Ba mươi năm ấy bây giờ là đây
Kim Thanh
Đúng ra, câu thơ trong Truyện Kiều là “Mười lăm năm, mới bây giờ là đây” kể chuyện nàng Kiều lúc mãn kiếp đoạn trường đã trở về sum họp với gia đình và người tình Kim Trọng. Nguyễn tăng lên “ba mươi năm”, vì thời gian lưu lạc của chàng gấp đôi của Kiều. Ba mươi năm, chao ôi, một nửa đời người, mà nợ ly hương còn mãi đeo đẳng! Thực vậy, từ trại tỵ nạn Bataan, Philippines, Nguyễn vào Mỹ ngày 28/1/1985, sau tám năm tù cải tạo ngoài Bắc, một năm tù vượt biên trong Nam, và bảy ngày đêm bão tố hãi hùng trên đại dương. Không gia đình, không tiền bạc, không hành lý, không giấy tờ. Không tương lai. Chỉ một quá khứ trĩu nặng đau thương mang theo.
1. Salem, làm sao quên
Salem. Trong một apartment thuê của người em đã bảo lãnh, tên Nguyễn Kim Hồng, lớn lên ở Mỹ từ 1976. Nhân viên xã hội lúc bấy giờ là chị Trần Thu Thủy, vui vẻ, sốt sắng, giúp đỡ Nguyễn nhiệt tình. Một tháng trời, nằm nhà xem Ti vi, để luyện tiếng Mỹ. Nằm chán, chàng ra siêu thị Safeway gần đó, chỉ để ngắm nhìn thiên hạ, không mua sắm gì vì không có một xu dính túi.
Một hôm bị đau, chàng được Hồng chở đến bệnh viện Salem. Ông bác sĩ Mỹ rất vui tính. Xong việc, ông hỏi một câu làm quà: “Tương lai anh muốn làm gì tại Mỹ?” Với một thứ tiếng Anh hổ lốn –học từ trường Pháp, từ các cố vấn và lính Mỹ trong chiến tranh, và từ những người Phi đủ hạng ở các trại tỵ nạn, nghĩa là đầy accent, không giống ai– Nguyễn thành thật trả lời: “Tôi muốn dạy Pháp văn trở lại”. Ông phá ra cười, ngạo mạn: “Nhưng đến cả tiếng Anh anh cũng không nói được” (But you can’t even speak English). Mặt chàng đỏ bừng: “Ông nói dối, vì ông hiểu được những gì tôi nói mà. Năm năm nữa tôi sẽ trở lại gặp ông như một giáo sư, cho ông coi”, chàng xẵng giọng đáp, cương ẩu, bước ra khỏi phòng, không chào, không bắt tay.
Trên xe về nhà, Nguyễn thấy đầu lùng bùng. Có thể ông bác sĩ đã vô tình hoặc trực tính. Có thể ông nói không sai: tiếng Anh của chàng, tuy không tệ quá, nhưng muốn làm giáo sư tại Mỹ phải chăng đó là một hoang tưởng? Nhiều ngày sau, tiếng cười của ông còn rát bên tai. Từ đó, bỗng lóe lên ý nghĩ đi học lại. Hồng và vợ can ngăn mãi: "Trễ quá rồi anh, thôi ráng kiếm việc gì làm bậy bạ, sống qua ngày. Già rồi, học sao vô, lại còn tiền học nữa, quá đắt, lấy đâu?" Chàng đành im lặng, ngồi nghe và suy nghĩ lung lắm.
2. Portland, những tháng ngày bầm dập
Vợ chồng Hồng còn son trẻ, đối xử rất đường hoàng. Nhưng chàng tự thấy bất tiện nếu cứ ăn dầm nằm dề trong apartment nhỏ, đầy riêng tư của hai em. Sực nhớ câu châm ngôn Latin thời Trung cổ: “Post tres saepe dies vilescit piscis et hospes”, có nghĩa, thường sau ba ngày, cá và khách đều ươn. Huống chi “khách chàng” đã ở gần một tháng. Cộng thêm tiếng cười chế nhạo của ông bác sĩ. Phải ra đi thôi. Lên Portland, tìm cơ hội lập thân.
Nguyễn gọi điện thoại cho Phạm Văn Tải –một chỉ huy cũ rất chịu chơi của chàng từ Ban Mê Thuột đến Kontum đến Nha Trang, quảng giao, sống có thủy có chung, tốt với mọi người– để xin tá túc vài bữa. Ông sốt sắng: “Được chứ. Cứ lên ở với tớ, bao lâu cũng được.” Lúc ấy, ông sống trong một apartment thuê, đường Prescott, với Lu, đứa con trai nhỏ, bây giờ là linh mục dòng Tên. Bà Tải và những người con khác chưa qua đoàn tụ. Chỉ có một phòng với chiếc giường lớn cho hai cha con, chàng ngủ trên sofa, ngoài phòng khách, như tại nhà Hồng. Tải làm việc cho USCC (US Catholic Charities), trong khuôn viên nhà thờ La Vang. Cuối tuần, ông thường đến các nhà quen dự tiệc, và chở chàng theo ăn ké. Còn cho mượn $800 tiền mặt để mua chiếc Audi đời 76, trên 100 ngàn miles, của bà sơ Miền, chạy cũng OK, nhưng nổ lớn quá, phun khói mù trời, bị rớt hoài DEQ và cảnh sát hai lần chận phạt.
Để kiếm tiền độ nhật, Nguyễn theo xe bus hái dâu, đến vài vùng quê khá xa. Mỗi ngày, nhận tối đa chưa tới $10, trong khi đa số lãnh gần cả trăm. Chàng hái chậm, lại hay đứng lên để đấm lưng, uống bia, tán dóc. Các bà, các cô, toàn là dân tỵ nạn mới định cư, ngồi bệt trên luống dâu, hái bằng cả hai tay nhanh thoăn thoắt, thoáng chốc đã đầy khay, làm không biết mệt. Trong đám hái dâu, có ba thanh niên mà chàng quen thân tại trại Palawan, nay đều trở thành linh mục, Đặng Kim Hoàng, Nguyễn Cửu và Nguyễn Văn Luận, “lao động” kiểu tài tử giống chàng, tiền lãnh được không khá hơn.
Mùa dâu kết thúc, bốn chàng ngự lâm pháo thủ Palawan xoay được công việc khiêng thùng tại warehouse của một anh Tàu Móm gốc Chợ Lớn, khu North. Suốt ngày phải di chuyển vào nhà kho rộng thênh thang, và xếp gọn, những thùng hàng đồ chơi và gia dụng linh tinh, không nặng lắm, nhưng rất nhiều, nhập từ Hồng Kông. Anh Tàu phát cho mỗi người $15 một ngày, kèm thêm mộthamburger và một ly coke, không đủ no. Công việc tạm ổn định. Được một tháng thì hết hàng nhập. Bèn thất nghiệp. Nguyễn giã từ ba ông cha tương lai, để từ đó đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Mười chín năm sau, 2004, Đặng Kim Hoàng và Nguyễn Văn Luận là hai linh mục đồng tế, cùng với cha chánh xứ La Vang Phạm Văn Ninh, cho thánh lễ hôn phối của vợ chồng chàng.
Mấy hôm sau, Tải kiếm đâu cho chàng được cái job tại một nhà hàng Mỹ, khu NE, lương $6 một giờ, từ 11PM đến 3AM, vị chi là $24, trả cash ngay tại chỗ, mỗi đêm. Lúc này, chàng có xe và bằng lái, nên đi đứng có phần dễ dàng. Chàng được giao một núi chén đĩa, thanh toán xong đã mất hai tiếng. Tên quản lý Mỹ đưa thêm một cái chão to tổ bố, đen ngòm những mỡ, hành và thịt cháy. Chàng hì hục cạo, chùi gần một tiếng nữa, tưởng sạch, nhưng hắn lắc đầu, lấy ngón tay quẹt vào những chỗ còn bám mỡ, bắt rửa lại. Về đến nhà đã hơn ba giờ sáng, quá giấc ngủ, trằn trọc mãi. Làm thêm một tuần nữa, chịu hết nổi, chàng bỏ luôn.
Chàng xin phép Tải được share tiền thuê phòng, ông gạt đi và nói: “Không có cậu, tớ cũng phải trả như vậy thôi!” Thỉnh thoảng ông chở chàng đến văn phòng USCC chơi. Tại đây, lần đầu chàng gặp Dương Xuân Kính, tức Paul Dương, cựu SVSQ khóa 2 trường Đại Học CTCT Đà Lạt, đến Mỹ từ 1975. Khi biết Nguyễn là sĩ quan của trường, từ khóa 4, Kính tỏ vẻ mến trọng, và nhiều lần đến đón đi ăn trưa tại tiệm Yên Hà. Sau đó, chở chàng đến họp tại tư gia với anh em Hội Ái Hữu Cựu SVSQ/ĐH/CTCT/ĐL, lúc bấy giờ chỉ có năm người, đều khóa 2, nghĩa là chưa hề biết chàng tại VN. Lần đầu gặp gỡ, được anh em tiếp đãi chí tình, chàng cảm động muốn rơi nước mắt. Chàng bắt đầu viết bài cho tờ Ức Trai của Hội.
Kính cũng giới thiệu Nguyễn với Linh Mục Cao Đăng Minh, giám đốc Trung Tâm Mục Vụ Đông Nam Á và Chánh xứ La Vang, mà chàng nghe mọi người ca ngợi –rất đúng, như sau này chàng công nhận– đã tích cực giúp đỡ đồng bào, Cộng đồng và có tinh thần quốc gia, chống Cộng cao. Ông không nhận ra chàng. Nhưng chàng biết rõ ông, vì một lần tình cờ chàng gặp, bắt tay ông tại phòng khách Dòng Chúa Cứu Thế, đường Duy Tân, Nha Trang, khi chở thân phụ, là ông Câu họ đạo Vĩnh Phước, đến gặp Cha Bề Trên có việc. Lúc ấy, ông gầy xanh, dáng vẻ thư sinh, và nói năng dễ thương. Giờ này, sau bao nhiêu năm, ông không nhớ chàng là ai, cũng đúng thôi, nhưng ít ra còn lịch sự trao đổi vài câu xã giao. Khác với một tên bạn, lúc đó được xem là một nhân vật tai mắt mũi họng của giáo xứ La Vang, nhưng cùng khóa Thủ Đức, cùng đại đội, cùng trung đội, cùng bị hít đất tập thể vẹo cả mông. Gặp y bất thần ở sân nhà thờ, Nguyễn hí hửng chào trước. Y nhìn chàng lạnh lùng, nhún vai, lắc đầu, bỏ đi, không thèm nói nửa lời, làm chàng quê độ, muốn chửi thề một phát.
Sau hơn hai tháng, chàng tính chuyện ra đi. Gặp lúc Tải mãn hợp đồng thuê nhà, hai cha con mướn một phòng khác, rẻ và chật hơn. Còn chàng được Kính xin anh chị Vũ Văn Khúc cho thuẻ cái basement dưới nhà, đường Siskiyou. Nghe ai xúi, chàng nạp đơn xin welfare. Ăn trợ cấp thì phải theo học lớp tìm việc, ba lần một tuần, tại IRCO (International Refugee Center of Oregon). “Tai nạn” xảy ra từ lúc đó. Quả vậy, lãnh được hai tháng lương welfare, tổng cộng chưa tới $150, thì chàng trốn học. Một mợ người Việt, không biết chức vụ gì, còn trẻ, nhưng “cực kỳ” hắc ám, mặt mũi lúc nào trông cũng khó đăm đăm như bị táo bón kinh niên, hành chàng tận tình. Một lần mợ đề nghị Nguyễn đi lau cửa kính trên những building cao ngất ở khu North. Chàng từ chối, viện cớ mắt kém, rủi trượt chân té què giò. Biêt chàng có ý đi học lại, mợ gọi chị Khúc, dò hỏi tin tức về chàng và thời khóa biểu hàng ngày, đi đâu, làm gì, gặp ai… Nghe chị kể lại, chàng điên tiết vì hành động sặc mùi Công An phường này, bèn gửi đơn xuống Salem xin điều trần (hearing) về việc bị xách nhiễu, dọa cúp trợ cấp, dù chàng biết rõ, muốn ăn trợ cấp thì phải đi làm công việc do IRCO chỉ định.
Buổi điều trần diễn ra tại Sở welfare, có thu băng, biên bản, với sự hiện diện của mợ và một mợ case worker sồn sồn Mỹ, cũng “táo bón” không kém, và ba ông nhân viên từ Salem lên, vẻ mặt, ngược lại, trông từ tốn, phúc hậu. Giận hai mợ, chàng từ chối thông dịch viên Việt Nam của Sở, và mang theo cô bạn Mỹ mới quen tên Robin, rất giỏi Pháp ngữ. Suốt buổi, chàng chỉ nói tiếng Pháp, Robin dịch ra tiếng Anh, và ngược lại. Biết điều này, Kính khoái quá, cười khen: “Chưa từng có trường hợp nào như ông. Bắt một em Mỹ thông dịch cho ông, ông chơi cha thiên hạ rồi còn gì!” Một vị đại diện Salem, rất lịch sự, tuyên bố kết quả: “Chúng tôi thông cảm ước vọng muốn đi học lại của ông, đó là điều tốt. Nhưng luật là luật, ông phải đi làm mới được lãnh trợ cấp”. Chàng biết trước, nên không hề thất vọng, buồn phiền. Kiện cho bõ tức thôi. Chàng thua, hai mợ hả hê lắm. Mất tiền trợ cấp sau buổi điều trần.
Tuy nhiên, cũng tại IRCO, chàng may mắn được gặp người phụ trách chương trình Xã Hội, hướng dẫn các tân tỵ nạn viên về nếp sống tại Mỹ, sự khác biệt giữa hai nền văn hóa… Một bữa, anh vào lớp, phong thái ung dung, khiêm tốn, pha một chút lãng tử bất cần đời, và nói, đại ý: “Xin chào quý bạn. Tôi là Trịnh Đình Bội, cựu Thiếu tá thuộc Tổng Cục CTCT, cùng cảnh ngộ tỵ nạn. […] IRCO có nhiệm vụ giúp quý bạn sớm hội nhập vào đời sống mới, giúp tìm việc làm bằng cách mở lớp học này. Nhưng đó chỉ là thủ tục, nguyên tắc, bởi nếu quý bạn tự tìm được việc làm, tự biết về đời sống Mỹ rồi thì khỏi đến lớp…” Tuyên bố xong, anh giải tán lớp học. Nguyễn chịu lắm. Một tháng sau, Kính có việc gặp Giám đốc IRCO, Nady Tan, người Căm Bốt, và rủ chàng cùng đi cho vui. Nói chuyện với Nady bằng Pháp ngữ, chàng kể về kỷ niệm thời gian chàng phục vụ phái đoàn Liên Lạc Quân Sự tại Phnom Penh, về Sirik Matak, về cô bạn Soriya. Một lúc nào, chàng nhắc và khen ngợi “Monsieur Bội”. Nady bèn nói: “Ông Bội đã giúp đỡ thân chủ IRCO rất nhiều. Ông đã tốt nghiệp Báo Chí tại Indiana, Hoa Kỳ, vào năm 1969”.
Mối giao tình giữa Bội và Nguyễn được mở ra từ lúc đó, gián đoạn gần mười năm khi chàng rời Portland, và được nối tiếp sau thời gian trở lại, mỗi ngày bền chặt hơn qua những buổi mạn đàm về chính trị, thời sự, nhất là văn chương. Dần dần anh trở thành một trong những người bạn thân quý nhất của Nguyễn. Trong mỗi vấn đề, anh có cái nhìn bén nhậy, ý kiến chính xác, xây dựng, tích cực và sâu sắc không ngờ. Anh còn là một nhà thơ, ký tên Ngọc Bội, với những bài thơ trữ tình, đặc biệt Đường thi, đầy nét vừa cổ kính vừa tân lãng mạn, biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, chống Cộng nhẹ nhàng mà quyết liệt, hồn thơ lai láng, vần điệu phân minh, niêm luật nghiêm chỉnh mà không gò bó, đọc lên nghe tự nhiên như không.
3. PSU, gắn lại mảnh đời vỡ vụn
Chị Khúc cho Nguyễn ở và ăn cơm tối chung với gia đình chị, lấy giá quá rẻ, rất tượng trưng. Coi như cho không. Anh chị lại rất đạo đức, tối nào cũng cho con xuống “mời bác lên nhà đọc kinh”. Sau này, nhớ ân tình cũ, chàng nhờ chị làm mẹ đỡ đầu cho Loan, vợ chàng, trong ngày rửa tội.
Kẹt tiền, chàng đến tiệm Yên Hà xin lau sàn và rửa bát ban đêm, chỉ mong đủ trả tiền phòng, và cà phê sáng, ăn trưa. Cùng lúc, qua đề nghị của Kính, cha Minh cho chàng hành nghề “lăn tay, chụp hình”, điền thẻ xanh và quốc tịch cho đồng hương, thay bà sơ Miền, lượm bạc cắc, trong hai ngày cuối tuần, dưới basement nhà thờ. Cái job ấy được giữ suốt thời gian chàng học tại Portland State University (PSU), cho đến khi xuống Eugene độ nửa năm thì bị “tịch thu”.
Hè 1985, mối ám ảnh đi học lại chìm sâu trong đáy tiềm thức từ mấy tháng, một ngày chợt trỗi dậy. Chàng nhờ Kính chở đến PSU, một buổi sáng vắng người, để lo việc ghi danh. Tìm Khoa Foreign Languages. Gõ đại cửa Văn Phòng Cố Vấn Sinh Viên Thiểu Số, gặp một mợ Việt Kiều cỡ tuổi hồi xuân, có cái tên rất đầm, tốt nghiệp BA Pháp văn. Mợ múa tay chỉ hai chàng đến building này, đi lên lầu kia, quẹo qua nơi nọ. Không muốn tốn giờ chờ thang máy, cả hai chạy lên chạy xuống đủ mấy tầng lầu, long hết đầu gối, mà chẳng tìm ra, có lẽ mợ chỉ sai chỗ. Trở lại gặp mợ. Lần này, mợ liếc nhìn Nguyễn từ đầu đến chân, rồi lắc đầu, nghiêm nghị bảo: “Học Pháp văn khó lắm, anh theo không nổi đâu. Tôi đây mà còn mất mấy năm trời, trầy vi tróc vảy”. Hai chàng ngao ngán, nhìn nhau, xuống phòng ghi danh.
Tại đây, Nguyễn khai đã có Cử Nhân Pháp văn và dạy học ở Việt Nam, sắp trình Cao Học thì mất nước, nhưng vượt biên không mang theo giấy tờ. Chàng xin học lại BA, cho an toàn. Cô thư ký, tên Robandt, rất tử tế, bảo chàng về nhà làm và nộp một bảng affidavit, kê rõ những năm và môn học. Cô cũng đề nghị chàng đi gặp trưởng Ban Pháp văn, Claudine Fisher. Hai tuần sau, có kết quả, không ngờ: chàng không được học BA. Mà phải MA. Từ đó Claudine là giáo sư của chàng, nay trở thành người bạn lớn thân thiết, đã nghỉ hưu, có thời làm Lãnh sự Pháp tại Portland, và nhân chứng trong lễ hôn phối của vợ chồng chàng. Một mùa hè, trong một chuyến Âu du, chàng đến Bordeaux, ghé chơi mưiờ ngày tại nhà Claudine và bà cụ thân mẫu –là văn sĩ có hạng, trên 80 tuổi vẫn còn viết truyện cho thiếu nhi– ở làng Castillonnès.
Hôm sau, Kính chở chàng đến US Bank, mượn student loan, do anh ký giấy đứng tên chung. Về sau, chàng mới biết, thời nào cũng vậy, không dễ gì tìm một người chịu co-sign cho mình, anh em còn sợ, còn lừa gạt nhau, huống chi bạn bè mới quen. Phải có tấm lòng nhân hậu, tin người lắm Kính mới sẵn sàng, vô điều kiện, ký cho chàng, một “kẻ xa lạ” trên răng dưới giày garage sale. Chàng mang ơn Kính suốt đời. Món nợ nhà băng ấy chàng đã trả hết trong hai năm, từ sau ngày ra trường, đi dạy Đại học. Nhưng món nợ tinh thần biết bao giờ mới trả xong? Cũng như đối với Tải, tiền nợ mua xe chàng đã trả góp đầy đủ, nửa năm sau đó, nhưng ơn nghĩa đã “cưu mang” chàng những ngày còn hàn vi tại Mỹ, làm sao quên được?
Nguyễn nhập học Fall 85, sau chín tháng đặt chân tới Mỹ. Không trở ngại về môn Pháp văn. Chàng học chung lớp Education với Tou Meksavanh, cô người Lào dễ thương, một hiệu trưởng tương lai của Khu Học Chánh Portland, mà bây giờ vẫn là bạn thân. Vì nôn nóng ra trường, chàng dồn hết 45 tín chỉ vào một niên học, gồm 15 tín chỉ bắt buộc cho ba lớp Education, giảng bằng Anh ngữ, khó hơn –mà các giáo sư cho phép chàng đem máy vào lớp thâu băng, về nhà nghe lại. Spring 86, sau khi viết xong hai tiểu luận (thesis) về Ngữ Học và về Văn Chương Pháp, chàng được nhận bằng MAT (MA in Teaching) với straight A, giấy khen “học xuất sắc” của trường, và lời ca ngợi trên báo Mỹ. Phần chàng rất vui mừng được trút gánh nặng trong chặng đầu của cuộc hành trình làm lại cuộc đời từ con số không, nhờ các quý nhân phù trợ –mà Thượng Đế gửi đến, như đã an bài từ trước.
Có bằng rồi, Nguyễn muốn đi dạy ngay. Claudine và Kính khuyên, sẵn trớn nên học Ph.D luôn. PSU không có chương trình Tiến sĩ Pháp văn. Phải xuống University of Oregon (UO). Chàng nộp đơn, và một ngày hè 1986, Kính chở chàng đi Eugene, cách Portland hai giờ lái xe, gặp bà Françoise Calin, cũng người Pháp, Trưởng Khoa Romance Languages. Chàng được nhận học miễn phí, với điều kiện buổi sáng phải dạy hai lớp Pháp, có lương, và buổi chiều đi học.
4. Eugene, những mùa thu cô liêu
Eugene là một thị trấn nhỏ mà mọi sinh hoạt quy tụ vào trung tâm náo nhiệt duy nhất, trường UO. Fall 86, Nguyễn đến trường trình diện để dạy và học. Như một công chức thứ thiệt, sáng sớm chàng lái ô (tô) đi, tối mịt lái ô về. Về, chỉ để ngả lưng trên chiếccouch tróc cả nệm, trước đây đã chịu trận dưới bao nhiêu bàn tọa đũ cỡ, trong một phòng trọ bình dân. Ăn sáng, trưa, chiều ở cafeteria trường. Cô đơn đến rợn người, nhất là những đêm mưa rả rích ngoài hiên. Bồ bịch không có. Anh em, bạn bè mỗi người một nẻo. Mẹ già, em gái còn bên trời cũ. Không một bóng người Việt. Nhưng có lẽ nhờ không vướng bận gia đình và sinh kế chàng mới có thể chú tâm vào việc học, chứ tự thấy chẳng tài giỏi hơn ai. Những lúc mệt mỏi, chán chường, muốn bỏ cuộc thì tiếng cười nhạo của ông bác sĩ Salem lại réo bên tai, thúc giục chàng đứng dậy, tiếp tục. Bạn học trong Romance Languages (tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Roumanie) đến từ các nước Âu Châu và Nam Mỹ, Pháp nhiều nhất, ai cũng vui vẻ, trong số có vài người thân thiết từ hồi PSU. Hai lớp chàng dạy đông sinh viên, đa số là Mỹ, một số người Á đông, Trung đông, không có Việt Nam. Françoise bắt bọn chàng giảng và nói ngoại ngữ cho “sinh viên nghe quen”. Mỗi chiều thứ sáu, học xong lớp cuối, chàng phóng xe đi Portland, ghé đâu đó nhậu với bạn bè, và được ba chị em Yên Hà (Mai, Tâm, Yến) mời về nhà nghỉ cuối tuần.
Chương trình học gồm bắt buộc 45 tín chỉ, một sinh ngữ Romance thứ hai, hoặc cổ ngữ Latin, và một luận án, thời hạn tối thiểu bốn năm. Nguyễn học xong các tín chỉ chỉ sau hơn một niên học, cũng straight A. Vì xong sớm quá, phải làm đơn xin châm chước để được bắt đầu viết luận án, thay vì ngồi chờ cho đến hết năm thứ ba, như qui định. Hè 1988, chàng được PSU, qua Claudine, mời dạy một lớp Văn chương Pháp cho sinh viên BA, như một giáo sư thỉnh giảng, lương hậu. Hè 1989, được học bổng Gilbert Chinard, Institut Français de Washington, đi Paris, và Grenoble, quê hương của Stendhal (tác giả mà chàng chọn viết cho luận án), để sinh hoạt với Stendhal Club, viếng thăm ngôi nhà cũ và nghiên cứu những bản văn viết tay của văn sĩ. Đồng thời, tu nghiệp ba tháng Sư phạm tại Đại Học Grenoble, tức Stendhal III, ăn ở ngay trong cư xá trường. Dư thời gian, chàng chuẩn bị luận án rất kỹ, tìm tài liệu đầy đủ cũng như soạn dàn bài tỉ mỉ. Trên nguyên tắc, tất cả luận án phải viết bằng tiếng Anh. Chàng lại phải làm đơn, lần này, cũng như các bạn đồng môn Pháp, xin phép được viết bằng Pháp ngữ.
Cứ xong mỗi 50 trang luận án chàng phải nộp cho bà giáo sư bảo trợ xem, mới được viết tiếp. Bà là người Mỹ, tiến sĩ Pháp từ Stanford, rất khó chịu về văn phong "mới" của chàng với những câu đôi khi chỉ có ba, bốn chữ, mà bà cho là sai văn phạm và bắt phải có đầy đủ chủ từ, động từ, túc từ như trong câu tiếng Anh. Lúc ấy, chàng "khổ" lắm, nhưng không có sự chọn lựa. Sau này, khi đưa luận án cho giáo sư Victor del Litto, Hội trưởng Stendhal Club, xem và in, chàng sửa lại, cho đúng lối văn Tây.
Vừa xong 250 trang thì nghỉ hè. Chàng trả phòng, chất hết đồ đạc lên xe, đi Portland, và được gia đình Yên Hà mời đến ở free dưới basement, rất mát mẻ và yên tĩnh, để đánh máy tiếp. Buổi trưa chàng kiếm gì ăn qua loa, buổi tối chị Mai đem cơm hộp từ tiệm về cho. Ngày tháng trôi đi, khá êm đềm, như dòng sông nhỏ. Ba tháng sau, trở lại Eugene, luận án, có tựa La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal (Tù ngục trong tiểu thuyết của Stendhal), hoàn tất, dày 500 trang. Sửa chữa xong, đưa hết cho bà bảo trợ. Bà hiệu đính mấy điểm, bắt bẻ vài điều, rồi đồng ý cho trình vào đầu Fall 90. Với điều kiện, ba tuần trước đó, chàng phải đậu phần thi "nghị luận tổng quát" (comprehensive exam), kéo dài ba ngày, gồm những bài luận về văn chương, phê bình học, và bình giảng một đoạn văn, làm ngay trong lớp. Buổi trình luận án diễn ra trước Ban Giám Khảo gồm năm giáo sư trong và ngoài Khoa, và rất đông sinh viên. Dương Xuân Kính cũng có mặt. Nguyễn đậu với lời khen của Ban Giám Khảo. Hết học, nhưng phải ở lại UO dạy cho xong niên khóa. Cùng lúc, Kính cũng cho biết anh đã tốt nghiệp bằng MPA (Cao Học Hành Chánh Công Quyền), sau bốn năm vừa đi làm, vừa đi học tại PSU –do City đề cử và tài trợ vì nhu cầu công vụ. Cả hai cùng mừng cho nhau, cùng vui như ngày Tết.
5. Cheney, còn buồn nào hơn
Lãnh bằng rồi, chàng thấy hả hê, và tự ái thỏa mãn vì đã xây lại cuộc đời đẹp hơn mơ ước. Rồi ngày vui qua mau. Dần dần, Nguyễn nghiệm ra rằng bằng tiến sĩ, ngoài giá trị cao nhất, không thể phủ nhận, của học vấn và kiến thức về một bộ môn, cũng chỉ là một phương tiện, hay điều kiện, mưu sinh cần thiết trong một xã hội đặt nặng nhu cầu thực tiễn. Chưa kể, chàng nghĩ thêm, bằng tiến sĩ văn chương Pháp của chàng có thể chỉ là một danh hư, vì đối với người Mỹ ưa chuộng thực dụng, phát minh và sáng chế được những điều hữu ích cho con người mới xứng đáng được đời xưng tụng. Kìa như Bill Gates, hay Steve Jobs, là những nhân tài mà cả thế giới mang ơn, ngưỡng mộ, nhưng không có bằng cấp cao, vì bỏ học.
Dù vậy, trước khi tốt nghiệp, theo truyền thống, chàng đã gửi đơn xin dạy tại các trường đại học trên toàn quốc và được Lewis and Clark College, Portland, và Eastern Washington University, Cheney, chọn cho vào phỏng vấn chung kết và nhận dạy. Được thế là may lắm rồi, bởi vì nhiều khi các đại học Mỹ đều có ứng cử viên "nằm vùng" sẵn trong trường, người ngoài khó lọt vào, có nghĩa, thông báo cho toàn quốc, phỏng vấn chỉ là thủ tục bắt buộc bởi luật pháp. Suy nghĩ mãi, chàng chọn Cheney, miền đất lạ.
Cuối hè 1991, trên đường đi nhận nhiệm sở, ngang Salem, chàng ghé bệnh viện, xin gặp ông bác sĩ cũ. Ông không nhận ra ai. Lúc này, tiếng Anh của chàng lưu loát và đúng giọng hơn, và tuổi đã cao. Chàng kể lại chuyện xưa và tiếng cười mà chàng cho là nhạo báng của ông sáu năm trước. Ông từ từ nhớ lại, và bảo “sorry tôi đã vô ý gây buồn phiền cho anh”. Chàng đưa ông xem bằng Ph.D và lá thư trường EWU “mời” dạy. Ông bắt tay chàng, thành thật chúc mừng. Tự nhiên bao nhiêu bực tức, cay đắng dồn nén bấy lâu bỗng tan thành mây khói. Lòng lắng xuống, chàng xúc động nói: “Không, tôi ghé đây để thăm ông, và nhắc chuyện cũ cũng chỉ để cám ơn ông đã vì câu nói, tiếng cười vô tình khuyến khích tôi đi học lại và mới được có ngày hôm nay.” Hai người ôm hug nhau, cùng cười vang.
Nguyễn ở lại Portland hai bữa để từ giã ân nhân, bạn bè. Phải mất gần một ngày mới đến Spokane bởi không quen đường, lạc vài freeway. Nghỉ khỏe, hai hôm sau mới tới “làng đại học” Cheney, buồn hắt hiu, cách thành phố Spokane 15 dặm. Vào trường trình diện và được chỉ định mỗi ngày dạy hai lớp Pháp văn và một lớp Latin. Ai cũng niềm nở, trừ Trưởng khoa Modern Languages, xếp trực tiếp của chàng, Mỹ trắng, nhưng cổ đỏ (red neck, kỳ thị), rất lạnh nhạt. Một bố già đồng nghiệp, gốc Hòa Lan, lắm chuyện, rỉ tai mách rằng, trưởng khoa là người duy nhất đã bỏ phiếu không mướn chàng trong lần phỏng vấn chung kết: “Anh ta ghét người Việt Nam, vì có em tử trận tại Việt Nam”. Điều này chính gã, không hiểu sao, cũng nói thẳng thừng với chàng khi lần đầu chàng đến chào xã giao tại văn phòng. Chàng đề phòng gã từ đó. Dạy chăm chỉ và cẩn thận để tránh sai sót. Tự nhủ: “Chưa chi mà đã gặp rắc rối!”. Cuối Winter 92, rắc rối xảy ra thật. Số là một hôm, gã vào văn phòng Nguyễn, chìa ra tờ phiếu điểm cuối term của một lớp Pháp văn, trong đó chàng đã cho một nam sinh viên một con F to tướng. Chàng giải thích, sinh viên này không bao giờ vào lớp, và bỏ trống bàitest. Gã nói: “Nhưng anh ta là cầu thủ football của trường, và mỗi năm đội bóng đem về cho trường cả triệu đô. Anh liệu có thể sửa lại điểm F thành C được không?” Dĩ nhiên, Nguyễn có thể làm theo yêu cầu, dễ dàng, mà chả ai biết. Nhưng bất thần sực nhớ lại việc gã bỏ phiếu chống chàng và tuyên bố ghét người Việt Nam, chàng dứt khoát từ chối –điều mà bây giờ chàng vẫn tự hỏi mình đã làm đúng không, về mặt chính trị, hiểu theo nghĩa rộng: “Sorry, tôi không sửa. Nếu ông muốn sửa, ông có thể tự tay sửa lấy trước mặt tôi, và ký tên ông vào!” Biết trên đời không ai có cái quyền ấy, ngoài chàng, gã đứng lên, giận dữ bỏ đi, đóng sầm cửa. Sau đó chơi đòn thù: phê điểm chàng rất xấu, nào là bắt sinh viên học quá mức, quá khó, không đúng đường lối của trường, nào là thiên vị, không quan tâm đến những sinh viên học kém… Gã cẩn thận dùng chữ “cảm nhận” (perception, I have the perception that...), để khỏi nêu ra bằng chứng cụ thể. Mặc dù thế, chiến tranh lạnh đã bắt đầu, mà chàng biết “kẻ thắng cuộc” sẽ không phải là chàng.
6. Paris, thà một phút huy hoàng
Cũng trong thời gian này, Nguyễn được Rotary Club khu hội Antony, mà Hội trưởng là bạn của Claudine, mời đến Paris, mùa hè 1991, thuyết trình về “Tù ngục tại Việt Nam”. Rồi ngày 21-22 tháng 3, 1992, nhân cuộc hội thảo tưởng niệm năm thứ 150 ngày mất của Stendhal, và nhờ luận án về văn sĩ này,
Tổng thống Mitterrand (giữa) chủ tọa buổi hội thảo, đang chăm chú nghe
chàng được Mairie de Paris và Stendhal Club mời qua Paris, như đại diện duy nhất giáo sư đại học Mỹ, để thuyết trình cùng với 23 giáo sư trên thế giới, gồm vài nhà văn, giáo sư nổi tiếng Sorbonne Michel Crouzet và ông hàn lâm Jacques Laurent. Buổi hội thảo được đặt dưới sự chủ tọa của Tổng thống François Mitterrand. Chàng được ông bắt tay, khen ngợi và thăm hỏi ân cần. Bài thuyết trình của chàng được in thành sách, bên cạnh bài của những giáo sư khác, bày bán tại Paris. Nếu vinh dự có thật, thì đây mới là vinh dự bất ngờ, mà Nguyễn xem như tột đỉnh của đời chàng –một tù nhân cải tạo, một thuyền nhân, một tỵ nạn viên mà cuộc đời ngày nào còn phủ đầy bất hạnh. Vinh dự hơn cả ngày được nhận bằng tiến sĩ. Luận án của chàng được nhà xuất bản Droz nổi tiếng tại Genève nhận in, do Stendhal Club giới thiệu. Thà một phút huy hoàng… như trong thơ Xuân Diệu, sau bao nhiêu tăm tối, khổ lụy, ê chề, cay đắng, kể từ ngày nước mất nhà tan, 30/4/1975.
Nguyễn trên bàn thuyết trình
Trở về Cheney sau buổi hội thảo Paris, mặc dù có sự ủng hộ và thương mến của sinh viên, rất hãnh diện về sự hiện diện và bài thuyết trình của chàng tại Paris, Nguyễn nộp đơn từ chức. Để đi tìm một mảnh không gian khoáng đãng và thân thiện hơn.
Về lại Oregon, qua ngã San José, Nguyễn được Trần Văn Phước, lúc ấy là Hội trưởng Hội Ái Hữu cựu SVSQ/CTCT/ĐL, mời đến nhà, ở Beaverton, tá túc. Phước là nhân viên bưu điện. Hai vợ chồng anh chị đối đãi rất tử tế với bằng hữu, và riêng chàng. Sau một tuần, chàng mướn được một căn phòng tại SE Portland. Đến Lewis and Clark College, để hỏi cầu may, có còn “chỗ cũ” cho chàng không. Họ lắc đầu, dĩ nhiên! Đến PSU hỏi Claudine, không có chỗ trống, vì những giáo sư già cổ thụ không chịu về hưu. Trong lúc ấy, chàng phải kiếm sống. Tiền để dành trong saving cạn sạch, không thể ngồi chờ trúng số. Hai mươi ngày sau, đọc báo, Phước mách tin quận Multnomah tuyển nhân viên văn phòng. Chàng nộp đơn, kèm theo thư giới thiệu của Kính trong tư cách Trưởng Phòng Điều Hợp Tỵ Nạn. Được County mướn, sau một cuộc thi tuyển không dễ, và lời cam kết, hơi lạ, phải làm việc ít nhất là một năm, để chàng không “đứng núi này trông núi nọ” mà bỏ ngang xương, mất công tuyển lại. Lương bổng cao hơn, công việc nhàn hạ hơn, tuổi đời nhiều hơn, môi trường làm việc dễ thở hơn, và vì thấy cần phải ổn định cuộc sống, không thể lông bông mãi, chàng nhận Portland làm quê hương, yêu thích công việc “trật nghề” này. Chàng không nghĩ có cơ hội được đi dạy lại, và mặc dù, vài năm sau, nhiều trường khắp nước, có cả PSU, đăng báo tuyển giáo sư, chàng không màng nộp đơn, vì không muốn bắt đầu lại từ đầu, mệt quá! Trễ rồi, chàng tự bảo. Ở lại với County cho đến ngày về hưu, năm 2009. Trong mười sáu năm ấy, có thì giờ hơn, chàng vừa làm việc, vừa nghiên cứu văn chương, vừa tham gia sinh hoạt cộng đồng và chính trị, vừa gửi bài cho các báo Mỹ, viết cho tờ Bản Tin của Kính, rồi Oregon Thời Báo. Đặc biệt, chàng bắt đầu viết những bài chống Cộng, dù là chống “bằng mồm”, nảy lửa, không khoan nhượng, từ khi VC gian manh tung ra Nghị quyết 36, lừa bịp và ru ngủ đồng bào tỵ nạn bằng chiêu bài giả hiệu “hòa hợp hòa giải dân tộc”, “xóa bỏ hận thù”, gây chia rẽ trong các cộng đồng. Lúc nào chàng cũng mơ một ngày loài Cộng Phỉ bị tiêu diệt để đất nước có tự do, dân chủ, và đồng bào tỵ nạn được trở về cố hương trong chiến thắng, và chàng tin điều đó mới là vinh quang thật. Bao nhiêu buồn vui đã xảy ra. Bao nhiêu bạn bè mới, ân nhân mới. Và kẻ thù mới, dĩ nhiên. Nhưng đó là chuyện khác.
7. Lời hẹn cho nhau
Tại sao có bài “hồi ký” rất cá nhân này –có thể bị cho là khoe mẽ? Thực ra, Nguyễn muốn gửi cho con cháu, để chúng biết, và hãnh diện, về cha ông đã sống và phấn đấu như thế nào. Quan trọng hơn, trong khi viết về “cái tôi đáng ghét”, chàng cũng đã đề cập đến nhiều người khác nữa. Tất cả người thương, cũng như kẻ ghét, đã đi qua đời chàng, trong chặng đầu của ba mươi năm ấy, như bóng mây lãng đãng trên đầu non, còn vương vất mãi. Như niềm vui và nỗi buồn. Không có họ, đời chàng đã vô nghĩa, vô vị, trống rỗng. Viết, để cám ơn tất cả. Cám ơn những kẻ ghét đã cho chàng hiểu thế nào là kiêu hãnh, là tự ái, là nghị lực vươn lên làm lại cuộc đời trong nghịch cảnh. Và, trên hết, viết để tỏ bày công khai và trọn vẹn tấm lòng biết ơn vô hạn đối với những người thương, những tấm lòng vàng đã ít nhiều, bằng cách này hay cách nọ, vực chàng lên từ gian truân và tủi nhục. Viết để minh chứng rằng không có con đường thênh thang hoa gấm nào dành cho những bước chân dẫn đến thành đạt. Cũng như không có tự do nào mà không trả bằng giá thương đau. Hay không có tình yêu nào mà không sống bằng lệ khóc, như câu thơ của Aragon.
Chuyện về một nửa đời kia, Nguyễn xin hẹn kể tiếp, mười năm nữa, cho số báo Xuân kỷ niệm năm mươi năm tỵ nạn, trong kiếp này. Hoặc, biết đâu, kiếp sau, từ bên kia đời xa lắc.
Portland, 20/1/2015
Kim Thanh
No comments:
Post a Comment