USAID-CORDS và Phoenix
CORDS và Phoenix là những liên hệ được xem là rất ‘’bí mật’ và có nhiều mâu thuẫn trong Chính sách ‘chiến tranh’ tâm lý của USAID, ngay từ khi được thành lập và hoạt động ‘thử nghiệm’ tại Nam Việt Nam. USAID có nhiều Chương trình “Dân sự” nhưng cũng có có nhiều “Kế hoạch” Tình báo quân sự.. trong Chiến lược “Chống Chiến tranh Nội dậy’ của Hoa Kỳ..
Bài này chú trọng đến CORDS và Kế hoạch Phượng Hoàng, dựa theo tài liệu của Dale Andrade và Trung Tá hồi hưu James Wilbank, phổ bién trên Military Review- Match-April 2006..
Tại Việt Nam, Quân đội Mỹ đã phải đứng trước một tình thế rất phức tạp, nguy hiểm của một cuộc chiến tranh nổi dậy, chưa từng xảy ra trong quân sử ? Địch quân không phải là một đám quân ‘ô hợp’, lang thang trong rừng, nhưng là một tổ chức phối hợp giữa du kích, cán bộ chính trị và các đơn vị chính quy trang bị hiện đại (do quân viện không giới hạn, từ Khối CS), có khả năng đối đầu cùng lực lượng quân đội Mỹ !.. Ba thành phần nêu trên, nếu riêng rẽ, sẽ không đáng quan ngại nhưng khi phối hợp thì lại là một nguy cơ đáng sợ.
Khi Mỹ can thiệp trực tiếp vào VN năm 1965, lực lượng Cộng sản được ước tính khoảng 300 ngàn người gồm quân du kích và cán bộ, trong đó VC và quân chính quy CSBV khoảng 200 ngàn, nhưng con số này lên đến trên 685 ngàn khi CS chiến thắng năm 1975. Các đơn vị CS đã tổ chức thành các cấp Trung đoàn và Sư đoàn. Từ 1965 đến 1968, CDBV chú tâm vào các trận tấn công quy ước, hơn là quấy rối kiểu du kích. Trong chiến tranh VN, CSBV đã tung ra 3 cuộc Tổng tấn công chính : Mậu thân 1968; Hè 1972 và sau cùng là 1975..Cả ba cuộc tổng tấn công này đều theo đúng các ‘bài bản’ hành quân ! bên cạnh đó có sự phối hợp của Lực lượng nổi dậy (về mặt chính trị)
Tướng Westmoreland, Tổng tư lệnh các Lực lượng Mỹ tại VN (Military Assistance VietNam (MACV) biết rõ vấn đè VNCH đang phải đứng trước nguy cơ hai mặt này và quyết định là phải giải quyết ngay về vấn đề quân sự..Ông đưa ra hình ảnh ‘ngôi nhà’ VNCH đang bị một đám côn đồ dùng búa đập phá (quân sự), bên cạnh đó là đám mối-mọt (du kích và cán bộ Đảng CS) cũng đang gặm nhấm nền móng của ngôi nhà.. nhưng mối mọt chưa làm sụp ngay ! Việc đầu tiên là chặn các tên côn đồ, và sau đó sẽ lo trừ mối mọt..
Chiến thuật của Westmoreland là đuổi theo địch quân và bắt họ phải chấp nhận ‘đánh’ hay ‘chạy’ (kế hoạch”lùng và diệt”), hoạt động khẩn cấp để cứu Nam VN không bị sụp đổ ngay, đẩy lực lượng CSBV khỏi các khu vực dân cư, không cho địch quân có thế chủ động..
VNCH được tạm ổn trong thời gian ngắn (các nhà viết sử CSBV đã phải chấp nhận là sự can thiệp của Mỹ đã làm đảo lộn kế hoạch ‘giải phóng miền Nam’ của họ). Nhưng vì lực lượng quân đội Mỹ tại VN, không đủ quân số để gia tăng hoàn toàn áp lực đối với quân CSBV , nên đành chấp nhận một tình trạng bế tắc. CSBV tiếp tục đưa quân chính quy xâm nhập qua các ngõ Laos và Campuchia, sau đó chia quân thành những đơn vị nhỏ, tránh các cuộc đung độ với quân Mỹ (khi tình trạng chiến trường không có lợi cho họ)
Cộng quân, tiếp tục củng cố lực lượng vũ trang và tung ra Trận Tổng Công Kích Mậu Thân 1968, chứng tỏ được rõ ràng Quận Mỹ không giữ được ‘thế chủ động’ về quân sự trên chiến trường. Cuộc Tấn công 1968 là một thất bại về quân sự khi CS bị thiệt hại trên 50 quân, gồm chính quy và du kích, cán bộ địa phương, nhưng lại là một thắng lợi chính trị cho CS, chứng tỏ họ có khả năng tập trung và tấn công, bất chấp mọi hành động của Quân đội Mỹ ?..
Bình định hóa, hay Chống chiến tranh nổi dậy, buộc phải đối phó với cả hai mặt của cuộc chiến Việt Nam :đối phó với lực lượng chính quy CSBV và với sự có mặt thường xuyên của lực lượng du kích tại vùng nông thôn..
Các kế hoạch hành quân của MACV trong hai năm đầu tại Nam VN cho thấy Bình định hóa cũng quan trọng như Chiến trường, nhưng các sự kiện diễn ra tại chiến trường đã khiến các kế hoạch bình định phải chậm lại.
Ngay từ 1966, Westmoreland đã nhận định là ‘Cuộc chiến VN không thể chỉ giải quyết tại chiến trường?”. Nhưng Tướng Westmoreland, do tình thế bắt buộc, đã phải chọn chiến trường lảm mục tiêu chính..
Sau Trận Tổng công kích 1968, Quân CS chịu nhiều tổn thất nhân sư (quân và cán bộ), nên phải tạm lui để tái rổ chức; tạo một cơ hội để Mỹ và VNCH có thể chú tâm vào chương trình “Bình định hóa”.
Khi Quân đội Mỹ tham chiến năm 1965, họ chống đỡ CSBV đang tấn công, nhưng đến tháng 6-1968, Tướng Creighton Abrams (thay thế Westmoreland) làm Tổng Tư lệnh MACV tại VN , thì địch quân đang.. đứng treo trên dây ! Abrams với lợi thế đã chú tâm vào các vùng nông thôn, nơi CSBV đã từng làm chủ ?
Việc thay đổi kế hoạch của Mỹ cùng với các thiệt hại nặng của quân CS (cần tái tổ chức) đã khiến CSBV cũng phải thay đổi chiến thuật theo (Nghị quyết 9 của Trung Ương cục Miền Nam=COSVN 9), để tập trung đối phó với một trận chiến mới : Bình định hóa’ !, Cộng quân trở lại với chiến tranh du kích..
Từ cuối năm 1968 đến 1971, cuộc chiến “Thu phục Nhân tâm” diễn ra giữa VNCH (do Mỹ yểm trợ) và CSBV, diễn ra một cách toàn diện..
Những vấn đề căn bản về Chống Chiến tranh nổi dậy :
Chiến tranh nổi dậy (insurgency) là những vấn đề rất phức tạp, không thể đưa ra một định nghĩa, một diễn biến có được một.. ‘mẫu số chung’!
Chiến thuật ‘chống nổi dậy’ sẽ tùy thuộc vào cách tổ chức và cách thức hành động. Địch quân không ‘bất động’ chờ đợi và mỗi giai đoạn đối đầu lúc diễn ra, đều thay đổi khác nhau. Tuy nhiên, sau khi để sang một bên, một số yếu tố căn bản , thì có thể chống chiến tranh nội dậy bằng cách chú trọng vào một số một trọng điểm..Lực lượng an ninh cần phải được sửa soạn để dùng sức mạnh quân sự ngăn cản quân nổi dậy ‘trà trộn’ vào dân chúng. Các cuộc hành quân mở rộng của Quân đội Mỹ, trong những năm 1965-1966 đã ngăn chặn được quân CSBV mưu tìm một chiến thắng quân sự nhanh chóng, đẩy các lực lượng chính quy CSBV xâm nhập trở lại vùng rừng, mật khu hẻo lánh, giúp VNCH có được thời gian cần thiết để có thể nghĩ đến việc bình định vùng nông thôn…
Lực lượng của Chính quyền cần đặt mục tiêu vào việc ngân ngừa ‘quân nổi dậy’ có thể trà trộn sống chung với dân và hoạt động tự do trong các vùng dân cư nông thôn..Quân nổi dậy, khi kiểm soát được vùng nông thôn sẽ lập ra các cấu trúc hành chánh ‘bí mật’, để ‘cai trị’ những vùng không có sự hiện diện của Chính quyền quốc gia! ! Chính quyền ’bí mật’ này .. là căn bản hiện hữu của quân nổi dậy!.. Muốn đạt được Chiến thắng chiến tranh nổi dậy là phải chiến thắng tại vùng nông thôn !
Để ‘bình định’ Chính phủ cần phải có những kế hoạch và chương trình “lấy lòng dân”, cải thiện đời sống nông thôn..như cải cách điền địa, cải thiện y tế, giáo dục và trợ giúp nông nghiệp..Muốn chiến thắng trong cuộc chiến tranh ‘chống nổi dậy’, phía cầm quyền cần phối hợp mọi hoạt động, chú trọng thật nhiều vào việc phá hủy các cơ cấu hạ tầng của quân nổi dậy..
Nền móng để thành công trong vấn đề ‘Bình định hóa’
Trong những năm đầu của Thập niên 1960s, vai trò của các cố vấn Mỹ tại Việt Nam là nhằm vào việc giải tỏa các áp lực của CS tại vùng nông thôn. Phương án này thất bại do nhiều lý do, nhưng lý do quan trọng nhất là Chính phủ VNCH không kiểm soát nổi tình trạng an ninh tại hàng ngàn xã ấp trong lãnh thổ ! Đây lại là lý do chính để Mỹ đưa quân vào VN và sau đó phải trực tiếp tham chiến ! (quân số Mỹ tại VN năm 1964 là 23,300 và năm 1965 lên đến 184,300). Sự gia tăng quân số quá nhanh này đã gây ra những đối nghịch ngay trong giới quân sự và giới dân sự của Phái bộ Viện trợ Mỹ tại VN. Vấn đề ‘bình định’ bị đưa vào vị trí thứ yếu !
Trong thời gian đầu 1965 : ‘Chương trình Bình định của Mỹ tại VN do nhiều Cơ quan dân sự chịu trách nhiệm như CIA, USAID, USIS (US Information Service) và Bộ Ngoại Giao (US Department of State) là quan trọng nhất. Mỗi Cơ quan đều có những chương trình, kế hoạch riêng, và việc phối hợp là do Tòa Đại Sứ Mỹ tại VNCH.
Về phần giới quân sự, sự gia tăng quân số đi kèm với sự sư gia tăng con số các cố vấn quân sự phân phối đến nhiều địa phương: Đến đầu năm 1965, tại 44 tỉnh và phần lớn tại 243 quận trong lãnh thổ VNCH đều có các toán cố vấn quân sự Mỹ.
Việc gia tăng hoạt động của các cố vấn quân sự tạo những khó khăn, đụng chạm trong các hoạt động bình định dân sự vì không có sự phối hợp giữa các nhóm, tại các địa phương cùng hoạt động?
Mùa Xuân 1966, Chính quyền của TT Johnson quay sang chú trọng hơn đến vấn đề bình định. Các cuộc thanh tra và nghiên cứu tại chỗ của các giới chức Mỹ, từ Washington gửi sang, tìm thấy là hoàn toàn không có sự phối hợp giữa các Tổ chức dân sự và đòi hỏi cần có một sự thay đổi toàn diện. Johnson rất chú tâm vào vấn đề bình định, và Văn phòng TT đang cố tìm ra một phương thức để điều hành cuộc chiến tại VN.
Đại sứ Mỹ tại VNCH, Cabot Lodge nhận lệnh ‘viết tay’ của Johnson, giao toàn quyền điều hành mọi hoạt động ‘cố vấn’ tại VN, cho phép áp dụng mọi biện pháp cần thiết tại chỗ.. không cần chờ xin lệnh của Washington !
Westmoreland cộng tác.. nhưng các đụng độ, bất đồng ý kiến giữa quân đội (Mỷ) và dân sự (Mỹ) vẫn tiếp tục.
Tháng 11-1965, trong một chuyến viếng thăm và quan sát tại VNCH, Bộ trưởng QP McNamara đá trực tiếp đòi Westmoreland cho biết .. một khu vực ‘nào’ mà Ông ta cho là đã được bình định .. hoàn toàn ?
Trước câu hỏi không được trả lời, của McNamara, Tháng Giêng 1966, tại Virginia đã có cuộc Họp của tất cả mọi Tổ chức Chính quyền tại Mỹ có liên hệ đến các hoạt động tại VN, cùng với đại diện của các tổ chức Mỹ (liên hệ), đang hoạt động tại Saigon, để cùng bàn thảo, cùng duyệt xét tình hình. Tổng kết nhận định là nếu chỉ tùy thuộc vào Tòa Đại sứ và MACV.. sẽ không đạt được kết quả ! , nhu cầu là cần có một cơ cấu chỉ huy chung phối hợp quân và dân sự.. chuyên lo về bình định ?
Tuy TT Johnson không hài lòng về tiến trình bình định tại VN, Tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon vẫn tiếp tục trì hoãn, chống lại các thay đổi đang muốn tách Chương trình Bình định ra khỏi thẩm quyền của Tòa Đại sứ..
Tháng 2-1966, tại Honolulu, TT Johnson đã triệu tập và hội kiến với các Tướng Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ (đang lãnh đạo Chính phủ Quân nhân tại Saigon). Johnson áp đặt kế hoạch chỉ định Quân đội VNCH lãnh trách nhiệm an ninh lãnh thổ, Quân đội Mỹ tại VN tập trung vào việc tìm và diệt các đơn vị chính quy CSBV xâm nhập từ miền Bắc vào lãnh thổ VNCH. Johnson cũng đòi hỏi sự phối hợp tốt hơn giữa các Cơ quan, Tổ chức của Mỹ tại VNCH và đặt ra một Cơ cấu chỉ huy ‘tối cao’ chung, giao cho một người Tổng chỉ huy. Tháng 4, Johnson bổ nhiệm, một Trợ tá của Ông, Robert Komer, đang là một viên chức tín cẩn của ông trong Hội Đồng An ninh Quốc Gia (National Security Council) làm Người phụ trách toàn quyền, soạn thảo kế hoạch bình định VNCH. Đặc lệnh do chính TT Johnson viết tay, cho phép Komer gặp TT bất cứ lúc nào, và có thẩm quyền sa thải tại chỗ, những người chống đối lại lệnh của Komer..
Nhanh chóng bắt tay vào việc, Komer đã thảo ra bản kế hoạch “Giving a New Thrust to Pacification’ (Thúc đẩy mới cho chương trình Bình định) : Analysis, Concept and Management” . Trong bản Kế hoạch này, Komer đã đưa ra 3 phần cần thi hành :
Phần 1 : An ninh : Lực lượng quân sự cần được tách khỏi các khu vực dân cư.
Phần 2: Phá vỡ các liên hệ giữa CS với dân, bằng các chương trình tiêu diệt các cơ sở hạ tầng của CS và thu phục nhân tâm.
Phần 3 : Hoạt động toàn diện để thực hiện Chủ trương của TT Johnson, mong sẽ có sự ủng hộ của dân Mỹ cho cuộc chiến tại VN.
Komer gặp sư chống đối của Westmoreland do cạnh tranh quyền lực! :Với Westmoreland, chương trình bình định vẫn phải do Phe quân sư điều hành, công việc của giới dân sự sẽ chỉ là phụ thuộc ..
Komer đã vận động riêng với McNamara. Các đấu tranh ‘nội bộ’ Mỹ về việc điều hành Chương trình Bình định tại VN, có quá nhiều mâu thuẫn, tranh giành quyền hạn.. Muốn thành hình cần đòi hỏi những nhượng bộ miễn cưỡng, của các Cơ quan liên hệ, kể cả Bộ QP, Bộ Ngoại Giao, Ngũ giác Đài..
Vào tháng 11-1966, Cơ quan mới Office of Civil Operations= OCO (Văn Phòng Hoạt động Dân sự) được thành hình. do Phó Đại sứ Mỹ tại VNCH William Porter chịu trách nhiệm. OCO phối hợp tất cả các Cơ quan Dân sự (của Chính quyền Mỹ tại VN) dưới một hệ thống chỉ huy độc nhất, nhưng vẫn không đưa được giới quân sự vào hệ thống này !..OCO thất bại ngay từ khi thành lập! vì không có gì khác với các cách thức hoạt động đang theo, và hai bên quân và dân sự đều có các hệ thống chỉ huy độc lập và khác hẳn nhau.
Tháng 6-1966, Komer đến VN, quan sát tại chỗ, đánh giá tình hình, khuyến cáo : Tòa Đại sứ Mỹ cần cải thiện lại tổ chức của chính mình..Komer gặp Westmoreland bàn thảo và thỏa hiệp..Theo Komer (trong phúc trình riêng với Johnson) thì vấn đè trục trặc không do Westmoreland, nhưng do các người đứng đầu các Cơ quan Dân sự Mỹ đang hoạt động tại VN.. là những nguồn gốc chống đối và phá đám..
Thành lập CORDS :
Tháng 3, 1967, TT Johnson triệu tập một buổi họp tại Guam và nói rõ là kế hoạch OCO bị hủy bỏ và kế hoạch mới của Komer về thống nhất chỉ huy sẽ được thi hành. Hai tháng sau, ngày 9 tháng 5, 1967 qua National Security Action Memorandum số 362 Cơ quan Civil Operations And Revolutionary Development Support hay CORDS được thành lập, chịu trách nhiệm về Kế hoạch Bình định và Phát triển tại VNCH.
Kế hoạch giao nhiệm vụ rõ rệt cho Phe Quân đội điều hành chương trình bình định.
Theo Sơ đồ Tổ chức, Chỉ huy trưởng MACV, Tướng Westmoreland sẽ có 3 Phụ tá :Một Phụ tá Dân sư, có cấp bậc tương đương với một Tướng 3 sao, phụ trách Chương trình Bình định, và sẽ chỉ có một Hệ thống chỉ huy duy nhất. Komer lãnh vai trò này.
Phụ tá quân sự MACV, do Tướng Abrams đảm nhận
(Phụ tá Hành quân Không Quân, tách riêng làm thành phần trách nhiệm của MACV)
Dưới 2 vị Phụ tá, có các ban, ngành dân sự, đưa vào tổ chức theo một hệ thống quân giai, kể cả một Phụ tá giữ vai trò ‘Tham mưu trưởng cho CORDS, cũng được xếp theo hệ thống quân giai. Đây là lần đầu tiên các nhân viên dân sự làm việc theo một hệ thống chỉ huy kiểu quân sư, chia thành các ban, tiểu ban như một Đại đơn vị quân đội. Tuy là nhân viên dân sự, nhưng vẫn có quyền điều hành các quân nhân và sử dụng các phương tiện quân sự khi cần thiết..
Tuy có cơ cấu tổ chức rõ rệt, nhưng khi thi hành vẫn có những trục trặc cá nhân giữa Komer và Westmoreland ! Komer vẫn có thể đi thẳng với Tòa Bạch Ốc, không qua hệ thống chỉ huy, nghĩa là không cần qua Westmoreland..Quyền hạn của các ‘Cố vấn dân sự’ có khi vượt qua các cố vấn quân sự !
Tất cả các chương trình bình định được đặt dưới sự chỉ đạo của CORDS.
Từ USAID, nay CORDS kiểm soát mọi hoạt động “Phát triển Đời sống Mới” (New Life Development), Dân tị nạn chiến cuộc, Cảnh sát Quốc gia và cà Chương trình Chiêu Hồi..
Các Tổ chức “Cán bộ tình báo’ phát triển nông thôn của CIA’, Tổ chức ‘dân vận’ và ‘dân sinh’ của MACV ; Hoạt động Thông tin tuyên truyền, tâm lý chiến của JUSPAO (Joint US Public Affairs Office) đều dưới sự kiểm soát của CORDS. CORDs củng giữ trách nhiệm nhận các báo cáo hoạt động, thành quả, đánh giá sự hữu hiệu và thanh tra tại chỗ các hoạt động của các Tổ chức liên hệ dưới quyền này..
Tổ chức của CORDS :
Theo tổ chức hành chính của VNCH, CORDS cũng được tỗ chức theo Vùng (Chiến Thuật), và cũng có sơ đồ tổ chức dựa theo tổ chức của CORDS tại Bộ Chỉ Huy MACV.Cố vấn Quân sự Mỹ, cấp Vùng (Military Senior Adviser), thường là một Tướng Ba sao, cũng giữ vai trò Chỉ huy toàn bộ Lực lượng quân đội Mỹ trú đóng và hoạt động trong Vùng, Ông có một Phụ tá về CORDS (DepCORDS), là một nhân viên dân sự. Ông DepCORDS này chịu trách nhiệm chỉ đạo các hoạt động dân và quân để yểm trợ cho Chương trình Bình định của Chính quyền VNCH.
Các toán Cố vấn tại mỗi Tỉnh (trong mỗi Vùng Chiến Thuật) có trách nhiệm báo cáo trực tiếp lên DepCORDS tại mỗi Vùng. Tỉnh trưởng của 44 Tỉnh của VNCH đều là những Sĩ quan Quân đội..Tỉnh trưởng điều hành Bộ máy hành chính Tỉnh và Chỉ huy lực lượng Dân quân của Tỉnh như Địa Phương Quân (RF) và Dân vệ (PF).
Cố vấn CORDS trực tiếp giúp Tỉnh Trưởng trong công việc bình định. Đối tác Mỹ với Tỉnh trưởng sẽ là Cố vấn chính cho Tỉnh trưởng về các vấn đề quân sự và dân sự, tùy theo tình hình tại mỗi Tỉnh. Cố vấn Mỹ tại Tình, cùng ban tham mưu của Cố vấn chịu trách nhiệm giúp ý kiến trong mọi hoạt động dân-quân về bình định và phát triển tại địa phương.
Ban tham mưu của Cố vấn tại Tỉnh gồm các nhân viên cả quân lẫn dân sự và chia làm 2 thành phần :Phần thứ nhất chịu trách nhiệm về phát triển, gồm cả y tế công cộng, hành chánh, dân sự vụ, giáo dục, nông nghiệp, chiến tranh tâm lý và tiếp vận.
Phần thứ 2, trách nhiệm về các hoạt động quân sự, giúp Tỉnh trưởng trong việc soạn thảo các kế hoạch và điều hành các cuộc hành quân an ninh của các lực lượng quân sự và an ninh địa phương trong phạm vi của Tỉnh.
Tỉnh trưởng điều hành Tỉnh, qua các Quận trưởng; Cố vấn Tỉnh cũng chỉ huy các Cố vấn Quận. Ban cố vấn Quận có trung bình 8 nhân viên, cũng có nhiệm vụ giúp Quận trưởng trong các công việc phát triển và bình định. Toán Cố vấn Quận (có khi thêm các toán lưu động) giúp huấn luyện các lực lượng ‘bán quân sự’ như dân vệ..) tại Quận
Các cố vấn Tỉnh làm việc chặt chẽ với Tỉnh Trưởng (và bộ máy hành chính Tỉnh), ‘giúp’ ý kiến, trợ giúp và phối hợp các chương trình viện trợ của Mỹ..
CORDS phát triển..
Các kết quả thật sự đã ghi nhận được sự hữu hiệu của CORDS vè các chương trình bình định, (so với các thời gian trước khi có CORDS).
Trong thời gian đầu của 1966, có khoảng 1000 cố vấn CORDS ; đến tháng 9 -1969, con số này tăng lên thành 7600 người, phân phối đến cấp Tỉnh và Quận trên toàn lãnh thổ VNCH, trong số này có 6464 quân nhân (95% là quân nhân bộ binh Mỹ)
Do khả năng có thể cung cấp nhân lực, tài lực và tiếp liệu đến thẳng các Tỉnh-quận nơi có nhu cầu, nên hoạt động của CORDS rất hữu hiệu..
Vài số liệu đáng kể :Từ 1966 đến 1970, ngân khoản chi tiêu trong các Chương trình Bình định và Trợ giúp kinh tế tăng từ 582 triệu USD lên đến 1.5 tỷ USD.
Lực lượng An ninh (Cảnh sát và nhân viên bán quân sự) của VNCH, nhờ trợ giúp CORDS tăng từ 60 ngàn (1967) lên trên 120 ngàn (1971).
Trợ giúp cho RF/PF tăng từ con số khiêm tốn 300 ngàn/năm (1966) lên 1.5 triệu USD/năm (1971); nhờ trợ giúp tài chánh nên lực lượng quân địa phương tăng gần gấp đôi : Đến 1971 VNCH có quân số ‘địa phương quân’ lên đến 500 ngàn (50% tổng số quân của VNCH). Con số cố vấn Mỹ cho lực lược ‘địa phương quân, cũng gia tăng từ 108 (1967) lên thảnh 2243 (1969)
(Xin theo dõi phần tiếp vè các Chương trình Chiêu Hồi, Phượng Hoàng..)
Trần Lý 2-2025
No comments:
Post a Comment