Saturday, August 31, 2019

Chuyện Má Kể

Trương Ngọc Anh 

Chúng tôi có 8 chị em, 7 trai một gái, í không phải, là 7 gái và 1 ông con trai duy nhứt mà mấy chị em tôi đặt là “Cục dzàng” của Ba Má. Ba tôi bị cộng sản thảm sát năm Mậu Thân khói lửa ở Sài Gòn. Năm đó, nhỏ Thúy vừa mới ba tuổi, chưa biết nó là út, còn đeo vú má, nếu không, tôi nghĩ với thời gian 2-3 năm có thêm 1 đứa thì đà “sản xuất” đó chị em tôi còn có ít nhứt chục mười hai. Tội nghiệp nhỏ Út bất đắc dĩ, nó nói: “Em không nhớ mặt Ba, nên em phải coi hình Ba hoài, em thương Ba lắm.”

Nhỏ này giống Ba nhứt.

Năm Ba chết, nhỏ út Thúy mới bi bô nói chuyện, nó thường ganh tị với đứa cháu trai nhỏ, tên Paul là con của chị Hai, mới 1 tuổi thường được Ba ẵm mỗi khi đi làm về, hay đặt ngồi phía trước Ba trên chiếc xe mô-tô phóng vòng quanh cư xá Phú Lâm A, rồi chạy tuốt ra xa cảng Phú Lâm, khu đài ra-da của lính Mỹ gần đó mấy vòng cho mát.

Ba tôi người gốc Triều Châu, Ông Bà Nội và bà con bên Nội đã sinh sống ở Việt Nam mấy đời. Tuy theo Tây phương trong kiến thức học vấn, nhưng vẫn nệ cổ ở chuyện phải có con trai nối dõi tông đường. Tiếc thay, “Cục dzàng” của Ba Má không có con trai, chỉ có 2 cô công chúa xinh đẹp, coi như dòng họ Trương đứt đoạn rồi Ba ơi. Ba ở trên Trời cũng đừng buồn, vì đám cháu chắt và chắt nữa của Ba Má có nhiều con trai lắm, phá dàn trời mây như tiểu Tôn Ngộ Không, tuy không mang họ Trương, nhưng cũng có dòng máu của Ba chảy trong huyết quản.

Má tôi, rất được dòng họ bên chồng tôn trọng và kính nể, vì má đã thờ chồng một lòng chung thủy suốt đời, nuôi 8 đứa con, gánh trên đôi vai gầy guộc biết bao nhiêu là khổ cực trần ai, khi cây cột chánh trong nhà bị gãy ngã.

Đôi khi ngồi buồn buồn, nhớ Má, nhớ Ba, nhớ mấy chị em đang sống ở xa, tôi mở album coi lại hình xưa, nhận ra vào năm 1975, khi Má cùng bầy con 8 đứa, đều được sum hợp ở Mỹ, trong hình Má lúc đó vẫn còn quá trẻ. Ngó lại tuổi xuân của Má mà đau lòng. Năm 75 và sau đó, Má còn sung sức, khoẻ mạnh, nên má làm việc không biết mệt trong một hãng may mền vải, may màn cửa sổ của một công ty ở thành phố Reno, tiểu bang Nevada, và sau này ở thành phố Los Angeles, tiểu bang California.

Trong hãng may ở Reno có ông thợ sửa máy may người Mỹ, to lớn, còn phong độ lắm. Ngày trước 75 ông đã từng là phi công trong Không Quân Hoa Kỳ, đánh giặc ở Việt Nam. Chúng tôi 4 đứa cũng làm việc trong hãng may này, vì cần tiền trang trải những chi phí nhà ở, cơm ăn khi chính phủ Mỹ không có một trợ cấp nào cho người tị nạn cộng sản lúc đó ngoài việc giới thiệu việc làm cho người trưởng thành, giúp đỡ thủ tục cho đám em nhỏ trở lại trường học, cho nên, phận tôi, đang là cô sinh viên trường Luật tràn trề mơ ước, trở thành cô thợ may và may rất giỏi như Má. Thuở đó, tiền lương giờ rất thấp, tôi nhớ đâu chỉ hơn 1 đô la mỗi giờ làm việc. Nhưng có thêm giờ làm ngày cuối tuần, giờ phụ trội, nếu chịu khó, và may giỏi (trả tiền thêm theo số lượng mình may nhiều hơn số căn bản) nên cũng kiếm được kha khá, tuy cảm thấy rất buồn vì không có cơ hội đi học lại.

Trở lại chuyện ông thợ sửa máy. Mấy chị em để ý, ổng hay xách thùng đồ nghề, rề rà gần chỗ má làm việc. Mới đầu tưởng máy may của Má bị hư, sau mới biết ổng rề rề theo Má vì lý do khác. Tụi tôi cũng có ý đốc xúi Má, vì lúc đó Má còn trẻ, lại đẹp nữa. Nhưng Má tôi thì chỉ có “Ba tụi bây” là người đàn ông duy nhứt trong đời Má.

Hình xưa coi lại, má mặc áo choàng dài, tóc uốn cong cong, đứng tươi cười trên bãi tuyết trắng trước sân nhà, như má đang nhìn Ba. Má đẹp như vậy thảo nào ông phi công Mỹ oai hùng ngày xưa si mê quanh quẩn suốt ngày gần chỗ má may đồ.

Má tôi tuổi con trâu, năm nay tính theo tuổi ta cũng đã 95. Má già và yếu lắm, đi đứng rất chậm chạp từng bước một, ra ngoài đi chơi phải ngồi xe lăn. Má nhẹ hều, chiếc xe lăn cũng nhẹ hửng nên đẩy má là chuyện dễ òm. Chị Hai thường dành việc này, là vì hai chân của chế cũng yếu, khi đẩy xe chế tựa luôn vào, nhứt cử lưỡng tiện nên tụi tôi để chế làm.

Ngày xưa, đọc sách báo thường thấy chữ “Ốm như xác ve”, bây giờ tôi mới hiểu ốm như vậy ra sao! Má nhẹ hều vì ốm lắm, chỉ còn da bọc xương nhăn nheo già cỗi như lớp vỏ ngoài của mấy cây cổ thụ. Tối tối, thoa dầu và bóp chân cho Má khi má than đau nhức, tôi bóp chạm tới phần xương bên trong. Như vậy thì có bớt được đau nhức gì, đành chịu thôi, dán thuốc dán cho Má, thấy như cầm hơi. Má ốm vì má ăn ít lắm, ngày vài muỗng cơm, chút xíu thức ăn rồi thì má đẩy ra, nói “Má no rồi”. Bắt má ráng ăn thêm thì má nói “Bao tử má nhỏ lắm”. Tội nghiệp chị Hai, đem thuốc uống để ăn ngon cho má, nhỏ bảy thì cứ mỗi 4 hay 6 tuần lên nhà vô nước biển cho Má suốt đêm, nhờ đó mà Má khoẻ hơn một chút, ăn ngon thêm một chút. Nhưng thân thể Má vẫn như cái xác ve mà tôi thường nhìn thấy đeo bám vào mấy chiếc lá mùa hè.

Những ngày ở bên Má, tôi thấy má ngủ rất nhiều, ngoài lúc coi phim trên tivi và ăn cũng như uống thuốc. Má già ốm và yếu như vậy, mà tánh tình vẫn cứ quật cường như khi còn trẻ, tự tắm một mình, ăn xong tự lần mò rửa chén, dĩa, ly tách má dùng, không để con cái làm. Chuyện này không thể nói Má được, và tôi nghĩ chỉ cần theo dõi Má, dẹp hết những chướng ngại trên con đường đi của Má để Má đừng vấp té, vặn nước ấm pha sẵn cho Má, Má tắm xong thì liền lập tức nhào vô, tắt nước cho má, vì má không nhớ bên nào là nóng bên nào lạnh. Khi tắm Má nhứt định là phải đóng cửa lại. Có lần tôi chọc Má: “Có con thấy má thôi, má mắc cỡ gì, Má tắm phải để cửa mở, có gì…”, thì má lắc đầu: “Má quen rồi, phải đóng cửa khi tắm”.

Thiệt tình, Má tưởng má còn là cô tiểu thơ.

Tôi nghiệm ra một điều, thói quen của người già rất khó bỏ, và càng lớn tuổi, người già càng ôm chầm chầm quá khứ. Má thường hay hỏi: “Thằng Long có cơm ăn không?”

Trời đất ơi! vợ của thằng “Cục dzàng” đó mới nấu nồi cơm, xào dĩa đậu đũa tỏi thơm lừng, ram tôm thịt lên màu đỏ au bắt mắt, kèm theo dĩa rau dền luộc màu xanh tươi ngon lành nữa kìa.

Tụi nó đang ăn dưới lầu.

Má nhớ chuyện gì đâu!

Ngay cả lúc Ba đột ngột qua đời, chị em chúng tôi cũng được ăn uống ngon lành, chưa bao giờ bị đói cả, nhờ Má đã gánh vác hết những khổ cực trần ai để nuôi bầy con, rất giỏi kiếm tiền dù chỉ là túm quần áo may sẵn bán ngoài chợ, lúc nào chúng tôi cũng có cơm ăn no, chưa từng mặc áo quần rách hay vá, thằng “Cục dzàng” còn được má gởi vô trường nội trú Đắc Lộ, tiền trường rất mắc, để cho nó không theo bạn bè mà hư đốn tuổi trẻ. Hay Má nhớ thuở trào Tây, lúc má còn con gái chạy giặc nhiều lần, hết giặc Tây tới Việt Minh ruồng bố, có bữa đói bữa no???

Hôm nghe Má hỏi thằng “Cục Dzàng” của Má có cơm ăn không, tôi ngồi bên má, hỏi Má những chuyện xưa để gợi trí nhớ cho má. Tôi hỏi Má về loại vải may quần sa ten màu đen, bóng loáng, mịn màng như lụa, mềm mại rất đẹp, mặc với áo bà ba, là hàng Mỹ A xuất phát từ làng quê má ở. Má nói, thời Má, mấy cô gái quê lục tỉnh có được chiếc quần Mỹ A là thích lắm, nó rất bền, đẹp, càng giặt càng chắc tốt, màu đen càng bóng ngời ngời. Mỹ A là loại vải của người Chà Và làm ra chớ không phải của người Việt, đặc biệt chỉ có ở Tân Châu Hồng Ngự (Châu Đốc). Họ dệt, nhuộm đen và bán cho người Việt mình chớ họ không có mặc, má nói, hình như họ nhuộm bằng trái “mặc nưa”?

Rồi má kể tiếp, chuyện ghe thương hồ.

Má sanh ra ở làng Mỹ Đức, cách chợ tỉnh Châu Đốc khoảng 8 cây số, xuống khoảng 11 cây số là Cả Dầu. Gia đình Má có 7 anh em, anh trai đầu, 6 em gái. Ba Má cưới nhau xong thì ra riêng. Trước đó ông ngoại làm nghề nông, còn gia đình bên bà ngoại mua bán, gốc Tiều (Triều Châu). Sau khi sống chung, Bà ngoại không thích làm ruộng dù bên ông ngoại là chủ điền, nên ông ngoại mua chiếc ghe chài lớn để gia đình sống và làm ăn, vì vậy anh trai của má sanh trên bờ, các con gái đều sanh dưới ghe ngoại trừ em gái út sanh trên bờ lúc ông ngoại cất nhà. Trên ghe chài này mui ghe lót ván, và làm thành một từng rộng ở trên lót mái lá, như vậy là ghe có hai từng. Ở phía dưới ghe chia hai, phần trước chứa đồ hàng xén đủ thứ để bán, từ cà ròn, gạo, nước mắm, đường, muối, than đước, bánh kẹo, cho tới cây kim, sợi chỉ. Phía trong là chỗ gia đình ở. Từng trên dành cho hai người làm công ngủ, công việc của họ là chèo, chống ghe. Đàn ông ở từng trên, đàn bà ở từng dưới. Hai bên ghe có 2 cái bè, chứa những vật nặng để bán như lu, khạp, hũ, nồi, cà ràng (một loại bếp có đáy chứa tro và than đỏ)… tất cả đều bằng đất sét nung. 

Gia đình má buôn bán theo con nước, nước lớn chèo đi, nước ròng đậu lại để ngủ. Cứ tiện đâu thì đậu đó, không có bến nhứt định. Phía sau ghe có cầu vệ sinh, ông ngoại còn làm thêm cái chuồng nhỏ nuôi heo, vài con gà để ăn khi cần.

Gia đình ông bà ngoại với 6 người con sống trên ghe chài như vậy tới 14 năm, đời sống thanh bình yên ổn. Ông ngoại nói bán thứ gì cũng có lời, phần nhiều bán chịu, tới mùa người ta mới trả tiền. Người dân quê thiệt thà, không gian xảo, tin cậy nhau, nghề buôn bán không cực khổ như nghề làm ruộng. Ông ngoại bà ngoại thương yêu nhau, cuộc sống trên ghe chài nhàn nhã, cá tôm đầy sông. Siêng thì đặt giỏ phủ ít lá cây bẻ hai bên bờ rồi cột dây, buổi sáng để dưới nước, chiều kéo lên cả giỏ đầy cá tôm. Nếu bận rộn mua bán thì kêu ghe lườn chài của người Chà Và lại mua cá.

Nói về người Chà Và Châu Giang ở Kinh Đào, Má kể:

-Họ thường làm nghề lưới cá. Con kinh này do dân đào thành là quê nội của má, nước thông thương từ sông vô kinh để xài và tưới ruộng, cây vườn nên gọi là Kinh Đào.

Nhà bên nội có cây cầu ván bắc ngang sông có một xóm nhà của người Chà, tới chợ Châu Đốc rất gần. Dân làng của má gọi họ là người Chà Và. Họ chuyên bán lúa, trồng cây thuốc và cây sapoche trái nhỏ màu nâu, sau này lên Saigon thấy có bán. Họ cũng trồng một loại cây trái lạ, tên là trái lồng mứt. Người Chà Và không ăn thịt heo, bò. Nhà nghèo thì chài lưới chớ họ không biết câu cá, nôm cá như người mình. Đó là những lườn chèo mà ông ngoại hay gọi mua vì ông ngoại thích ăn cá lớn. Lườn chèo giống như chiếc xuồng ba lá, dài hơn một chút, cao hơn nên có thể đứng chèo.

-Đó là lườn chèo, còn xuồng ba lá ra sao hả má? Tôi hỏi.

Má nói: 

-Má có hỏi ông ngoại, ông nói là xuồng chỉ đóng có 3 miếng ván lớn nên kêu là xuồng ba lá. 

Nhờ Má nhớ trước, quên sau, mà tôi có được chút ít hiểu biết thêm về đời sống thương hồ trên ghe chài suốt 14 năm của ông bà ngoại, cậu hai, má ba, má tư, má năm, má tôi thứ sáu, má bảy và Út (mấy dì chúng tôi đều gọi là má).

Má nghỉ lấy hơi, uống ngụm nước, tôi ép má ăn được 1 cái bánh làm bằng 5 loại đậu, má nói ngon. Rồi má kể tiếp, coi như Má tôi đã quên phứt vụ lo lắng thằng “Cục dzàng” của má không có cơm ăn.

Má nói, hồi nhỏ má đau bịnh liên miên cho tới 4 tuổi. Trời đất, Má nhớ chuyện cũ tới 90 năm xưa. Tôi ngồi im, không dám nói xen một câu để Má không bị ngắt dòng suy tưởng. Ông Ngoại kể thầy thuốc chạy hết, thấy Má gần chết rồi nên không chữa nữa. Lúc đó là dưới trào Pháp. Người Pháp họ dán giấy cùng khắp, nói đang có bịnh dịch, ai chết đâu thì rải vôi chôn ngay chỗ đó, không được chở qua chỗ khác, nếu bắt được sẽ ở tù. Ông ngoại rất lo lắng, nghĩ không biết con gái chết ngày nào. Nếu con chết phải chôn ngay bãi theo lịnh nhà nước, khi nước lên sẽ trôi mất xác hay sao, nên ông ngoại quyết định liền là phải lên bờ cất nhà, con gái có chết thì chôn trên đất.

Thuở đó ở Châu Đốc đã có nhà thương, nhưng dân làng quê má chỉ trị thuốc Ta, không tin vào thuốc Tây. Bịnh thì cắt lá sả, lá bưởi, lá bồ bồ để xông hơi, mua đồng xu trà cảm uống, tiêu chảy thì hái lá ổi non ăn, còn nặng nữa thì hốt thuốc Nam, thuốc Bắc. Thầy thuốc Nam không biết bắt mạch như thầy thuốc Bắc. Ông ngoại mua cả thuốc Nam lẫn thuốc Bắc để chữa bịnh cho con gái. Thuốc Bắc đắng lắm nên má rất sợ, thấy chén thuốc là khóc ngất tới khan cổ, bà ngoại phải dỗ bằng cà na ngọt để ngậm sau khi uống thuốc, về sau má không chịu uống nữa vì sợ đắng, bà ngoại phải dùng chiếc đũa cán ngang miệng mới đổ được thuốc vào họng đứa nhỏ 4 tuổi. Má nhớ còn kinh hồn. Bà ngoại thì ngồi khóc sau khi cán thuốc cho con.

Má nhớ lại chuyện ông ngoại cất nhà.

Ông ngoại xin được miếng đất ở gần Đình Mỹ Đức để cất nhà. Đình là chỗ để dân làng thờ phượng những ông Quan tốt đã chết, Vua cho cất Đình để thờ, phù hộ cho dân làng. Ở quê má, Đình gần gũi hơn Chùa.

Ông ngoại lại nghe người trong làng nói nhà gần đình thì làm ăn không khá, mà gia đình làm nghề mua bán cũng phải tin nên đành kiếm miếng đất khác, xa Đình để cất nhà. Thời may, có một người dân làng, kêu ông ngoại cứ cất nhà đối diện nhà ông, muốn cất bao lớn thì cất nên ông ngoại mừng lắm. Thuở đó, khi cất nhà cứ hô một tiếng, sẽ có trai tráng trong làng tới phụ. người thì chần lá dừa nước để lợp mái, kẻ thì đốn tre, cưa cọc, đóng, chẻ dây lạt, tước lá, dựng lên một mái nhà ấm cúng cho cả gia đình ở.

Ông ngoại kêu người bán chiếc ghe thương hồ, có vốn mở tiệm hàng xén ngay nhà để tiếp tục nghề mua bán, lần này cho hàng xóm trong làng. Ông ngoại qua chợ Xà Tỏn, nhờ hàng xóm chỉ tìm thầy thuốc giỏi chữa bịnh cho má là thầy thuốc Bắc trị bịnh ban rất nổi tiếng không lấy tiền, ai hết bịnh cho gì cũng được.

Sáng sớm hôm đó, ông ngoại cõng má trên lưng vô kinh đón xe tới Châu Đốc, từ Châu Đốc chuyển qua xe khác vô Xà Tỏn, rồi đi bộ rất xa mới tới nhà thầy thuốc. Má nói lúc đó mới 4 tuổi mà má vẫn còn nhớ tới bây giờ. Khi tới nơi thì người nhà nói Thầy đã lên núi hái thuốc rồi, vậy là hai cha con ngồi chờ. Má nhớ nhà ông Thầy thuốc khá lớn, cột gỗ mun đen bóng, phía trước nhà có hàng ba, để bộ ván gõ. Ông ngoại tháo cái khăn sọc rằn quấn đầu, lau bộ ván cho sạch trước khi đặt con gái nằm lên, rồi ông đi vòng vòng ngắm sân trước vườn sau, người nhà thầy thuốc nói vườn sau trồng toàn cây thuốc. Rồi Thầy về, bắt mạch, nói Má đau cả hai ban đen và ban trắng (tôi không biết đau ban là bịnh gì?). Thầy hốt cho 40 thang thuốc vì ông ngoại cho biết nhà ở Mỹ Đức, khá xa.
.
Chuyến về hơi trễ, không có xe nên chặng đường từ Châu Đốc về nhà ở Mỹ Đức ông ngoại phải đi bộ. Thời đó không có xe cộ nhiều, sụp mặt trời là tối thui, làng quê lúc đó chưa có điện, ngang qua những khu mồ mả đom đóm bay đầy.

Ông ngoại đi đâu cũng cầm theo cây thước bản để phòng thân và trị ma (Chuyện này sẽ kể sau). Cây thước bản này làm bằng lõi cây rất rắn chắc, được người bạn làm cây trên núi Cấm đem về cho. Ông ngoại cột một đầu cây 40 thang thuốc, đầu kia ông ngoại cột cái khăn rằn thành võng, cho con gái nằm, rồi ông gánh. Đứa nhỏ 4 tuổi bịnh lâu năm thì chắc nhẹ hều như mấy thang thuốc. Trời tối mịt giơ bàn tay không thấy, hai cha con mới về tới nhà. Bà ngoại chờ sẵn, lấy ngay nửa thang thuốc sắc cho con gái uống. Mỗi thang thuốc chia làm 2 uống hai lần trong ngày, ròng rã 40 ngày. Sau đó ông ngoại còn đi hốt thuốc thêm 2 lần, và lần cuối là thuốc tiêu thì má hết bịnh. Người trong làng ai cũng nói thuốc tiên, con nhỏ đã hấp hối rồi mà còn cứu sống được, ông thầy thuốc đó quá giỏi, nên má mới còn sống tới bây giờ, đã 95 tuổi thọ.

Má cười, thấy má hồng hào hơn.

Vì đứa con gái bị bịnh, mà ông bà ngoại phải từ bỏ cuộc sống thương hồ nhàn nhã trên sông để lên bờ và sống luôn cho tới khi lìa đời ở làng Mỹ Đức.

Nói về cậu Hai, người anh cả của má, má nhớ lại. Về sau cậu Hai lập gia đình, qua chợ Cần Thơ vựa trầu, và gởi trầu về Mỹ Đức cho bà ngoại bán lại. Dân làng quê thuở đó ai cũng ăn trầu nên lá trầu bán rất được giá. Lúc má 12- 13 tuổi, ngày đi học, chiều về phụ bà ngoại cột trầu, gói trầu, được trả công đàng hoàng dù làm ở nhà hay làm mướn cho hàng xóm. Số tiền làm ra má đưa cho bà ngoại giữ giùm, khi đủ thì bà ngoại mua cho chiếc quần Mỹ A. 

Hỏi Má có nhớ gì về người Chà Và ở Tân Châu không, má nói:

-Họ sống riêng biệt thành làng, không sống chung với người Việt. Dù ở ven sông hay trên đất liền, họ cũng cất nhà theo kiểu nhà sàn, với những cửa sổ rất nhỏ. Đàn bà con gái ít khi nào được thấy mặt mũi của họ. Má nói khi họ kêu ghe chài, hay người bán gánh để mua đồ cần, thường là phụ nữ, họ chỉ thò cánh tay trắng muốt mịn màng như bông bưởi ra để trả tiền và lấy đồ. Hỏi, họ có biết nói tiếng Việt không, thì má nói có chớ, họ nói tiếng Việt cũng khá lắm, nhưng họ nói chuyện với nhau bằng tiếng của họ. Má biết phong tục của họ là ăn bốc chớ không dùng đũa như người mình, và không ăn thịt bò, thịt heo, mà họ tin tưởng là ở kiếp trước đó là cha mẹ, là ông bà của họ. Ai mà ăn thịt người trong gia đình, má giải thích đơn sơ như vậy.

Kể chuyện một lúc thì má đói bụng, nhờ vậy mà má ăn hết cả dĩa thức ăn tôi làm cho má, thêm mấy miếng mít vàng giòn ngọt lịm. Tôi nhắc má, đừng kiêng cữ gì nữa, má thèm gì thì cứ ăn. Má nói má làm vậy mà. Trời, Má dễ thương như đứa con nít, kể chuyện xong thì ăn, rồi ngủ khò. 

Mọi năm, tôi đều mong tới tháng tám, để leo máy bay qua California, có dịp gặp Má, mấy chị em, các cháu trong đại gia đình và gặp bạn bè văn chương; được hít thở mùi muối biển mát mẻ, đi câu, ngắm trăng sao nếu may mắn nhằm dịp trăng tròn.

Năm ngoái, mấy chị em, con cháu hùn nhau mướn một căn ca bin rất rộng, đủ chỗ cho đại gia đình ở trong thời gian 4 ngày trên vùng núi Arrowhead, rất thoả thuê vui vẻ. Năm nay mấy chị em mướn căn cabin nhỏ hơn trên vùng núi cao hơn 7 ngàn dặm Big Bear Lake, chỉ có Má và 8 chị em, cùng cô em dâu ở chơi 4 ngày. Không có đám con nít, nên mấy chị em tha hồ đi chơi không bận bịu. Lúc khăn gói cho má, tôi nhét thêm mấy cái tã dành cho người lớn, phòng khi má bịnh, thì có xài cho tiện vào ban đêm. Chăm người già như chăm đứa con nít, phải dỗ ngon dỗ ngọt khi ăn uống, lúc tắm rửa và nếu thường xuyên nói chuyện thì trí nhớ sẽ tốt hơn. Tôi chỉ có thời gian quá ít ỏi bên má. Bình thường có mấy chị em trong nhà thay phiên nhau lo cho má. Suốt thời gian đi chơi, má ăn ngon, ngủ được, và rất vui khi chúng tôi quây quần bên má, kéo má ra ngoài sân hay ra phòng khách để chụp hình. Trong đám con của má có một đứa thứ bảy là y tá, cho nên rất an tâm giao phó trách nhiệm cho em.

Vào ngày thứ hai ở Big Bear, em út Thúy đã lái xe suốt 11 tiếng đồng hồ từ vùng núi cao hơn 10 ngàn bộ ở hồ Tahoe, chiều tối và suốt đêm xuyên núi đồi quanh co, đường đi nguy hiểm, tới rạng sáng nhỏ Út Thúy bất ngờ xuất hiện ở cửa cabin cùng đứa con gái nhỏ, đến chơi với Má và gia đình được hai ngày, như vậy lần này hình ảnh gia đình chúng tôi có đủ mặt 8 chị em, bên cạnh má tôi. Những lần trước, những năm trước, và trước nữa, họp mặt gia đình, có mặt đứa này cũng thiếu đứa kia cho nên bọn tôi cứ phải ráp hình cho đủ 8 đứa, lần này không cần “photoshop” gì hết, luôn có đủ 8 chị em bên Má. Thấy má vui lắm, cười toét miệng khi chúng tôi làm trò khỉ, đạo diễn cho Má chụp hình với thằng “Cục dzàng”.

Tôi biết, Ba tôi đâu đó, đang nhìn xuống và cười cùng chúng tôi. Má của chúng tôi sẽ sống lâu trăm tuổi mới gặp lại ba tôi. Ba chờ hơi lâu nha Ba.

Lần sau má con tụ họp, chắc tôi sẽ hỏi để nghe má kể chuyện tình của Ba Má lúc má là cô gái vựa trầu ở Cần Thơ, ba là một chàng Cảnh Sát trẻ tuổi, rất đẹp trai, và… họ gặp nhau.

Trương Ngọc Anh

No comments:

Blog Archive