Monday, April 21, 2008

Tháng tư đen, trở lại vấn-đề : VIỆT-NAM ĐỔI MỚI và HÒA GIẢI HÒA HỢP

- Đinh Lâm Thanh -

Nhiều người đi du lịch về thường nói rằng Việt Nam lúc nầy hoàn toàn đổi mới, đôi lúc còn hết lời ca tụng thành quả của chính quyền Cộng sản đã thực hiện trong những năm vừa qua. Nghe một cách khách quan thì có phần đúng nhưng thiết nghĩ chúng ta cần phải nhìn một vài khía cạnh khác của những gì gọi là đổi mới do tập đoàn Cộng sản đã thực hiện để có một kết luận vui hay buồn ?

Chúng ta không thể căn cứ vào hạ tầng cơ sở đã xây dựng trong các thành phố lớn cũng như xem những cuốn phim vidéo thương mãi, trong đó giới thiệu nào là khách sạn cao từng, khu nhà ở sang trọng, 1001 kiểu ăn chơi, nơi du dịch vừa khai trương đến những món ăn quyến rũ đặc sản ba miền để mời gọi Việt kiều về thăm quê hương, rồi kết luận một cách vội vàng và hời hợt rằng nhờ chế độ Cộng sản, Việt Nam ngày nay đã trở thành thiên đường hạ giới.

Chúng tôi đã tiếp xúc khá nhiều khách du lịch về từ Việt Nam, trong đó đa số là Việt kiều và một ít người ngoại quốc. Khi được hỏi về nếp sống hiện tại ở quê nhà, câu trả lời của những người nước ngoài đều giống nhau :

Họ không trở lại lần thứ hai và giải thích rằng, mục đích đến Việt Nam vừa du lịch vừa dụng ý tìm lại những dấu tích kỷ niệm những nơi mà con, chồng, cha, ông họ đã chiến đấu, tù tội hoặc bỏ mình trong các cuộc chiến vừa qua. Họ đến đây một lần như để chia sẻ những nỗi đau buồn tủi nhục của người đã góp mồ hôi xương máu bảo vệ tự do cho một đồng minh. Nhưng họ hoàn toàn thất vọng.

Lý do rõ ràng nhất, chính quyền Việt Nam ở đây không có tình người và thiếu hẵn sự tôn trọng tối thiểu đối với du khách, hơn nữa còn lợi dụng xương máu những người chết để làm tiền kẻ sống. Trên các chặng đường tham quan, cán bộ tuyên truyền chế độ thường nhân cơ hội để lồng vào những thành tích vẻ vang đấu tranh, chiến thắng thần thánh và đôi lúc huênh hoan khoe khoang tới độ thiếu liêm sỉ bằng cách dẫn khách du lịch, bà con thân nhân của nạn nhân thăm viếng các bảo tàng viện trưng bày những cái gọi là tội ác do con chồng cha ông họ đã gây ra !

Ngoài ra khách du lịch còn được dẫn đi xem các hố bom, bãi mìn còn sót lại trong thời kỳ chiến tranh, các hậu quả do Mỹ và VNCH để lại với những lời thuyết minh còn sặc mùi máu căm thù.

Tiếp đến du khách còn bị đưa đến các hang ổ, địa đạo do chúng dựng lên rồi khiêu hãnh và trắng trợn cho biết rằng nơi đây đã giết được hàng trăm hàng ngàn tên ‘giặc’! Đứng trước những dấu tích ngày xưa, thân nhân của những người đã nằm xuống tại đây không được một lời an ủi chia buồn mà còn bị những con người không có trái tim, huênh hoan trên xương máu người chết để hưởng lợi.

Trên quả đất nầy không có nơi nào ngu si tàn nhẫn và vô nhân đạo hơn chế độ Cọng sản Hà Nội, dù là những bộ lạc trong các rừng rậm còn ăn lông ở lổ nhưng họ cũng biết xử sự một chút tình người khi đối diện với những kẻ đang đau khổ trong lúc họ đến du lịch tham quan.

Theo thống kê, mỗi năm có hàng triệu người du lịch đến Việt Nam, nhưng tỷ lệ Việt kiều về thăm gia đình chiếm đại đa số, có thể đến chín mươi phần trăm. Tính lượng Việt kiều về để nâng tổng số khách gọi là du lịch lên thật cao thì không đúng. Nếu không còn thân nhân tại Việt Nam, chắc chắn chẳng bao giờ thấy cảnh Việt kiều sắp hàng mua visa về thăm bà con trong các dịp hè hoặc Tết âm lịch. Việt kiều trở lại quê hương hàng năm không hẵn là đi du lịch mà mục đích kết chặt thân tình với gia đình bà con bạn bè và nhân cơ hội giúp đở một ít tài chánh cho họ hàng ruột thịt. Gần triệu người đã mang trực tiếp về một số ngoại tệ khổng lồ nhưng trước sau gì cũng chui vào túi nhà nước. Mặc dù sau đó tiền sẽ chạy ngược ra xứ ngoài, biết vậy, nhưng phải chấp nhận vì thân nhân trong nước cần phương tiện để sống. Bất cứ ai về thăm quê hương cũng là một điều rất tốt, chỉ đáng tiếc, một số đông sau những chuyến về Việt Nam đều nức nở khen rằng, quê hương bây giờ đã đổi mới, vui lắm khá lắm. Đôi lúc còn khuyên tất cả nên về thiên đường để tận hưởng những thú ăn chơi do Cọng sản kinh doanh. Đi đến đâu cũng thấy lầu đài, khách sạn, nhà hàng, quán ăn, vũ trường, tắm hơi, bia ôm, động đĩ… Chỉ cần lon bia là tự do ôm gái thả giàn, một tô phở dư sức ngủ bất cứ với ai, vào quán vào tiệm là máy lạnh chạy suốt ngày, làm vua một đêm trong khách sạn chỉ bằng lương một buổi. Tấm tắt khen rồi kết luận, dưới chế độ Cọng sản bây giờ đã đổi mới rất nhiều chứ không còn quê mùa buồn tẻ như ngày trước ! Mới nghe qua tưởng chừng đúng với những gì đang xãy ra tại thủ đô, các thành phố cũng như quận lỵ, nhưng nghĩ lại thì thấy lòng mình quặn đau và đôi lúc tưởng chừng như có một cái gì xuyên qua lồng ngực. Việt kiều trở lại du lịch trên quê hương mình để có dịp thăm viếng và giúp đở gia đình là việc cần khuyên khích, nhưng với lối nhìn một chiều, vô tình và hời hợt như một người nước ngoài thì đáng buồn thật.

Du lịch đến một xứ nào du khách có thể thấy ngay trình độ văn minh giàu sang của dân chúng qua các phượng tiện sinh sống cũng như những cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống con người từ giàu có trong các thành phố đến tận giai cấp nghèo khó ở thôn quê. Nhưng đối với Việt Nam, nếu dựa vào các phương tiện căn bản hạ tầng để đánh giá sự giàu sang của trên tám chục triệu dân chúng thì đó là một điều lầm lẫm. Sự giàu sang tại đây thực chất dành cho giới thống trị của tập đoàn Cộng sản nắm quyền và một số người xu thời cấu kết với giới lãnh đạo để tận tình bóc lột dân nghèo. Không vơ đũa cả nắm, trong số người giàu có hiện tại cũng phải kể đến những người đã bỏ công sức làm ăn góp gió thành bão, những người có nguồn thu nhập lương thiện hay những thân nhân của một số Việt kiều, nhưng tính cho kỹ số người nầy chỉ là một lượng thật khiêm nhượng trong tổng số tỷ phú ‘đỏ’ đang tràn ngập từ hang cùng ngõ hẻm đến trung tâm thủ đô Hà Nội.

Chúng tôi nghe có người khen rằng, Việt Nam ngày nay, điện đã kéo đến tận các làng xã xa xôi, truyền thanh truyền hình về tới từng thôn xóm. Nhưng họ quên rằng các phương tiện nầy đã có từ trước năm 1975. Thật vậy những phương tiện phục vụ quần chúng nông thôn dưới thời Việt Nam Cộng Hòa vừa đưa đến đâu thì Việt cộng phá hoại liền sau đó. Ra khỏi khu vực chung quanh thành phố quận lỵ vài ba cây số, các trạm biến điện bị đặt chất nổ, cột trụ thì cắt dây. Cầu cống đường sá vừa đắp trong ngày, tối đến chúng đặt mìn giật sập. Nếu so sánh những gì có được ngày hôm nay với hoàn cảnh Việt Nam sau thời kỳ chấm dứt chiến tranh 1975 thì thấy có nhiều thay đổi. Hoặc không nói đâu xa, giữa Việt Nam Cộng sản năm mười năm về trước với thực tại ngày hôm nay thì thật đúng.

Nhưng phải nhớ điều nầy, không thể đem tình trạng đất nước giữa hai thời điểm, trước năm 1975 và ngày nay để so sánh với nhau. Một miền Nam trong chiến tranh loạn lạc, kẻ thù phá hoại quanh năm từ thành thị đến thôn quê, tất cả nguồn nhân lực vật tài lực đều phải tập trung để chống nội thù thì không thể so sánh với một miền Nam ngày nay, sau hơn ba mươi năm chấm dứt chiến tranh hoà bình được vãn hồi. Tiền rừng bạc biển của miền Nam cộng thêm hàng trăm tỷ dollars từ ngoài đổ vào thì những gì đổi mới của Cộng sản ngày hôm nay chỉ là hạt cát nhỏ xíu trên sa mạc. Thử tính nhẩm xem trên ba mươi năm hòa bình, nếu chính quyền không tham nhũng, không vơ vét đưa về Bắc, không trả nợ Nga Tàu, không chuyển ra nước ngoài mà nhà nước chỉ cần xử dụng một phần nhỏ để kiến thiết đất nước phục vụ dân chúng thì quê hương Việt nam ngày nay đã trở nên giàu mạnh gấp bao nhiêu lần so với các quốc gia lân cận. Phi luật Tân, Thái lan, Mã Lai thường ước mơ mười lăm tỷ dollars để phát triển xứ họ thành một quốc gia tân tiến hiện đại nhưng không đào đâu ra, trong lúc Việt nam có sẵn trong tay gần một trăm tỷ do Việt kiều gởi về dưới hình thức chui cũng như chính thức trở thành mây khói. Trong khi đó hạ tầng cơ sở xây dựng được tại Việt Nam đều do tiền viện trợ hoặc vay mượn quốc tế !

Người giàu ở Việt Nam

Không ai phủ nhận tại thủ đô cũng như các thành phố lớn trong thời gian sau nầy đã mọc lên hàng trăm hàng ngàn biệt thự đắt giá, những cao ốc chục từng lầu, những khách sạn bốn năm sao, những quán ăn hàng ngàn chỗ ngồi, vũ trường đúng tiêu chuẩn quốc tế, những đại công ty với vốn hàng chục triệu dollars… nhưng chủ nhân là ai ? Xin thưa ngay, chính là các cán bộ đảng viên của đảng Cộng sản từ cấp làng xã cho đến những tên bí thư trung ương, chủ tịch trong bộ máy quyền hành nhà nước. Còn lại một số nhỏ thì nằm trong tay những tay kinh tài của đảng, các tên mua gian bán lận và cuối cùng một số rất nhỏ là của Việt kiều hay thân nhân của họ. Tóm lại giới giàu có tại Việt nam hiện nay không ai ngoài cán bộ đảng viên Cộng sản. Cứ tính trung bình, dù ở ngành nghề hay chức vụ nào, khi đã lọt vào đảng trong tay cũng có năm ba mẫu đất, một hai ngôi nhà là ít.

Ngay từ lúc vừa kéo quân vào cai trị, bọn Cộng sản đã dùng súng đạn, quyền thế chia nhau xẽ thịt đất đai của miền Nam. Từ những lô đất vàng trong thành phố, các bất động sản của dân chúng vùng ngoại ô đến những đồng ruộng vườn tược tại thôn quê, nơi nào có lợi chúng không bao giờ bỏ qua. Với quyền lực và súng đạn chúng làm giầu không phải mất một giọt mồ hôi hay đồng bạc nào. Chúng trưng dụng, tịch thu rồi bán lại hoặc ăn chia với các nhà thầu để xây những căn phố lầu, khu nhà ở, các cửa tiệm. Từ tên bần cố nông khố rách áo ôm nhưng vừa chiếm xong miền Nam chúng đã trở thành triệu phú một cách thần thánh trong một sáng một chiều. Hàng trăm hàng ngàn cây vàng vào túi một cách dễ dàng trong lúc đồng bào miền Nam trong tình trạng đói khát rách nát, người chế độ cũ phải bỏ tài sản bồng bế nhau ra biển hay lên vùng kinh tế. Điều nầy không những xãy ra chung quanh Tân Sơn Nhất Sàigòn mà ngay trên toàn lãnh thổ miền Nam, từ trung ương xuống tận làng xã quận huyện. Nhất là thời gian sau nầy, trong chương trình nới rộng thành phố, tỉnh, quận lỵ, các cán bộ từ nhỏ đến lớn đua nhau chiếm đất cho chính bản thân mình, phần bán, phần cho vợ lớn vợ bé, con cháu bà con đứng tên hoặc giao móc nối các công ty xây cất nước ngoài. Dễ thấy nhất là các khu vực chung quanh thành phố Sàigòn cũng như hàng trăm ngàn mẫu đất trên toàn quốc nằm trong dự án phát triển, các cán bộ tự động ăn cắp tài nguyên quốc gia để cấp phát cho mình hoặc lên kế hoạch mua rẻ của dân. Gọi là mua nhưng lại quỵt sau đó, để thành lập những khu đô thị mới hay những trung tâm du lịch. Mối lợi đầu tiên, chúng hưởng ngay tiền đút lót của các công ty xây cất nước ngoài khi tổ chức đấu giá, sau đó hưởng trọn nguồn lợi mà không mất một đồng bạc.

Thật vậy, đất đai thì cướp của miền Nam, chất xám tiền bạc do nước ngoài chu cấp, sức lực lao động thì bắt dân đóng góp. Xây xong, các cán bộ lấy sáu, bảy mươi phần trăm công trình bán lại cho dân chúng, trong đó một số là Việt kiều, thu hàng ngàn hàng chục ngàn lượng vàng. Gom hết vào túi, chúng tìm cách chuyển dần ra nước ngoài, mua lâu đài đất đai cơ sở thương mãi phòng thân khi bí đường trốn chạy.

Trong việc chiếm đất làm của riêng một cách công khai, xin ghi ra nguên văn đây một bản tin đầy đủ chi tiết để dẫn chứng (theo tài liệu của Effet, Paris 3/2006) : Bé Nguyễn trọng Bằng đứng tên hai lô đất với diện tích 38.000 m2 lúc mới lên mười. Cậu Huỳnh tấn Trạng cũng đứng tên làm chủ 24.780 m2 khi vừa đúng mười hai tuổi. Cả hai đều là con (1 đứa con vợ lớn, 1 dứa con vợ nhỏ, đứa sau lấy họ mẹ) của cán bộ Nguyễn Thanh Liêm (!!!) chủ tịch ủy ban nhân dân quận Tân Phước, tỉnh Tiền Giang (Mỹ Tho). Đảng viên ‘thanh liêm’ nầy đã công khai đổi quyền sở hữu 146.000 m2 đất của miền Nam thành của riêng cá nhân mình. Trong đó ông trực tiếp đứng tên khoảng 42.700 m2, vợ ông là Huỳnh thị Thanh Hồng đứng tên hơn 65.000 m2 còn lại do hai đứa con đứng tên như đã nói ở trên.

Chỉ là một chủ tịch huyện mà đã dùng quyền thế ngang nhiên cướp đất của miền Nam tới 146.000 m2 làm của riêng thì cứ tưởng tượng những tên cán bộ từ tỉnh trở lên cho đến các cấp đứng đầu các sở, bộ, chính phủ cho đến bọn trung ương đảng thì trong tay chúng của chìm của nổi bao nhiêu giấy tờ cho đủ để ghi chép.

Người ta còn nhớ, vào những năm 1955-1958, phong trào ‘Cải cách ruộng đất’ do Cộng sản phát động trên toàn miền Bắc, quy tội những ai có quá hai mẫu đất sẽ bị khép vào thành phần phú hào địa chủ bị đem ra xử bắn khiến cho hàng trăm ngàn người phải chết oan. Người ta cũng chưa quên sau năm 1975, cũng chính luật lệ của chúng đem ra áp dụng cho người miền Nam, những ai có trên 5 mẫu đất sẽ bị kết án là thành phần tư sản, bị tịch thu ruộng đất và đưa đi vùng kinh tế mới, làm cho hàng triệu người miền Nam sống trong cảnh lầm than khốn khổ.

Ngày từ rừng chui ra, chân dép râu đầu nón cối, trên hàm răng dưới quần xà lỏn, nhờ tài ăn cướp nay trở thành tỷ tỷ phú, trong tay tên nào cũng vài ba ngôi nhà vài chục mẫu đất và hàng triệu dollars nằm ở nước ngoài. Thử đi một vòng từ Nam chí Bắc, đừng bỏ sót hang cùng ngõ hẻm nào, thấy bất cứ nơi đâu nhà cao cửa rộng sang trọng quý phái, cứ vào hỏi thử xem thì biết ai là chủ nhân ? Thấy những khu du lịch đắt tiền từ trên đỉnh núi xuống tận đáy biển, cứ nghiên cứu để biết người nào đứng tên ? Chính là những tên Cộng sản lớn nhỏ, dân nghèo chẳng một người nào có phước lọt được vào đây. Dưới chế độ đảng trị, cá nhân nào muốn làm giàu nhanh chóng và an toàn thì phải làm tay sai để được lọt vào đảng. Chúng nó có đến trên hai triệu đảng viên, thử làm một bài tính, trung bình mỗi người có vài ba căn nhà và một hai mầu đất thì bao nhiêu diện tích đất đai của quê hương đã nằm trong tay gia đình chúng nó, bao nhiêu ngôi nhà từ thành thị đến thôn quê đứng dưới tên vợ lớn vợ bé mèo chuột con ruột con rơi ?. Người dân lương thiện chắt chiu từ đời ông đời cha chưa xây được căn nhà trú mưa tránh nắng, nhưng với bọn cướp có cầu chứng chỉ cần dí súng vào lưng người dân vô tội là trở ngay thành triệu phú tỷ phú. Danh từ ‘người bóc lột người’ ngày trước Cộng sản gán cho chế độ miền Nam nghe ra thật buồn cười nhưng sau nầy dân chúng đổi lại thành câu ‘đảng bóc lột người’ thì thật chính xác trăm phần trăm. Chỉ có đảng mới đủ quyền lực ra lệnh, tổ chức và bao che các hành động cướp bóc một cách trắng trợn nhân miền Nam. Hành vi tham nhũng, cướp bóc có lúc man ri mọi rợ cũng có khi khôn ngoan xảo quyệt nhưng tựu chung vẫn chưa thấy xãy ra từ một xứ thiếu văn minh cho đến những quốc gia độc tài quân phiệt. Cảnh ‘đảng bóc lột người’ chỉ còn ở các xứ Cộng sản. Nhưng với Việt Nam còn nổi tiếng hơn nữa, nơi mà Cộng sản thường vỗ ngực khoe khoang là ‘cái nôi nhân loại’, ‘đỉnh cao trí tuệ’ của loài người và là tấm gương soi sáng để cho toàn thể nhân loại noi theo !


Việt Nam đã đổi mới được gì ?

Những tòa lâu đài cao, những con lộ rộng lớn, những chiếc cầu với 4, 6 lối đi hai chiều những khu vực giải trí, những nhà hàng khách sạn nguy nga, Hà Nội dàn dựng mục đích đánh bóng chế độ. Những phương tiện thiết thực nâng cao đời sống dân chúng không nằm trong chủ trương của đảng. Đường lối Cộng sản trước sau như một : Dùng bao tử sai khiến con người, bần cùng hóa để cai trị dân chúng. Dân có nghèo đói có ngu dốt thì mới ngoan ngoãn nghe lời Cọng sản. Từ ba chục năm qua, ngoại trừ vài ba bệnh viện lớn do nước ngoài xây cất, Việt nam đã làm gì cho dân nghèo trong các chương trình y tế công cộng ? Có tăng thêm các trường trung tiểu học cho các thành phố, quận lỵ hay thôn xã ? Có dùng tiền của Việt kiều gởi về để nâng cấp trình trình độ giáo viên và miễn phí cho học sinh ? Có nghĩ đến môi trường ô nhiễm, chương trình vệ sinh sức khỏe quần chúng hay chỉ chăm chú vào việc phát triển cơ sở du lịch ăn chơi để quảng cáo chế độ, móc túi giới giàu có, khách nước ngoài và ru ngủ lớp trẻ ? Ngay tại thủ đô và các vùng phụ cận Hà Nội cũng như thành phố Sàigon vấn đề nước và điện là hai nhu cầu thiết yếu hằng ngày của dân chúng nhưng hiện nay vẫn còn ô nhiễm và thiếu hụt, có nơi còn bị hạn chế xử dụng. Quan chức lớn hay những người có tiền được ưu đãi vào những bệnh viện của người nước ngoài. Đối với dân nghèo chính phủ Hà Nội có chú trọng xây cất thêm bệnh viện, đào tạo và giáo dục nhân viên y tế, trang bị dụng cụ để tiếp đón mọi người mỗi khi đau ốm cần nơi săn sóc chửa trị ? Tự xưng là một nước tiên tiến nhưng còn thua một xứ chậm tiến của Phi Châu, bệnh nhân bị xem như những người ăn mày đến xin ân huệ của chính phủ.

Chuyện xãy ra hằng ngày trong tất cả nhà thương dưới chế độ Cộng sản Hà Nội, từ bác sĩ y tá nhân viên phục dịch xuống đến các tay gác cổng hay làm vệ sinh nhà cầu đều xem bệnh nhân như con chó không hơn không kém. Nếu bệnh nhân và gia đình nào không biết ‘thủ tục đầu tiên’ áp dụng ngay từ lúc vào cổng, lấy số thứ tự, khám bệnh, chích thuốc cho đến lúc xin toa ra về thì đừng hòng lết tới bệnh viện. Trường hợp bệnh nặng phải nằm điều trị, ngoài các thủ tục kể trên còn phải thông suốt tiền giường, chăn, gối, thử nghiệm chụp hình hoặc để được chích một chút thuốc mê trước khi lên bàn mổ. Thậm chí bệnh nhân khi vào quan tài cũng phải tuân theo quy định tiền bạc rõ ràng bằng không thì nằm tạm góc nào đó đợi thân nhân đem tiền chuộc về chôn cất. Chính chế độ Cộng sản Hà Nội đã biến nhà thương thành nhà ghét, thành nơi mua bán từng tờ giấy, miếng vải, viên thuốc, chỗ nằm đến cách săn sóc chửa trị bệnh nhân và mặc cả ra giá luôn với xác chết.

Các người trách nhiệm trong chính phủ trung ương hay những tay đầu sỏ trong bộ y tế có dám trừng trị những tên bác sĩ, y tá vô lương tâm trong các cơ quan y tế nhà nước hay sợ dồn chó vào chân tường thì chúng sẽ quay trở lại cắn, gây trở ngại hư bột hư đường.

Dân nghèo đâu cần những nơi ăn chơi trác táng, sòng bạc trường đua, trung tâm nghỉ mát. Họ cần được chửa trị mỗi khi đau ốm, được khám bệnh miển phí, cần được ngày hai bữa, cần chỗ cho con em đi học, cần một việc làm trả công xứng đáng…Những gì đổi mới từ hạ tầng cơ sở đến chương trình mở cửa của Cộng sản đã đem cho họ được gì ? Hoàn toàn không, đã nghèo thì lại càng nghèo thêm.

Một chính phủ biết thương dân thì phải nghĩ đến ba vấn đề căn bản : Lo cho dân ăn no mặc ấm, săn sóc bệnh tật và mở mang trí tuệ nhất là cho lớp trẻ. Cả ba điều trên không được tập đoàn Cộng sản thực hiện, vì sau ba mươi năm chiếm xong miền Nam, một nửa dân số vẫn thiếu ăn thiếu mặc trong đó hàng chục triệu người trên người chỉ một bộ áo, ngày bữa cơm độn ngô khoai, bệnh không có thuốc, trẻ con thất học đi bụi đời. Chế độ Cộng sản Việt Nam ngày nay chủ trương ưu đãi đảng viên cán bộ, người nước ngoài và lớp nhà giàu mới nổi lên không ai hơn là gia đình con cháu.

Ngoài ra Việt kiều du lịch thường diễn tả cảnh ăn uống tấp nập ngày đêm từ các nhà hàng sang trọng đến những khách sạn tầm cỡ quốc tế. Người ta chi hàng triệu cho bữa ăn hoặc trả một đêm tiền phòng bằng hai tháng lương của một công nhân, rồi kết luận rằng dân chúng Việt Nam lúc nầy giàu có tột bực, Việt kiều không còn nghĩa lý gì nữa. Điều họ nói đúng, bây giờ bên quê nhà người ta chỉ nói đến tiền triệu, tiền tỷ, nhưng thật ra đó là những số tiền lừa bịp ăn cắp quỵt nợ cướp giật chứ không phải đồng tiền do mồ hôi nước mắt làm ra một cách lương thiện. Ngay cả cán bộ cao cấp đồng lương thật sự cũng không đủ để bao gái một đêm lấy gì để ăn chơi ba mươi ngày một tháng !

Đọc các tin của Việt Nam, ngay trên các nhật, tuần báo cũng như các mạng internet của chế độ, người ta biết được những chuyện liên quan đến hàng tỷ đồng và cũng bên cạnh đó, cũng có những bản tin thật đau lòng : Người ta giết nhau vì vài ba ngàn đồng bạc. Hàng đêm mẹ phải làm điếm kiếm tiền sữa cho con. Em học sinh bị đuổi vì không đóng nổi học phí. Nợ trăm ngàn, gái quê bán mình xuất khẩu làm vợ… Lương công nhân không nghề nghiệp chưa tới bốn trăm ngàn một tháng trong lúc gia đình năm bảy miệng ăn. Muốn sống còn, ngày làm việc tối về chồng đạp xe, vợ nhắm mắt ‘nhảy dù’, con đi bới thùng rác. Những hình ảnh nầy không ở đầu xa mà đấy dẫy ngay trong lòng thủ đô Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố lớn. Nói đến Việt Nam người ta chỉ nghe tiền triệu tiền tỷ ăn chơi của cán bộ đảng viên nhà nước mà ít ai nghĩ đến ba bốn trăm ngàn đồng của một gia đình đông con. Xã hội nào cũng có người giàu kẻ nghèo, nhưng sự cách biệt quá chênh lệch về phẩm cũng như lượng giữa hai thành phần tại Việt Nam là một hiện trạng không thể chấp nhận vì vấn đề tham nhũng quá độ của giới cầm quyền.

Những người đang ở trong các biệt thự sang trọng, đi xe đời mới, sáng trưa cao lầu chiều phòng trà ca nhạc, tối ôm gái trong khách sạn…chính là bản thân và thân nhân gia đình đảng viên cán bộ nhà nước và những tên sống bám vào đáy quần của Cộng sản, không phải chỉ một vài tên mà đồng loạt từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương, từ chủ tịch nhà nước đến tên quét cầu tiêu trong bệnh viện. Trung ương thì miệng lúc nào cũng hô hào diệt tham nhũng nhưng chỉ là trò hề để bịp trẻ con. Tham nhũng là căn bệnh chửa trị một cách dễ dàng nếu các cấp lãnh đạo trong sạch và nghiêm chính. Nhưng ở Việt Nam thì ngược lại. Không thế ngăn chận một anh công an đút túi lộ phí vài chục ngàn, cấm một viên chức xin vài trăm ngàn tiền trà nước trong khi những tay đầu sỏ ăn cắp hàng chục tỷ dollars để ở các ngân hàng nước ngoài. Cá mè một lứa làm sao có thể trở mặt trị tội lẫn nhau. Lâu lâu trung ương đưa ra một vài tên cán bộ cỡ trung ra tế thần sau đã vắt hết nuớc hết cái hoặc đổ bể vì ăn chia không đồng đều. Cả thế giới phải bịt mũi khi thấy chúng đánh trống thổi kèn trình diễn lấy lệ mấy vở hài kịch vừa qua.

Chính cán bộ, thân nhân và thuộc hạ của chúng đã đưa đời sống của nhân dân VN từ nghèo khó đến bần cùng đói rách. Hãy nghĩ xem, những bà mẹ buôn thúng bán bưng ngày kiếm vài ba ngàn đồng bạc, công nhân viên mỗi tháng lãnh chừng vài ba trăm ngàn, tính ra trung bình hơn ngàn bạc mỗi ngày, làm sao giới nghèo khó có thể đua chen trong cái xã hội nhiểu thương bên cạnh những tỷ phú đỏ. Cấp nhỏ thì tiền vào ngã sau trung bình cả triệu mỗi sáng, cao hơn thì vàng lượng vàng cây người ta dâng tận cửa ban đêm. Tiền bạc tiêu xài năm nầy tháng nọ cũng không ăn nhằm so với những số tiền tham nhũng bất chính. Đất đai nhà cửa xe cộ đầy đủ, tiền bạc đã nằm yên xứ ngoài, bây giờ họ chỉ việc tranh thủ thời gian để hưởng thụ. Do đó không lạ gì các quán đấm bóp, nhà hàng, khách sạn hạng sang nay đã trở thành phòng tắm, nhà bếp và phòng ngủ thường trực của cán bộ đảng viên cũng như gia đình.

Theo tài liệu gần đây của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế thì Việt Nam đứng hàng đầu thế giới về tham nhũng. Tính sơ sơ một số hồ sơ do tổ chức nầy có trong tay là 217.571 vụ tham nhũng từ cấp nhỏ đến cấp lớn. Hồ sơ tham nhũng nhỏ nhất ghi nhận tối thiểu 10.000 dollars và lớn có nhiều hồ sơ lên đến hàng trăm triệu dollars (ví dụ chỉ tính 217.571 hồ sơ nhỏ nhất, mỗi hồ sơ chỉ 10.000 dollars thì con số cũng lên đến 2.175.710.000 dollars). Ngoài ra tập đoàn cộng sản đã vơ vét đục khoét, tẩu tán và làm thất thoát tài sản quốc gia trung bình mỗi năm 130 tỷ dollars (tài liệu Effet tháng 3/2006).

Tham nhũng dưới hai chế độ VNCH và CS

Cách đây vài tháng, cò mồi Nguyễn cao Kỳ trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng miền Nam trước kia cũng tham nhũng, ngoại trừ một mình ông ta mà thôi (Thật không ông Kỳ ? Nếu có một chút liêm sĩ thì đừng nói câu nầy), rồi hô hào quên đi tất cả, tha thứ cho bọn Cộng sản tội tham nhũng đồng thời xóa bỏ qua những gì chúng đã vơ vét để tỏ thiện chí cùng nhau tiến tới việc hòa hợp hòa giải. Cộng đồng người Việt hải ngoại đã nhổ nước bọt vào bộ mặt lì lợm ông ta nhiều lần, thiết tưởng không cần đối thoại với một cá nhân đã mất nhân cách và liêm sĩ.

Nói đến tham nhũng dưới chế độ cũ, chúng tôi xin phép trở lại vấn đề nầy để trình bày với thế hệ trẻ hải ngoại và tất cả những ai sinh ra và lớn lên dưới sự nhồi sọ của chế độ Cộng sản ngay từ lúc mới lọt lòng.

Vẫn biết rằng vấn đề tham nhũng dưới chế độ nào cũng có, (ngoại trừ một số quốc gia ở Bắc Âu) không nhiều thì ít, nhất là đối với những nước đang phát triển. Nhưng đem vấn đề tham nhũng của miền Nam trước kia so sánh ngang hàng với việc tham nhũng của Cộng sản ngày nay thì thật là một sỉ nhục đối với chế độ cũ và những người có trách nhiệm trong guồng máy chính quyền cũng như quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước kia.

Từ nền Cộng hòa đệ nhất đến đệ nhị, miền Nam đã trải qua nhiều thời tổng thống, bộ trưởng và các quan chức điều hành guồng máy hành chánh cũng như hàng trăm tướng lãnh đã phục vụ dưới cờ. Chúng tôi không khẳng định các nhà lãnh đạo, các tổng bộ truởng cũng như các tướng lãnh hoàn toàn trong sạch, nhưng nếu một vài cá nhân nào đó có tham nhũng thì cũng chỉ là những chuyện nhỏ nhặt, chút tiền của vui chơi qua ngày chứ không đủ để tích lũy nuôi gia đình giòng họ từ đời nầy qua đời khác hay chuyển ra nước ngoài những số tiền lớn như bọn Cộng sản ngày nay đã gởi hàng chục tỷ dollars nằm rải rác trong các ngân hàng trên thế giới (32 tỷ dollars con số có được vào năm 2004)

Chúng tôi chưa thấy một vị lãnh đạo, quan chức hay tướng lãnh nào làm chủ, đừng nói nhiều, một dinh thự, lâu đài, cao ốc hay một đại công ty nào trong nước cũng như ở ngoại quốc. Cộng sản là bọn to mồm nhưng chưa nghe chúng rêu rao tịch thu tài sản của vị nầy ông kia thuộc chế độ cũ bao giờ. Trong lúc cò mồi Kỳ ngày trước đã bị xếp vào loại lem nhem lại lên tiếng nhập nhằng vấn đế tham những cũ và mới. Một bằng chứng cho thấy, sau ngày mất nước, các bộ trưởng, dân biểu, quan chức cũng như các tướng lãnh lên đường đi tù ra Bắc, vợ trong Nam phải buôn thúng bán bưng nuôi con, có người phải bán ngay cả đồ đạc trong nhà để đủ tiền đi thăm nuôi chồng một vài chuyến. Hơn nữa, sau ngày mất nước các lãnh tụ cũng như hàng ngàn cựu quan chức, tướng lãnh ra định cư nước ngoài, đến xứ người họ cũng sắp hàng đi lãnh trợ cấp. Trong số nầy không biết có cò mồi Kỳ hay không !

Có một thời gian người ta bàn tán đến mấy chục tấn vàng do cựu tổng thống Nguyễn văn Thiệu mang đi làm của riêng vào phút chót trước khi Cộng sản tiến chiếm miền Nam. Lúc còn sống không nghe cựu tổng thống Thiệu thanh minh đính chính. Nhưng dưới bầu trời tự do không có gì có thể bưng bít sau một thời gian dài, chuyện gì cũng được phơi bày ra ánh sáng. Cựu tổng thống Thiệu không thể tay xách vai mang số vàng một mình mà, nếu có thật, thì phải cần một đoàn người tiền hô hậu ủng để hộ tống vàng bằng một chiếc máy bay lớn. Chuyện ăn lén đã qua tay hàng chục người trước sau gì cũng đổ bể, đám đàn em của cựu tổng thổng Thiệu vì lòng tham và ganh ghét mà tố giác lẫn nhau, nhất là cò mồi Kỳ là người có nhiều ân oán với ông Thiệu, nếu không được chia chác thì tên cò mồi nầy đã nhảy đỏng lên tố cáo từ lâu.

Nhưng chuyện vàng vẫn chìm xuồng cho đến lúc cựu tổng thổng Thiệu qua đời thì đùng một cái, báo chí đăng tin cho biết chính ông Bùi Tín xác nhận, bộ chính trị trung ương đảng Cộng sản đã cho nhiều chuyến bay chở cấp tốc toàn bộ số vàng trong ngân khố chính phủ miền Nam ra Bắc ngay trong ngày 2, 3 tháng 5 năm 1975, trong đó gồm số vàng nói trên, và những tay trong bộ chính trị trung ương đảng cấu kết chia nhau bỏ túi. Bây giờ chúng tôi đưa ra yêu cầu : Hãy trả lại số vàng cho dân chúng miền Nam.

Xét về một phương diện khác, Việt Nam đổi mới, dù việc đổi mới chỉ là một phần nhỏ và nằm trong một khía cạnh nào đó thì ít ra một số người dân bình thường thấp cổ bé miệng nhân cơ hội nầy cũng kiếm được miếng cơm manh áo. Trong số này là đồng bào miền Bắc đáng thương, họ qua được kiếp nghèo khó sau hơn hai chục năm đói rách dưới bàn tay sắt máu của Cộng sản. Tiếp đến, gia đình thân nhân của Việt kiều trở thành ‘gà đẻ trứng vàng’ có phương tiện sống nhờ những liên hệ ruột thịt từ nước ngoài, và sau cùng, một số ít người thành thị có cơ may ăn nên làm ra tránh được cảnh nghèo đói. Nhưng mỗi lần nghĩ đến quê hương đau thương, đến những đại đa số người dân hiền lành chất phác còn đói khổ, những người thua trận sa cơ thất thế, những người bị trị trong vòng kềm kẹp thì những ai còn nặng lòng với đất nước không thể nào tránh khỏi những giây phút xao xuyến suy tư.

Tóm lại tám mươi phần trăm dân chúng Việt Nam đâu cần nhà lầu hai ba chục từng, khách sạn năm sao, cửa hàng sang trọng, vũ trường quốc tế, trường đua tân tiến…mà họ chỉ ao ước những chuyện rất tầm thường : Ngày hai bữa no bụng, đau ốm có nơi chăm sóc chửa trị miễn phí và trẻ em đến trường không phải đóng tiền học. Ba vấn đề căn bản và cần thiết để phục vụ con người sao không thấy đổi mới mà đời sống dân chúng càng ngày càng đi vào lạc hậu. Thật ra những hạ từng cơ sở đổi mới hiện nay chỉ là những cơ quan kinh tài của chế độ và mục đích phục vụ cho giới tư bản đỏ. Nếu những ai ca tụng những gì tại Việt Nam hiện nay tức là vô tình trở thành những người tuyên truyền không công cho Cộng sản.

HÒA GIẢI HÒA HỢP

Một chiến dịch đã được Cộng sản Hà Nội và những tay cò mồi trong cũng như ngoài nước, những tên năm vùng và những anh chính trị gà mờ ở Mỹ tung ra để mưu đồ một một giải pháp chính trị hầu cứu vãn chế độ Cọng sản đang trên đà tuột dốc. Từ chiêu bài ‘kiềng ba chân’ Hà Nội đã chuẩn bị giải pháp nầy từ năm 1995 để đánh lừa cụ Hoàng Minh Chính, (một người thiết tha tự do, nhưng rất tiếc đã mất niềm tin của một số người ái mộ sau chuyến đi Mỹ của cụ) đưa qua bày hàng tại Mỹ trong năm vừa qua, đến ‘thế hai cẳng’ do cò mồi Nguyễn Cao Kỳ sau hai năm học tập trong khách sạn, về Mỹ vội vàng đưa ra họp báo thăm dò dư luận. Nhưng cộng đồng người Việt tự do đâu ngu xuẩn như cò mồi Kỳ đã ám chỉ trong bài phỏng vấn, họ dù ở phe cánh hay đảng phái nào cuối cùng cũng sáng suốt vứt ngay hai lá bài ‘kiềng ba chân’ và ‘thế hai cẳng’ vào ngay sọt rác.

Cộng sản Hà Nội đã tính, hai lá bài ‘Ba chân’ hay ‘Hai Cẳng’ trước sau gì cũng quy về nằm gọn trong tay của bọn chúng. Hà Nội lộ ra bộ mặt khôn lỏi khi đưa ra giải pháp ‘ba chân’, gồm chính chúng nó và hai nhóm trí thức trong và ngoài nước. Trí thức trong nước thì gồm đa số đang cúi đầu hưởng lộc, bám sát đáy quần Cộng sản sẽ là chân thứ hai. Giới trí thức chống đối thì bị cô lập, tù đày, cơm không có ăn áo không đủ mặc, miệng bị khóa, còn ai để đại diện cho người dân thấp cổ bé miệng. Trí thức nước ngoài thì chúng biết rằng không thể bịp bợm qua mặt một cách dễ dàng, Hà Nội chỉ còn nhắm vào mấy tên đón gió, núp bóng cò mồi, chính trị gà mờ sẽ ‘hồ hởi’ sẽ chạy theo. Chúng tính toán kỹ, đường nào giải pháp ba chân do cụ Hoàng Minh Chính hô hào cổ võ cũng quy tụ được tay sai của chúng nhằm chống đở cho quyền lực và tạo cơ hội huênh hoang với thế giới bên ngoài bằng giải pháp hòa giải hòa hợp dân tộc.

Sau khi thất bại thế ba chân, Hà Nội quay qua dùng cò mồi Kỳ, đánh bóng thành nhân vật chính trị quan trọng và phong cho Kỳ nhiệm vụ ‘đại diện nhân dân miền Nam’ để chiêu dụ dân trong nước và thăm dò phản ứng Mỹ cũng như cộng đồng người Việt. Cò mồi Kỳ được cấp đầy đủ phương tiện du hí và hưởng lạc, được đặc ân ‘học tập’ trong khách sạn năm sao. Sau hai năm thông suốt thế ‘Hai Cẳng’ cò mồi Kỳ được lệnh trở về Mỹ họp báo ra chiêu, nhưng chẳng làm nên trò trống gì khi kêu gọi một chế độ lưỡng đảng cho Việt Nam. Trong đó một đảng là Cọng sản, một đảng sẽ do Kỳ lãnh đạo trong bóng tối (Kỳ xác nhận nhiều lần vì sức khởe không ra mặt). Kỳ sẽ tuyển chọn, cân nhắc và giới thiệu đàn em với Hà Nội, bước đầu từ dân biểu quốc hội tiến đến việc thành lập chính phủ lưỡng đảng. Thì ra ‘ba chân’ hay ‘hai cẳng’ đều là giải pháp để chống đở cho đảng Cộng sản trước ngày xuống lỗ. Cộng sản Hà Nội, theo cò mồi Kỳ, (có lúc nổi máu cao bồi lên Kỳ không kiểm soát được lời nói của mình) đang chết đói, cần phải hợp tác đưa tiền đưa của và chất xám về giúp đảng. Đúng là cao bồi ngây thơ khi vô ý phóng ra câu nầy. Đảng Cộng sản đâu chết đói, chúng đã quá no nhưng lòng tham vô đáy, vẫn kêu gào tiền của Việt kiều để vơ vét chuyến chót trước khi đâm đầu tháo chạy.

Thù hận, chống đối quá khích

Nhiều người trong đó có một vài nhà trí thức, những tay chính trị đón gió, bọn cò mồi và những tên nằm vùng thường lặp lại luận điệu của Hà Nội cho rằng, một số người Việt trong cộng đồng hải ngoại vẫn còn mang thù hận trong lòng và thường quá khích chống đối Việt Nam. Chúng tôi mượn trang giấy nầy để trả lời rõ ràng và dứt khoát như sau :

Đừng bóp méo sự thật, chúng tôi không thù hận Việt Nam, hay nói thật chính xác và rõ ràng hơn, không thù hận Đất Nước, không thù hận bất cứ người Việt Nam nào dù là Bắc hay Nam, mà chỉ mục đích chính là hô hào cổ võ để đánh đổ cho bằng được những tay đầu sỏ trung ương đảng Cọng sản và chính quyền Hà Nội. Bọn chúng chỉ là một tập đoàn nhỏ, số lượng đếm trên đầu ngón tay nhưng từ mấy chục năm qua đã luân phiên cai trị, đàn áp bóc lột tám chục triệu người vô tội. Những đảng viên cấp nhỏ, sĩ quan quân lính trong quân đội chính quy, trong đạo quân công an kềm kẹp, anh chị em công nhân viên nhà nước đều là những người đáng thương, chẳng qua vì sinh kế và mạng sống buộc họ phải phục tùng. Đối tượng của người Việt tự do chính là những tay đầu nảo Cọng sản cần phải đạp đổ để dành lại tự do hạnh phúc cho toàn dân chứ không phải là người Việt gốc miền Bắc cũng như cán bộ công nhân viên cấp nhỏ của nhà nước.

Ai căm thù ai ? Ai vẫn xử dụng trò đểu giả để lừa bịp dư luận ? Hà Nội thuờng rêu rao một số ngưòi Việt nước ngoài vẫn còn căm thù và được nhóm người nằm vùng, đón gió trở cờ lợi dụng diễn đàn tự do kêu gọi hãy tha thứ quên đi quá khứ để bắt tay hòa giải. Chúng tôi thấy làm lạ khi Hà Nội vẫn còn dùng những nơi trưng bày tội ác Mỹ-Ngụy để rêu rao bôi xấu chế độ tự do và luôn luôn lợi dụng các dịp lễ lộc để khơi lại căm thù…Chiến tranh nào không tàn bạo, không đổ máu không chết chóc.Tội ác do Cộng sản gây ra tại miền Nam hàng hà sa số gấp ngàn gấp vạn lần những gì do Đồng minh và Việt Nam Cộng hòa gây ra vì nhầm lẫn hoặc trong tình thế bắt buộc khi đối đầu với chiến thuật dã man của Cọng sản là trà trộn trong dân và lấy dân làm bia đở đạn. Chỉ một vài bức hình như cảnh một bé gái chạy giặc trong vụ Mỹ đánh vào một khu xôi đậu ở miền Trung hoặc tên đặc công bị một vị chỉ huy Cảnh sát bắn bỏ ngay giữa đường phố, Cộng sản Hà Nội và tay sai thường đưa lên các cơ quan truyền thông quốc tế. Hình ảnh nầy đâu có thể so sánh cảnh hàng ngàn người dân vô tội bị chúng chôn sống tập thể trong Tết Mật Thân 1968, những cảnh hàng trăm thường dân bị pháo giết hại hoặc cảnh những tên đặc công ném mìn lựu đạn vào giữa chợ búa lúc đông người. Cũng chưa đủ Hà Nội dùng đủ phương tiện để vận động Mã Lai đập bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân tại quốc gia nầy là một hình thức gây hấn, chà đạp lên sự đau khổ của những người đã trốn chạy chế độ khát máu lúc chúng vừa kéo vào ngự trị miền Nam.

Bề mặt vuốt ve Việt kiều nhưng Hà Nội vẫn đểu giả huấn luyện hàng ngàn người, gởi ra xứ ngoài để tuyên truyền gây chia rẻ và phá hoại. Chúng dùng tiền của Việt kiều để gầy dựng cơ sở, nuôi dưởng và yểm trợ bọn nằm vùng để phá lại cộng đồng người Việt tại các xứ tự do.

Thù hận chất hứa trong lòng, ai hơn ai ? Đối với người Việt tự do xứ ngoài, người Việt Nam đều là anh em máu mủ, từ Nam chí Bắc, từ chị nông dân đến ngay cả anh bộ đội, cán bộ, công an nhà nước. Tất cả đều là nạn nhân bị tập đoàn Cọng sản mượn danh rồi bóc lột lại chính họ đến tận xương tủy. Chúng tôi không hận thù, không quá khích mà dùng phương tiện báo chí truyền thông để lột mặt nạ và dùng ngòi bút đánh cho bằng được đám người cầm quyền. Chúng chỉ vỏn vẹn vài ba trăm trong bộ chính trị trung ương và guồng máy hành chánh, nhưng đã thay phiên nhau trị vì trên mồ hôi nước mắt và xương máu của nhân dân Việt Nam từ hơn năm chục năm nay (1954-2006).

Bỏ qua, hợp tác và xây dựng

Trong bài trả lời phỏng vấn tuần báo weekly, cò mồi Nguyễn Cao Kỳ đã nhắc đi nhắc lại rằng chúng ta nên bỏ qua để hàn gắn vết thương dân tộc sau ba mươi năm đau thương. Chúng tôi đồng ý hận thù nào cũng phải biến dần theo thời gian, đau buồn nào cũng phai nhạt theo ngày tháng, nếu hai đối tượng có thiện chí để nối lại vòng tay. Điều quan trọng và cần thiết để mở đầu trang sử mới là kẻ gây ra tội ác phải biết nhận trách nhiệm và phần lỗi về mình, cụ thể bằng những lời xin lỗi chính thức, bồi thường chiến tranh hay bày tỏ thiện chí dưới nhiều hình thức nào đó. Chuyện nầy đâu mới lạ gì, lịch sử đã chứng minh cho chúng ta ngay từ thời trung thượng cổ đến hai trận thế chiến hay những cuộc chiến tranh trong thời gian vừa qua. Đàng nầy Cộng sản cứ lên tiếng kêu gọi bỏ qua để hợp tác trong lúc họ vẫn ngang nhiên xem những thành phần chế độ cũ là thù địch, vẫn ngang nhiên đàn áp bốc lột tận xương tủy của nhân dân miền Nam, vẫn ngày đêm tuyên truyền bôi nhọ phá rối Cộng đồng người Việt nước ngoài, thì thử hỏi Hà Nội còn chút liêm sĩ gì khi đề nghị xóa bỏ bất đồng trong quá khứ ?

Sở dĩ Cộng sản và cò mồi đàn em chịu xuống nước van xin tất cả hãy bỏ qua quá khứ cùng nhau hợp tác và xây dựng đất nước vì chúng cần giải quyết ba vấn đề :


1. Chế độ Hà Nội đang trên bờ vực thẳm : Chủ thuyết Cộng sản đã bị đào thải từ khuya, Liên sô và khối Đông Âu đã liệng vào sọt rác không thương tiếc. Thế giới chỉ còn bốn xứ lì lợm trong đó có Việt Nam, vẫn ngoan cố dùng bao tử con người, hàng rào kẽm gai và vũ lực súng đạn làm phương tiện đàn áp, bám lấy danh lợi, ngự trị ngai vàng từ đời cha đến đời con cháu. Một chủ thuyết không nhân bản không tình người, đi ngược với trào lưu văn minh tiến bộ và phát triển khoa học kỹ thuật nhưng Cộng sản Hà Nội vẫn hy vọng giải pháp hòa giải hòa hợp với đồng ngườiViệt tự do để cứu vớt đảng cộng sản và giúp chúng vững chắc trên ngai vàng. Hơn nữa tình hình chính trị trong nước đã bắt đầu biến chuyển mạnh mẽ, trong nội bộ chia thành nhiều nhóm, dân chúng đã tỉnh thức bất chấp súng đạn xuống đường đòi quyền sống và nhất là thành phần trẻ nòng cốt tương lai của chế độ đã đặt vấn đề với chính phủ qua nhiều truyền đơn, đình công xuống đường.

2. Áp lực quốc tế về kinh tế và nhân quyền. Quốc tế áp lực mạnh trên các vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo qua các quan hệ giao dịch trao đổi thương mãi. Cộng sản Hà Nội bị dồn vào giữa chân tường buộc lòng phải kiếm một lối thoát : Đó là lấy Cộng đồng người Việt tự do hải ngoại làm bia chồng đở bằng cách hòa giải hòa hợp với các thành phần của chế độ cũ Việt Nam Cộng Hòa.

3. Hợp thức hoá tham nhũng và tiếp tục rút ruột Việt kiều : Tham nhũng không cần biết đến hậu quả, Cộng sản vơ vét tài nguyên của cải như một đám ăn mày lọt vào nhà phú hộ, lớn nhỏ gì nhắm mắt cũng nhét đầy túi.

Hơn ba mươi năm qua chiếm đất chiếm nhà, xem tài sản của dân chúng và đất nước là của riêng, ngang nhiên phân phối cho gia đình, bán cho ngoại quốc và cất giấu ở nước ngoài. Đến nay thì dân chúng đã bừng tỉnh, xem thường súng đạn và bắt đầu đứng lên để chất vấn đòi lại. Tức nước vỡ bờ, một ngày nào đó, những thành phần mà Cộng sản thường đề cao là nòng cốt của chế độ sẽ gậy gộc xâm vào phủ bí thư, phủ chủ tịch để hỏi tội. Hà Nội đã thấy trước ngày nầy đành xuống nước hô hào tiếp tay giúp sức của chế độ cũ mà nòng cốt là cộng đồng người Việt tự do hải ngoại. Nếu trong nước không còn một thân nhân nào của những người đã ra đi thì chắc chắn Hà Nội không kiến được một đồng xu của Việt kiều. Phải nói thẳng ra rằng bốn tỷ dollars của Việt kiều gởi về hằng năm không phải để xây dựng đất nước hay tiếp tay cho Hà Nội mà vì mạng sống, cơm ăn áo mặc cho gia đình thân nhân còn kẹt lại. Hà Nội biết rõ điều nầy nên vẫn bày những trò đểu giả gọi Việt kiều là ‘khúc ruột ngàn dặm’ và xem thân trong nhân trong nước là ‘gà đẻ trứng vàng’. Một ngày nào đó Việt kiều đồng loạt ngưng gởi tiền về thì Việt Kiều sẽ được đổi tên thành bọn ‘Việt kiều phản loạn’ và thân nhân trong nước biến thành ‘sâu bọ ăn bám’, và dĩ nhiên sẽ bị gậy lên đường đi kinh tế mới. Tiền tham nhũng gởi ra nước hàng chục tỷ dollars nhưng Cộng sản Hà Nội vẫn tìm mọi cách kích động lòng nhân đạo thế giới, nhân danh xây dựng tái thiết đất nước, cứu đói giảm nghèo, chận đứng bệnh tật, mở mang trí tuệ để vay mượn vô tội vạ hàng chục tỷ dollars. Nợ nầy chưa trả đồng nào đã chồng thêm nợ khác, mai kia bị hạ bệ, những tay lãnh đạo bôi mặt đổi tên chui rúc xứ ngoài, ai là kẻ phải gánh chịu hậu quả nầy ? Xin thưa, đó là con cháu của chúng ta !

Khi đưa ra lời kêu gọi tha thứ và hợp tác, người Việt tự do nước ngoài đã thấy ngay thâm ý Cộng sản muốn mượn chiếc dù để xí xóa bỏ qua việc tham nhũng đồng thời hợp thức hóa việc ăn cắp vĩ đại của chúng. Chúng biết rằng một khi xuống ngựa nhân dân miền Nam sẽ hỏi tội và yêu cầu quốc tế niêm phong những số tiền bất chánh trong các trương mục ngân hàng. Thứ khôn lỏi nầy chỉ bịp được những tay chính trị gà mờ như cở cò mồi Nguyễn cao Kỳ mà thôi.

Tóm lại, người Việt tự do hải ngoại không thể nối giáo cho giặc. Chúng là những con rắn độc loài người không thể ngồi chung một chiều chứ đừng nói đến bắt tay hòa giải cọng tác. Không thể giúp chúng hợp tức hóa những gì đã vơ vét của nhân dân của đất nước mà phải bắt chúng trả lại những gì của miền Nam cho miền Nam. Cũng không thể bắt tay phục hồi sức lực để chúng tiếp tục đặt ‘búa rìu’ trên mảnh đất thân yêu Việt Nam.

Muốn hòa giải hoà hợp dân tộc, Cộng sản Hà Nội phải tỏ thiện chí trước bằng cách trả lại những gì đã vơ vét của dân chúng cũng như tài nguyên của đất nước để chuộc lỗi lầm của mình bằng cách : Thu hồi những số tiền khổng lồ trong các trương mục để xây cho dân nghèo vài trăm bệnh xá nhà thương, vài ngàn trường trung tiểu học rải đều trên toàn lãnh thổ từ Bắc chí Nam, đồng thời miễn phí hoàn toàn cho dân nghèo có phương tiện săn sóc chửa trị mỗi khi đau ốm và trẻ em có nơi học hành miển phí. Dự án thì lớn nhưng chẳng thấm vào đâu so với những số tiền mà đảng đã móc túi, chỉ nói riêng về khoảng tiền Hà Nội rút ruột Việt kiều mấy chục năm qua thì cũng chưa đáng gọi là muối bỏ biển.

Kết luận

Nhiều người trông chờ một vài thay đổi sau Đại Hội X của Cộng sản nhưng cá nhân tôi chắc chắn không có gì mới lạ. Chỉ là chuyện xay vần nội bộ của tập đoàn Cộng sản, thay đổi nhân sự luân phiên nắm quyền cai trị. Trước sau gì cũng những bộ mặt quen thuộc trong bộ chính trị, phe nầy đã no đủ rồi thì nhường chỗ cho phái kia đến phiên nhảy lên vơ vét. Đàng nào cũng những bộ mặt thiếu khả năng, tham lam vô độ trong đảng Cộng sản lên nắm bộ máy độc tài tham nhũng, trước sau gì cũng đưa dân tộc Việt Nam vào con đường đi ngược với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Họa chăng sẽ có một vài thay đổi nho nhỏ vá víu hầu tìm con đường sống, nhưng cốt lỏi Cộng Sản vẫn là Cộng Sản. Mà đã là Cộng Sản thì không bao giờ có thể hòa giải hòa hợp, chung vai sát cánh với Tự Do. Giữa hai đối thủ chỉ con đường độc nhất là ‘Một Mất Một Còn’, đó là điều khẳng định như đinh đóng cột. Điều mong ước ngày đêm của chúng tôi là một cuộc thanh toán nội bộ, không ồn ào không đổ máu, nhanh chóng và hiệu quả như một cuộc cách mạng xanh mà Liên sô cũng như các xứ Đông Âu cũ đã làm.

No comments:

Blog Archive