và chúng được bán hết sạch chỉ trong vài tuần. Cô mặc một bộ vest đen dản dị. Cô yêu cầu ngồi trên chiếc ghế có tay tựa (arm-chair), để che bớt phần cơ thể hơi đẫy đà. Buổi phỏng vấn kéo dài bốn tiếng rưỡi, viết ra hơn 150 trang”.
Vài câu trả lời tiêu biểu của Monica.
Vài câu trả lời tiêu biểu của Monica.
Tại sao cô dám vạch quần lót trước mặt vị TT Hoa kỳ?
“Chỉ là chiêu bài khuyến rũ, vì tôi thích ông. Trước đây tôi chê ông có cái mũi cà chua, giọng nói khàn đục, mái tóc điểm bạc thô ráp trông già hơn tuổi. Nhưng khi gặp ông, mới cảm nhận được đôi mắt, tia nhìn“chết người” của ông như muốn lột trần quần aó trên người cô. ( his eyes were very soul-searching, very wanting, very needing, and very loving). Tuổi tác ông hơn cô gấp đôi. Ông 50 và cô 25. “ Tổng thống cũng chỉ là đàn ông như mọi đàn ông khác”.
Trong cuốn “Monica’story”, cô kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên (trang 57).
“ Sáng hôm đó, thứ Tư, 15 tháng 11,1995, chính phủ đang trong cơn khủng khoảng ngân sách, tạm đóng cửa, nhân viên được lệnh ở nhà, và tôi phải làm thêm giờ. Buổi tối, khoảng 9g, TT Clinton muốn gặp tôi tại thư phòng nhỏ, bên cạnh Oval Office.
Ông hôn tôi và thoáng chốc cả hai không còn một mảnh aó che thân. Nhiều người chê cười tôi mất phẩm giá khi thoả mãn ông như thế. Nhưng ông đã chứng tỏ là người đàn ông tuyệt vời. Thú thật tôi đã đạt tới cực điểm trước ông ( I had the first orgasm of the relationship). Tôi yêu thích ông vô cùng. Lần gặp thứ nhì, cũng tại thư phòng, trong bồn tắm. Tôi chậm rãi cởi từng nút áo ông, chiếc aó cắt may khéo, may riêng cho TT. Phản ứng tự nhiên, ông thót bụng lại, bối rối (vì bụng ông hơi to), tôi nói vài câu trấn an ông. Và trước mặt tôi, sự háo hức, bàn tay không ngừng khám phá cơ thể tôi, là một người đàn ông đời thường, không có vẻ gì là một TT Hoa kỳ”.
Cô nói với TT là muốn ông làm tình với cô?
“Đúng, tôi nói tôi yêu ông ấy. muốn ông làm tình với tôi trọn vẹn (a mature and full sexual relationship). Ông từ chối, dẫn giải “ không phải tôi không yêu em, nhưng lúc này chưa làm điều này được”.
Taị sao cô quyết định giữ lại bộ đồ màu xanh?
“Đó là sự lầm lỡ tai hại khi tôi giữ lại bộ đồ mang “dấu vết”của ông, sự ô nhục (humiliating things) mà tôi không gột rửa được. Sau này, những người đàn ông đến với tôi đều tra gạn về chiếc aó. Có thể taị sao tôi vẫn chưa lấy được chồng?”
Sau này cô sẽ trả lời các con cô thế nào về chuyện này?
“Mẹ đã làm một lỗi lầm vô cùng tệ hại!”.
Hiện tại cô vẫn tìm một việc làm vững chắc. Nhưng các nơi tuyển người vẫn có thái độ “ngại ngùng”. Cô đã 34 tuổi, luôn luôn ao ước được gặp người đàn ông biết thông cảm, một mái gia đình hạnh phúc. Richard Cohen, nhà truyền thông, nói rằng Monica xứng đáng được đối xử tốt đẹp và công bằng hơn. Tôi cũng đồng ý như vậy.
Chúc cô được như ý nguyện.
Ông hôn tôi và thoáng chốc cả hai không còn một mảnh aó che thân. Nhiều người chê cười tôi mất phẩm giá khi thoả mãn ông như thế. Nhưng ông đã chứng tỏ là người đàn ông tuyệt vời. Thú thật tôi đã đạt tới cực điểm trước ông ( I had the first orgasm of the relationship). Tôi yêu thích ông vô cùng. Lần gặp thứ nhì, cũng tại thư phòng, trong bồn tắm. Tôi chậm rãi cởi từng nút áo ông, chiếc aó cắt may khéo, may riêng cho TT. Phản ứng tự nhiên, ông thót bụng lại, bối rối (vì bụng ông hơi to), tôi nói vài câu trấn an ông. Và trước mặt tôi, sự háo hức, bàn tay không ngừng khám phá cơ thể tôi, là một người đàn ông đời thường, không có vẻ gì là một TT Hoa kỳ”.
Cô nói với TT là muốn ông làm tình với cô?
“Đúng, tôi nói tôi yêu ông ấy. muốn ông làm tình với tôi trọn vẹn (a mature and full sexual relationship). Ông từ chối, dẫn giải “ không phải tôi không yêu em, nhưng lúc này chưa làm điều này được”.
Taị sao cô quyết định giữ lại bộ đồ màu xanh?
“Đó là sự lầm lỡ tai hại khi tôi giữ lại bộ đồ mang “dấu vết”của ông, sự ô nhục (humiliating things) mà tôi không gột rửa được. Sau này, những người đàn ông đến với tôi đều tra gạn về chiếc aó. Có thể taị sao tôi vẫn chưa lấy được chồng?”
Sau này cô sẽ trả lời các con cô thế nào về chuyện này?
“Mẹ đã làm một lỗi lầm vô cùng tệ hại!”.
Hiện tại cô vẫn tìm một việc làm vững chắc. Nhưng các nơi tuyển người vẫn có thái độ “ngại ngùng”. Cô đã 34 tuổi, luôn luôn ao ước được gặp người đàn ông biết thông cảm, một mái gia đình hạnh phúc. Richard Cohen, nhà truyền thông, nói rằng Monica xứng đáng được đối xử tốt đẹp và công bằng hơn. Tôi cũng đồng ý như vậy.
Chúc cô được như ý nguyện.
No comments:
Post a Comment