Người Góa Phụ và Ngọn Đồi 31
1. Anh không chết đâu anh
Vào đầu năm một chín bảy mươi mốt, đài truyền hình thành phố Sài gòn phát hình nhạc cảnh nhạc sĩ Nhật Trường trong vai đại úy Nguyễn Văn Đương, mặc quần áo lính, trên đầu vết đạn còn rướm máu. Anh hiện về trong giấc ngủ chập chờn của người vợ ở hậu phương, chị Nguyễn Thị Lệ. Ca sĩ Thanh Lan đóng vai chị Lệ.
Từ khung cửa, bóng ma Nguyễn văn Đương hiện về báo mộng "…Anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con"… "…Không, anh không chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua…". Đại úy Nguyễn Văn Đương đã tự sát bằng viên đạn bắn vào đầu vì không muốn rơi vào tay kẻ thù. Phát súng "lẻ loi", "nhiệm mầu" và "sau cùng" đã làm nên bài hát đi vào lịch sử âm nhạc thời chiến tranh "Anh Không Chết Đâu Anh".
Bài hát đã lấy đi nhiều giọt nước mắt của những bà mẹ, người vợ, người yêu có người thương là lính đang chiến đấu ngoài mặt trận. Sự thành công về diễn xuất và tiếng hát truyền cảm của hai ca sĩ nổi tiếng trong nhạc cảnh khiến họ trở thành một cặp đôi lý tưởng hát nhạc lính. Sau đó, ca sĩ kiêm đạo diễn Nhật Trường dựa vào nhạc cảnh này cho ra đời cuốn phim "Trên Đỉnh Mùa Đông" vào năm một chín bảy hai.
Ai cũng biết ca sĩ Nhật Trường xuất thân từ lính. Ông yêu lính, yêu đời lính, gần gũi, đồng cảm với tâm tình và đời sống của người lính. Hầu hết những tác phẩm của ông sáng tác đều có mặt hình ảnh người lính trong các binh chủng Nhảy Dù, Không Quân, Hải Quân…
Tôi gặp ca sĩ Nhật Trường trong một dịp tình cờ. Ba má tôi có một cửa hàng bán đàn ở đường Hồ Văn Ngà. Do một người bạn giới thiệu, Nhật Trường đến nhà tôi mua đàn.
Bản nhạc "Anh Không Chết Đâu Anh" của Nhật Trường là bản nhạc trong đó hình ảnh người lính trong tim "cô sinh viên hay buồn" và "những giọt nước mắt ướt trên sân trường đại học" rất gần với tâm trạng và hoàn cảnh của tôi lúc bấy giờ.
Câu chuyện bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ của "đôi trẻ" do người lớn sắp đặt. Ngày đó gia đình hai bác Đông An rất muốn làm thộng gia với ba má tôi. Các cụ thân nhau từ miền Bắc, cùng rủ nhau di cư vào Nam lập nghiệp. Hai gia đình thân đến nỗi hứa hẹn phải gả, cưới con cái cho nhau khi con cái lớn lên. Không làm rể thì làm dâu. Hai bác có ba người con, anh Trần Đình Thu là con trai út.
Tên anh chàng nghe như tên con gái. Nhìn tướng tá cao ráo, ăn mặc bảnh bao, nói chuyện hoạt bát, khá đẹp trai và là trung úy phi công, tôi nghĩ anh chàng " vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa" này chắc có nhiều cô mê và chàng tán gái thì khỏi... chê. Vào thời đó, các cô gái Sài gòn đa số có người yêu là lính. Hình ảnh đẹp, hào hùng và lý tưởng nhất trong tâm tưởng các cô trong đó có tôi là hình ảnh các chàng phi công trong binh chủng Không Quân " …Khi gió quay cuồng sau cánh bay, con tàu thét gầm cho tim ngất ngây, phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…"
Anh về phép, đến nhà tôi chơi hai lần. Hai đứa ngồi trong phòng khách nói chuyện bâng quơ. Anh kể về đời phi công, chiến tranh, những năm tháng tu nghiệp bên Mỹ. Tôi kể về chuyện học hành, chữ nghĩa và ước mơ làm cô giáo. Chuyến về phép sắp tới chưa kịp gặp thì được tin anh tử trận. Cũng may hai đứa chỉ là tình bạn sơ giao chưa có lời hứa hẹn hay một cuộc hẹn hò nào. Hôm tôi đến viếng đám ma anh, bác Đông An gái ôm tôi khóc nức nở. Nhìn chiếc quan tài màu vàng và tấm hình anh trong bộ quân phục phi công, tôi không cầm được nước mắt. Anh chết quá trẻ.
Sau cái chết của anh Thu, tôi vẫn là cô sinh viên Văn Khoa chăm chỉ, ngày ngày vùi đầu trong sách vở nhưng cái chết của anh và hình ảnh những người lính trong các bản nhạc của nhạc sĩ Nhật Trường đã khiến tôi quan tâm nhiều đến các tin tức thời sự, các trận đánh lớn và cuộc chiến tranh càng ngày càng khốc liệt. Tôi thường nghêu ngao những bài hát về lính của nhạc sĩ Nhật Trường như " Hoa Biển", "Tuyết Trắng", "Tình Thư Của Lính", "Khi Người Yêu Tôi Khóc", "Trên Đỉnh Mùa Đông", "Anh Không Chết Đâu Anh"…
Buổi chiều hôm ấy đang ngồi vật lộn với mớ chữ Hán của Thầy Nghiêm Toản, nhìn ra ngoài đường tôi thấy một anh lính dáng gầy, đeo cặp kính trắng, mặc bộ "treillis" rằn ri từ trên xe Jeep bước xuống. Anh đi thẳng vào nhà, nhìn những cây đàn trong tủ kính, quan sát, ngắm nghía một hồi và muốn được thử tiếng đàn.
Gặp "thần tượng" bất ngờ, giọng tôi như lạc đi. Tôi nói nhỏ với Má tôi đứng bên cạnh:
- Má. Má ơi, ca sĩ Nhật Trường đó Má. Ông này nổi tiếng hát hay, đóng phim, làm nhạc. Má bán rẻ rẻ, bớt chút đỉnh cho ổng vui nha Má.
Bà đến gần chào khách rồi kéo tủ kiếng lấy vài cây đàn anh chọn đưa cho anh thử. Anh chỉnh giây, dạo vài nốt nhạc và khen tiếng đàn hay.Thật là một cơ hội hiếm có để làm quen với người nhạc sĩ nổi tiếng như Nhật Trường. Còn gì hân hạnh cho bằng được người nhạc sĩ đến tiệm mình mua đàn. Vậy mà Má tôi tiếp anh như một người khách hàng bình thường.
Anh nhìn tôi với đôi mắt có vẻ tò mò khi thấy đống sách vở trên bàn và quay sang hỏi Má tôi:
- Bác ơi, cây này bao nhiêu tiền hả Bác?
- Xin cậu cho hai ngàn.
- Hai ngàn? Bác không bớt sao? Nếu cháu nói cháu là ai, Bác sẽ bớt cháu liền.
- Xin lỗi cậu, tôi không biết cậu là ai. Cậu trông quen quen.
Chàng nhạc sĩ cười thành tiếng:
- Thế bác có bao giờ nghe nhắc tên ca sĩ Nhật Trường chưa?
Lần này Má tôi cười lớn rồi gật gù:
- Hình như tôi có nghe cái tên này.
- Thế Bác có hay xem Ti- vi không? Cháu là ca sĩ Nhật Trường đây. Bác có giá đặc biệt cho cháu đấy nhé.
Ca sĩ Nhật Trường rất tự nhiên. Để chứng tỏ cho Má tôi, một bà già nhà quê không biết trước mặt bà là một anh chàng ca sĩ thứ thiệt, anh dạo đàn, vừa đệm đàn vừa hát rất tình tứ: "Nếu em không là người yêu của lính. Em sẽ nhớ ai chủ nhật trời trong. Em sẽ nhớ ai đêm xuân lạnh lùng. Và giữa chốn muôn trùng. Ai viết tên em lên tay súng"…"
Lúc đó tôi đang "ngất ngây" vì giọng ca trầm ấm và truyền cảm của "thần tượng" đang ngồi hát trước mặt mình. Không tự chủ được, tôi buột miệng:
- Dạ em biết. Bài này tựa là "Người Yêu Của Lính" của nhạc sĩ Nhật Trường. Lúc anh mới bước vào tiệm, em nhận ra anh là nhạc sĩ Nhật Trường liền.
Nhật Trường khoái trá, cười ha hả vì được "fan" ái mộ:
- Vậy là em biết nhiều về nhạc của anh lắm phải không? Đúng rồi. Bài này là bài "Người Yêu Của Lính". Làm người yêu của lính phải hy sinh nhiều lắm em ơi!
Rồi chàng quay sang cười với Má tôi:
- Thế là Bác phải bớt cho cháu đấy nhé. Nhạc sĩ …nghèo lắm bác ạ !
Vẫn là thái độ tiếp khách lịch sự, giọng nói dịu dàng nhưng sao Má tôi vẫn tỏ ra lạnh nhạt trước người nhạc sĩ nhanh nhẩu, vui tính:
- Cậu thông cảm cho. Tiệm chúng tôi bán đúng giá cậu ạ. Tôi không bớt vì tôi không nói thách. Cậu đã thử tiếng đàn hay và biết giá trị của cây đàn. Cậu mua dùm, tôi rất cám ơn. Thôi, để biếu cậu một bộ giây đàn và vài miếng khảy đàn nhé. Còn bớt thì không bớt được cậu ạ.
Thôi rồi. Ông Nhật Trường này …xui, ra ngõ gặp… "bà già giết giặc". Mọi lần Má tôi tiếp khách vui vẻ, hoạt bát và "mặn" chuyện lắm. Bà hay bớt chút đỉnh tiền để khách mua đàn về xe xích lô. Bữa nay sao Má tôi đối xử kỳ cục quá với khách hàng nhất là người khách này là người khách đặc biệt. Má tôi có thành kiến gì với anh? Hay tại câu hỏi "…biết cháu là ai" làm bà già bị…sốc? Hay Má tôi không thích làm quen với người nổi tiếng?
Sợ anh buồn, tôi bèn xía vào, vớt vát vài câu trước khi "thần tượng" trả tiền:
- Dạ, em biết nhiều về nhạc của anh lắm nhưng em không thuộc trọn bài nào. Má em bán đàn ở đây quen biết nhiều và rất quý các nhạc sĩ. Đây là lần đầu tiên gặp anh nên Má em không nhận ra nhạc sĩ Nhật Trường, chỉ thấy anh trông quen quen trên ti- vi thôi. Anh đã biết tiệm rồi, lần sau anh trở lại mua đàn sẽ bớt anh nhiều hơn.
Vậy mà Nhật Trường vẫn vui vẻ mua cây đàn mặc dù Má tôi không bớt một xu. Người tài xế cầm cây đàn ra xe. Nhật Trường chào má tôi thì bà đã vào trong nhà. Anh quay lại tìm cái nón bỏ quên và nhìn tôi cười cười:
- Má em coi bộ …khó. Coi chừng…ế chồng nha em.
Không có Má, tôi được dịp tuôn ra một tràng "tâm sự":
- Dạ, chắc không…ế đâu anh. Em thích nhạc lính của anh vì em có bồ lính. Em là "Người Yêu Của Lính".
Nhật Trường mở to mắt, cười tươi hẳn nét mặt:
- Vậy hả? Vui quá há? Bồ em thuộc binh chủng nào?
Lúc đó tôi liên tưởng đến hình ảnh anh Trần Đình Thu:
- Dạ…dạ..binh chủng… Không Quân.
- Vậy là em phải biết bài "Tuyết Trắng". Anh sáng tác bài này riêng tặng cho binh chủng Không Quân.
Rồi anh hát tự nhiên, dễ dàng, không cần nhạc đệm. Chung quanh như chỉ có anh và những lời nhạc trữ tình: "…Vượt cao vút cao, mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần. Tuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương… …"Anh ước sao tình như tuyết giăng, cho dù chúng mình không gian cách ngăn, cho dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm".
Tôi ngơ ngẩn đứng nhìn anh trong một "live show" ngắn ngủi và bất ngờ.
Thế rồi anh quay đi, vẫy tay:
Thôi chào em nhé. Cho anh gửi ít …tuyết tặng anh bồ Không Quân của em.
Chiều xuống. Xe lăn bánh. Tôi vẫn còn đứng dõi theo chiếc xe Jeep đã khuất bóng. Sao không xin chữ ký của anh để làm kỷ niệm cuộc gặp gỡ thú vị mặc dù có… "lính canh" là Má tôi đứng bên cạnh. May còn vớt vát được câu chuyện… nổ tới bến về ông bồ Không Quân. Lòng còn ấm ức vì Má tôi không bớt đồng xu teng nào cho chàng nhạc sĩ "nghèo".
Sau này tôi có dịp hỏi Má về câu chuyện cũ, Má tôi cười ngất:
- Con ơi, Má biết Nhật Trường lắm chứ sao không. Nhạc của anh rất tình cảm, thường viết về lính. Anh hát hay nữa. Má thích nhất cảnh anh đóng vai Nguyễn Văn Đương với cô Thanh Lan. Anh tài hoa và đào hoa lắm. Má chỉ không ưa cái tật đào hoa của cậu ta.
Trời đất ơi! Chỉ vì cái tật đào hoa của người nghệ sĩ mà Má tôi phớt lờ, không thèm nhận ra ca sĩ Nhật Trường, không niềm nở với người khách hàng rất dễ thương và không bớt "thần tượng"của tôi một xu nào. Tôi biết Má tôi thích nhạc lính và tiếng hát của Nhật Trường. Còn đời tư, Má tôi biết gì về đời tư của Nhật Trường? Má tôi chỉ biết Nhật Trường đào hoa qua mấy tin đồn và mấy tờ báo lá cải.
*
Những kỷ niệm về nhạc sĩ Nhật Trường thời còn là cô sinh viên Văn Khoa, hình ảnh người nhạc sĩ đóng vai đại úy Nguyễn Văn Đương và chị Nguyễn thị Lệ trên sân khấu đã theo tôi vượt đại dương suốt một chuyến bay dài. Tôi đã gặp người góa phụ bằng xương bằng thịt trong căn nhà nhỏ ở một khu xóm lao động trên con đường Nguyễn Chí Thanh nối dài thuộc quận mười một.
Tìm được căn nhà nhỏ trên con đường này sau đổi đời, với kẻ từ xa về như tôi, là chuyện phải "tra cứu" lỉnh kỉnh. Trước 1975, đây là đường Trần Hoàng Quân. Trước thời 1959, con đường mang tên là "Nhân Vị", gợi nhớ cái tên Đảng Cần Lao Nhân Vị thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước đó nữa, năm 1955, đó là đường Jean Jacques Rousseau. Trước nữa nữa, thời Pháp thuộc, con đường này được gọi là "Armand Rousseau", tay tổ làm rượu vang Burgundy wine, tiếng tây kêu là Vin de Bourgogne. Con đường này sau trận đổi đời 1975 còn được nối dài qua đường 48 lụp xụp với những khu lao động.
2. Người Quả Phụ và Tiếng Súng Bất Tử
Trước mặt tôi là chị Nguyễn Thị Mai, người góa phụ hiền hòa của đại úy Nguyễn Văn Đương. Bốn mươi hai năm trước, ngày để tang anh, chị chỉ mới vừa tròn ba mươi tuổi, đã sống thờ chồng, nuôi con sau khi anh cố thủ và tự sát trên đồi 31 tại Hạ Lào ngày hai bốn tháng hai năm một chín bảy mốt.
Tôi đến thăm chị Mai vào một buổi trưa. Saigon trời nắng và nóng như thiêu đốt muốn ngộp thở. Căn nhà nhỏ xíu chiều dài và chiều ngang khoảng hai mươi lăm mét bề bộn các đồ vật ngổn ngang không có lối đi. Biết tôi ở xa về thăm, chị rất vui và cảm động. Chị gầy lắm trong bộ đồ bà ba xám. Tóc cắt tém ngắn, lùi xùi, khuôn mắt khắc khổ, làn da sạm nắng dãi dầu gió bụi của đất Sài gòn.
Tôi ngồi bên cạnh chị trên chiếc sập gỗ trước nhà, nghe chị kể chuyện về cuộc đời bà quả phụ Nguyễn văn Đương và cái chết của anh ở Hạ Lào. Với giọng nói rặt miền Nam, trí nhớ bị ngắt quãng mỗi khi hồi tưởng, chị chậm rãi khi kể về quá khứ.
Sau năm bảy lăm, chị bị tai nạn do các thanh gỗ mục nát từ trần nhà rơi xuống, Con mắt trái đụng mạnh vào góc bàn sắc nhọn. Sau hai lần giải phẩu không thành, con mắt giờ chỉ còn là một miếng da trắng bao phủ con ngươi. Chị bị mù hẳn.
Ngày đó anh Đương là pháo đội trưởng của pháo đội 3, tiểu đoàn 3, pháo binh nhảy dù, căn cứ đóng ở đồi 31 Hạ Lào. Thỉnh thoảng anh được về phép. Tiền lính "tính liền", không đủ cho chị trang trải một gia đình năm miệng ăn gồm chị và bốn đứa con trai đang tuổi lớn, chị phải quơ quào chạy ngược chạy xuôi, khi thì làm nghề dệt vải, khi thì bán chè sương sa hột lựu ở chợ Thiếc để kiếm tiền phụ anh nuôi con. Hai đứa con trai đều mất vì bệnh gan sau bảy lăm. Một người đi làm xa. Cô con dâu không đi lấy chồng, ở vậy nuôi hai đứa cháu nội ở gần nhà chị. Đứa con trai út tên Nguyễn Viết Xa, ngày anh Đương mất, cậu chỉ mới tám tuổi. Hiện anh vẫn còn độc thân, làm nghề chạy xe ôm và ở chung với mẹ.
Chị đưa tôi xem tờ giấy đánh máy đã ố vàng, cũ kỹ, chị còn giữ như một kỷ niệm. Đó là năm một chín bảy mốt, chị nhận được tờ giấy có con dấu đỏ của tiểu đoàn pháo binh báo tin anh Đương mất tích. Sau đó là tờ giấy báo tử. Chị xé bỏ tờ giấy báo tử vì tin rằng anh Đương còn sống. Anh có thể bị bắt làm tù binh hay đang ở một nơi nào trong rừng sâu núi thẳm. Một ngày nào đó anh sẽ tìm được đường về.
Cuối cùng, mặc dù tờ giấy báo tử đã xé bỏ, bà mẹ bốn con phải chấp nhận một sự thật đau lòng khi những người bạn của anh còn sống sót trở về kể chuyện pháo đội của anh bị bao vây, anh bị thương nặng ở chân, anh đã gọi pháo đội phá hủy căn cứ và tự sát bằng khẩu súng Colt với một viên đạn bắn vào đầu. Cái chết hào hùng của anh tại ngọn đồi 31 Hạ Lào đã là nguồn cảm hứng cho người nhạc sĩ yêu lính sáng tác bài "Anh Không Chết Đâu Anh".
Từ Mỹ, tôi có đọc một tờ báo viết về ước nguyện của chị được một lần cuối trong đời sang Lào thăm ngọn đồi 31 nơi anh Đương hy sinh. Những người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa và những người quả phụ có chồng là tử sĩ hầu như đã bị lãng quên sau bảy lăm. Hơn bốn mươi năm, họ sống lặng lẽ, âm thầm trong bệnh tật và khó khăn về kinh tế trong đó có gia đình bà quả phụ Nguyễn Thị Mai.
Chị kể gần đây có chương trình giúp đỡ thương phế binh và quả phụ tử sĩ, gia đình chị đã được sự giúp đỡ của nhạc sĩ Nam Lộc và Hội HO. Phải đợi đến khi tin tức về ước nguyện của người quả phụ được phổ biến rộng rãi trên báo chí, nhiều người đã gọi điện thoại hay trực tiếp đến thăm và sẵn sàng giúp đỡ về tài chánh cho chị thực hiện ước nguyện này.
Ngày mười hai tháng tư, chị sẽ cùng người con trai út lên đường sang Lào tìm hài cốt anh ở đồi 31.
Chị dẫn tôi lên căn gác nhỏ, đồ đạc vương vãi trải khắp lối đi trên cầu thang và sàn nhà. Đây là bàn thờ anh Nguyễn Văn Đương với bức ảnh màu và bức ảnh đen trắng có ghi dòng chữ " Anh Không Chết Đâu Anh" và vài bức ảnh khác của anh đặt cạnh bát nhang, bình hoa và dĩa trái cây. Chị bùi ngùi kể mỗi khi chị nhớ anh, chị đứng nhìn bức ảnh hồi lâu và âm thầm cầu nguyện anh sống khôn thác thiêng phù hộ cho ước nguyện của chị sang Lào tìm hài cốt anh trở thành sự thật.
Cuộn băng cassette đã cũ thâu lại bài hát "Anh Không Chết Đâu Anh" chị đã nghe đi nghe lại hàng trăm, ngàn lần đến nỗi dây băng đã nhão, âm thanh đã rè, tiếng hát đã lạc giọng, có đoạn không còn nghe chút âm thanh nào nhưng chị vẫn giữ như một kỷ niệm.
Chị rất vui khi nghe tôi nhắc đến trong một băng thu hình chủ đề về lính, nhạc cảnh cố nhạc sĩ Nhật Trường đóng vai Đại úy Nguyễn Văn Đương và ca sĩ Thanh Lan đóng vai người quả phụ, một lần nữa đã được dựng lại với kỹ thuật hiện đại và âm thanh tuyệt hảo trên sân khấu hải ngoại.
Chị nghẹn ngào tâm sự:
- Đồng bào mình ở nước ngoài vẫn còn nhớ anh Đương hả em? Bây giờ chị vui lắm vì anh Đương được nhiều người nhắc đến và chị được nhiều người hỏi han, an ủi. Nhờ bà con mình giúp đỡ, chị sắp gom đủ tiền để sang Lào tìm tro cốt anh. Đây là chuyến đi xa đầu tiên và cuối cùng trong đời để chị hoàn thành ước nguyện tìm đến nơi anh đã hy sinh, mang tro cốt anh về để chị được gần anh trước khi chị nhắm mắt.
Được tin chị đã trở về sau chuyến đi Lào bình an cũng là ngày tôi bận rộn chuẩn bị về Mỹ nên không có thì giờ đến thăm và từ giã chị. Tôi gọi phone và nghe chị kể chuyện về chuyến đi mất ba ngày bằng máy bay và đường bộ, tuy vất vả nhưng gặp nhiều may mắn và thuận lợi. Điều chị tâm đắc nhất là câu chuyện tâm linh về trái táo rơi trên ngọn đồi 31 và niềm hạnh phúc nhất là đã mang được nắm đất của anh về thờ tại quê nhà.
Trên ngọn đồi 31 thuộc vùng hạ Lào hoang vu, trống vắng và khô khốc, ban ngày thì nóng hầm hập vì những ngọn gió Lào, ban đêm thì lạnh vì sương mù trên vùng cao, hơn bốn mươi năm về trước, khu vực này đã từng là bãi chiến trường đầy máu lửa của hai lý tưởng, hai ý thức hệ chính trị, hai chế độ Quốc gia và Cộng sản. Cả hai phía đều quyết tâm dồn hết lực lượng chiếm lĩnh vùng đất đã để lại những địa danh lịch sử như Khe Sanh, hành quân Lam Sơn, đường 9 Nam Lào…
Trong lúc hai mẹ con đang thì thầm khấn vái vong hồn anh Đương linh thiêng phù hộ cho việc đi tìm hài cốt, cùng với nhóm người dẫn đường, ai cũng hoang mang không biết đâu là nơi anh Đương đã hy sinh thì một quả táo trong bịch ni lông chị đang cầm khi không bỗng rơi xuống đất. Chị sợ và lạnh toát cả người. Có phải đây là thần giao cách cảm giữa hai cõi âm dương, linh tính hay giác quan thứ sáu của người vợ quyết chí đi tìm hài cốt chồng hay là vong hồn anh Đương linh thiêng về ra dấu, chỉ dẫn cho hai mẹ con biết đây chính là nơi anh đã nằm xuống. Chị quyết định chọn vị trí này để cúng kiếng, trải tấm chiếu, bày biện các lễ vật, nhang đèn, tấm hình anh Đương và không quên chiếc mũ đỏ của binh chủng Nhảy Dù.
Ngày ấy, "trên khăn tang cô phụ" và "giọt nước mắt nóng hằng đêm cho anh cho anh" đã nhỏ trên mặt gối. Giờ đây, trên ngọn đồi âm khí nặng nề với mùi khói hương lãng đãng bao quanh, chị thì thầm khấn vái, kể lể, nhắn nhủ với anh. Lần đầu tiên, những giọt nước mắt của người quả phụ khóc chồng, người con khóc cha đã nhỏ xuống mảnh đất xa xôi ở xứ người, mảnh đất đã từng nhuộm máu "người anh hùng mũ đỏ tên Đương" và các đồng đội cùa anh trong trận tử chiến tại ngọn đồi 31.
Bốn mươi năm trôi qua, hài cốt của anh bây giờ đang ở đâu? Chẳng phải con người ta sinh ra từ cát bụi và trở về với cát bụi? Chị hốt một nắm đất mà chị tin rằng đó là tro bụi từ hài cốt của anh và các bạn đồng đội đã bị vùi lấp, tan rữa theo thời gian. Vong hồn anh Đương từ nay sẽ theo nắm đất ấy về an nghỉ nơi Tịnh Xá Trung Tâm, một ngôi chùa ở quận sáu để chị có dịp thường xuyên đến thăm anh và tụng cho anh những thời kinh siêu độ.
Khi sống đã không được gần nhau thì khi chết xin được ở bên nhau. Đó là ước nguyện của chị Mai sau khi nhắm mắt, thân thể chị sẽ là tro bụi và được đặt bên cạnh nắm đất của anh thờ trong chùa.
Cho dù dĩ vãng có phôi pha, thời gian có xóa nhòa những kỷ niệm và những hình ảnh có phai mờ theo năm tháng nhưng âm nhạc và lời hát của những bản nhạc đánh dấu một giai đoạn lịch sử như cuộc chiến tranh Việt Nam, "Anh Không Chết Đâu Anh" sẽ mãi mãi còn sống trong lòng những người Việt tha hương yêu lính.
"… Ôi, đất mát trên đồi xanh, tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh. Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù che kín đời anh…"
"Trong những tiếng reo hò kia, lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầu. Ôi tiếng súng sau cùng đó…
Tiếng súng đã không giết được hình ảnh người chiến sĩ trong lòng người quả phụ Nguyễn thị Mai. Nó đã trở thành tiếng súng bất tử.
Cali ngày 14 tháng 5 năm 2016
Phùng Annie Kim
No comments:
Post a Comment