Ăn Cơm Mới, Nói Chuyện Cũ - Vương Hồng Sển (1902-1996)
Học giả Vương Hồng Sển với sách của ông
Người Tàu sống chung với dân ta từ nhiều thế kỷ, nhưng các bạn có biết người Triều Châu sống ra sao? Người Quảng Đông sống thế nào? Và người Phước Kiến làm ăn cách nào? Muốn biết hãy chịu khó theo tôi tìm hiểu. Từ ngàn xưa phương pháp vẫn không đổi. Có đổi là đổi danh từ, thay vì gọi Tàu, Chệt, Khách, thì gọi thanh bai hơn là "người Việt gốc Hoa". Chớ làm sao đổi được lòng người?
Phương pháp ấy là nuôi mộng: ban đầu là một cái lều con ở tận mũi Cà Mau xa mú tí tè, mặc cho đỉa đeo muỗi đốt, tụ tiểu thành đa, cách vài chục năm sau dời cái lều lên Chợ Lớn biến thành một cái lầu chọc trời có máy lạnh và có nhạc lùm tùm xùm.
1. Người Phước Kiến: có vẻ thanh bai nhứt. Uống trà quạu, mà hút nha phiến cũng đậm. Hòn Vũ Di Sơn (ở Nam Bình, phía bắc tỉnh Phúc Kiến bên Tàu) là của họ, mà giao thiệp đầu tiên với bọn nha phiến Ăng-lê bên Tàu cũng là họ.
Ở đây họ chuyên nghề mua lúa chà ra gạo. Ở tỉnh thì làm chủ chành lúa, ở Chợ Lớn - Bình Tây thì nhà máy xay của họ là phần nhiều. Người họ mảnh mai, vóc cao mà ốm. Gần hết đều sói đầu, không sói thì đầu phải có chốc. Xưa họ dám tự hào: "Không chốc trên đầu, chưa phải là người tỉnh Phước, chưa phải con cháu dòng Minh Thái Tổ, lên ngôi xưng hiệu là "Hồng Võ" (1368-1398). Nhưng ngày nay tắm gội mỗi ngày có mỹ nhơn xức nước hoa đắt tiền, làm gì còn các quốc túy "xái thạo Hồng Bú" (xài dầu Hồng Võ)?
Tôi là con cháu người tỉnh Phước, tôi nói ra đây xin ai đừng vội giận. Những tánh tốt của người đất Mân (閩 Mân vào thế kỷ thứ 10 là một nước nhỏ, xa xưa nữa thời Chiến Quốc là Mân Việt 閩越, nay là địa bàn tỉnh Phúc Kiến) dư che tiểu tật, tánh tôi ưa nói pha lửng, giận thì để bụng.
Vả lại đây là tranh chấm phá, việc khen "phò mã tốt áo" tôi cho rằng thừa. Món ăn của người Phước Kiến gồm hải vị nhiều hơn là sơn trân, vì ta chớ quên xứ của họ ở gần duyên hải. Ai có nếm "tàu hủ thúi như phổ mác" (phổ mác "fromage" tức là phô mai) chưa? Ngon vô cùng, ăn rồi nhớ mãi. Nhưng thiện nghệ nhứt là thuật nấu đồ chay theo phái minh sư. Thiếu Lâm tự và môn võ thuật tuyệt luân "võ Thiếu Lâm" cũng ở trong vùng Phước Kiến. Thêm giỏi nghề vẽ vời, viết chữ đại tự. Các tiệm bán trà trong Chợ Lớn, hộp nào cũng có phóng bút đỏ xanh, hỏi ra đều gốc Phước Kiến.
Nói nhỏ: bán ve chai làm giàu cũng họ. Quách Đàm ngày xưa là ông vua. Nói luôn: vì họ ham gần cô Nha phiến, hễ khá thì hút, nên dân Việt ngày xưa ít gả con cho họ, duy người Miên lại thích, khen mặc dầu ghiền nhưng biết trọng chữ tín hơn ai. Có con gả cho bọn Phù dung, không bị bỏ xó, thì cũng chẳng nên cơm cháo gì. Có câu ví, nhưng hơi tục: "Địt như chệc".
2. Người Quảng: Xin đừng lầm với dân Ngũ Quảng ở miền Trung. Quảng ở đây là Quảng Đông, xứ của ông Triệu Đà. Người Quảng phần đông làm chủ các hiệu cao lâu lớn, ăn mỡ thật nhiều, đa số bụng phệ, ngày xưa đại đa số rất thích ở trần phơi rún sâu và đặc biệt nếu đi dép thì quét sạch sân nhà, còn khi đi guốc hoặc giày đế cứng thì họ kéo họ lê họ khua cho thật kêu họ mới bằng lòng.
Không tin cứ vô Chợ Lớn giờ tan ciné và hãy xem thềm lát gạch bông đã mòn thế nào thì biết. Hình như bài matjong (mã chược), bài thín cẩu (thiên cửu) đều là của dân Quảng sáng chế; muốn chơi nó, không phương nào lọt khỏi tai thính của cảnh sát và đối với dân Quảng, cái gì không rầy rà không điếc tai là họ không ưa.
Nhạc Quảng nội một cái phèng la cũng đủ bịt lỗ tai, tà ma phải vắt giò bỏ chạy. Còn cái trống bắc cấu (bác cổ), không biết họ dùng thứ da gì, luôn cả cây đờn tam huyền (đờn tam), mỗi lần trống xổ đàn khua, thì ông cha mồ tổ luôn con ráy cũng muốn rời lỗ tai để tản cư nơi khác. Người Quảng Đông là dân tỉnh thành (xẻn xèn) nên thiện nghệ về ăn.
Mì, hủ tiếu, bò vò viên, hà hứ, ầm cối quảy (Tần Cối quỷ) kêu trại ra dầu cha quảy (油炸鬼 du tạc quỷ tức quỷ bị thiêu ám chỉ Tần Cối), đều của họ. Đồ vàng nữ trang, vải lụa, đồ gỗ đồ mộc đắt tiền đều bởi họ làm. Họ giỏi chịu đựng, khó nhọc khổ tâm cách mấy cũng không nệ hà. Bán ra một cái tủ sắt chẳng hạn, nếu lao công cu li hè hụi khiêng không nổi, thì a-lê-húp, xì thẩu chủ tiệm cởi áo ra tiếp sức, không như đồng bào ta vừa da mắt bớt tái, làm ăn vừa khá, thì lên chưn lo sắm ô tô hay cô vợ bé. Người mình làm chủ tiệm mà khách lầm (gọi) "Ê mầy! Ê kia!" thì "Mầy sẽ biết tay tao!".
3. Người Tiều: Trong tập tôi không nói đến người Bắc Kinh, người Tô Châu, vì họ qua đây rất ít, tôi không dám nói càn. Tôi xin nêu ra một sắc dân điển hình dễ chung đụng và dễ dung hoà với chúng ta, đó là người Tiều. Tiều đây xin chớ nhầm lẫn với tiều phu đốn củi.
Đây là một cách gọi tắt, vì làm biếng, của dân miền Nam, nhứt là giọng dân Chợ Lớn, để chỉ định người Triều Châu (潮州 Teochew, nay là một thành phố nằm phía đông của tỉnh Quảng Đông, cách ranh giới tỉnh Phúc Kiến khoảng 60 km về hướng đông bắc), bởi tiếng phát âm cho đủ chữ và gọi như thế cho khỏi đánh vần chữ "r", khỏi líu lưỡi đỡ ê răng. Và tôi xin thuật một chuyện đã xảy ra cho tôi, tuy mới đây nhưng dung tả được người Tiều xưa nay không thay đổi.
Năm ấy, 1946, tôi chạy tản cư xuống Hoà Tú (Sóc Trăng) rồi xuống Bạc liêu và đi lạc vào vùng ruộng muối, đóng dàn theo bờ biển, ngó xa mú tí tè toàn là một màu trắng phếu như ai lấy bông gòn trải đầy mặt đất, và không có một bóng cây che nắng.
Mà phải biết vào mùa hạn khô như vầy, cứ đếm mỗi một ngày nắng ráo như thế nầy, muối trên ruộng lọt vô túi các chủ sở bạc ức bạc triệu chớ không chơi. Và hễ trời âm u không nắng thì họ rầu thúi ruột non ruột già, vì thiếu nắng thì muối không thành muối.
Và lạ thay cái xứ giàu muối ấy lại khan hiếm nước mưa để uống và nước mưa ở đây quý giá hơn bạc hơn vàng. Nhắc lại lần nữa, tôi đã nói mùa khô ráo vô bạc triệu cho chủ kho muối, vì hễ nắng càng gắt thì càng làm cho nước mặn trên ruộng mau bay hơi, mau khô và trở thành muối hột. Trái lại nếu trời chuyển mưa hay âm u vần vũ thì nước lâu bốc hơi, muối tự nhiên lâu thành hình.
Người phu làm muối ở Bạc Liêu chuyên đi gánh muối ngoài ruộng phần đông là người Tiều tức là người Tàu ở phủ Triều Châu, quen nghề rẫy bái, qua đây vì ít vốn nên buổi đầu không làm nghề buôn bán như dân Quảng Đông, dân Phước Kiến, và họ lựa nghề làm rẫy trồng rau tưới cải, v.v... không cần có vốn nhiều.
Họ chịu khó, xuống tận Cà Mau ra đến hải đảo cù lao trồng khoai lang rồi sắm ghe cà vom chở khoai bán khắp vùng Hậu Giang, hốc kẹt nào cũng tới. Họ trồng dưa nơi mé biển, phơi tôm khô, trồng nhãn, và nếu nghèo lắm thì nhào vô ruộng muối gánh muối cho Hội đồng Trạch (Trần Trinh Trạch), Hoàng Dù Kia (Huỳnh Như Gia), công tử Dù Hột (Huỳnh Như Phước) vân vân. Ở ruộng muối vì ít người lai vãng, họ đóng khố, tối ngày "lù coi", hoặc vận quàn xà lỏn (tà lỏn, tiếng Pháp pantalon) , luôn luôn họ để mình trần như nhộng, vì bận áo quần vào hơi muối bám rít làm sao chịu nổi thêm áo quần mau mục rách.
Người Tiều có tính hiếu khách. Khi nào gặp họ, xin họ một bữa cơm, họ sẵn lòng không tiếc. Nếu muốn ăn dưa tại chỗ, ăn mấy trái họ cũng vui lòng và không tính tiền, ta vào vườn nhãn hái trái ăn no bụng họ cũng không hề cự nự, duy phải nhớ trái nào món nào mình xách trên tay đem về thì họ tính tiền rắc rắc.
Tánh họ hào hiệp làm vậy, nhưng đến khi mình vào ruộng muối thử thời xin họ một gáo nước uống giải khát, chính tôi bữa ấy gặp một thằng tửng con, nó trả lời làm vầy: "Lứ (ông) xin mí cái? Lứ xin nước mưa để uống hả? Ở đây hóa (tôi) không có nước mưa để rửa dái (ngoại thận), làm sao có nước mưa cho lứ uống?". Nghe vậy giận quá, ước sức muốn tát cho nó một bốp tai thật đau để sau chừa tật ăn nói không lựa lời, nhưng khi chủ nhà cắt nghĩa lại thì thương chú tửng con nầy quá, vì nước mưa đối với họ là thuốc tiên chớ không vừa.
Mùa mưa cũng như mọi nơi, ở đây họ hứng để dành dùng qua tới mùa hạn. Kẻ giàu thì xây hồ xi măng cốt sắt thật lớn để chứa bộn bề, nhưng nước chứa hồ xi-tẹt họ không thích mấy, chê không ngon ngọt bằng nước mái nước lu không có mùi xi măng cưng cứng và uống vào mát lạnh, nước tới đâu mát tới đó, đã khát còn hơn uống nước dừa xiêm.
Gặp mùa hạn kéo dài, nước chứa đã cạn, khi ấy dẫu bốn năm đồng bạc (bằng cả ngàn đồng ngày nay (thập niên 60)) giá mỗi thùng thiếc đựng mười tám lít, họ cũng không tiếc tiền và cố mua cho được để mà dùng. Hiện thời đã có người thấy xa biết dùng ghe lớn chở nước ngọt sông Cái Cồn, Cái Cau miệt Kế Sách đem xuống đây bán, gọi "đổi nước" (vì tránh chữ "bán nước" nghe trái tai). Nhưng cho đến bao giờ, người phu làm muối vẫn đổi nước sông để uống để ăn và luôn luôn họ để dành nước mưa để "làm thuốc", và bởi thế mới có câu trả lời cộc lốc của chú tửng con bên Tàu mới qua nầy.
Số là khi ban ngày phơi lưng kệch ra gánh muối ngoài nắng, hơi nước mặn bốc lên vùn vụt gặp da thịt chỗ nào có mồ hôi ướt ướt thì bám vào khiến nên những nơi lắt léo, như nách non, khoé mắt, khớp cùi chỏ, khớp đầu gối, kẹt háng, kẽ bẹn, đều có muối bám vào, nếu không tẩy sớm thì muối ăn nứt da thấu thịt, đau nhức lắm, và cái vị thuốc trừ muối ăn không gì khác hơn là nước mưa vậy.
Mỗi trưa giờ nghỉ hay chiều giờ về nhà thì phải có một chút nước mưa thấm bông gòn lau nhẹ những nơi muối đóng, lau cho sạch rồi thoa dầu dừa vào là êm mát như xưa, mà ác nghiệt thay phải đúng nước mưa rửa mới hiệu nghiệm. Không có nước mưa không lấy gì thay thế được, dẫu thuốc dán mát hay vaseline, pommade gì bôi vào cũng không linh ứng bằng. Cho nên khi chú tửng nói: "không có để rửa dái (ngoại thận)" là lời nói chơn thật chớ không phải nói đánh đầu.
Mà ngộ: người Tiều xấu xí ấy, là chỉ xấu xí bề ngoài, chớ bề trong họ có nhiều đức tánh để trở nên một người chồng tốt nhứt thế gian nầy. Họ hiền từ, giỏi giắn, biết nhịn nhục nhứt là có nước giỏi chịu cực hơn bất cứ ai.
Nhờ vậy mà người dân bản xứ, nhứt là người Miên lai và người Việt quê mùa củi lụt rất ưng ý có thằng rể Tiều và hễ có con gái giỏi thì dành gả cho họ, vì như đã nói hắn giỏi chịu đựng, dầu vợ có ăn hiếp họ vẫn cười hề hề, thêm họ có tánh biết cưng đàn bà, không cho vợ làm lụng nhiều sợ sẽ xấu xí đi, và bao nhiêu công việc đồng áng, gánh phân bón rẫy, cày cuốc, đổ thùng xí ban đêm, giặt rửa cho con, thảy thảy họ đều "bao sổ" cho nên con gái miền Tây có chút nhan sắc, tuy không nói ra, chớ gả cho Tiều là họ ưng liền, các con trai trong làng làm không lại Chệt.
Mà trời sanh điểm nầy mới lạ cho chớ. Bố là cha Tiều nước da vàng, hình thù lớn xương gần như thô, thế mà khi pha với máu mẹ là Thổ lai, vốn vóc dáng nhỏ con hơn Tàu, nhưng chắc da chắc thịt, chắc như cua biển Bạc Liêu đêm tối trời, tuy đen đúa nhưng duyên dáng, ngực phồng lưng eo, nên khi hai người ráp nhau, hễ sanh trai thì tuấn tú đẹp trai, bằng sanh gái, thứ gái "đầu gà đít vịt" ấy, thế mà chu choa, mũi nó cao và ngay như treo trái mật (nhại văn truyện Tàu), nước da vàng dợt và mịn màng như ngà lâu năm lên nước.
Ngực nở lưng ong, người thon thon dong dảy, cái đẹp lạ mắt nầy có phần lấn áp các cô gái vườn của đồng bào ta tuy vẫn đẹp không kém chút nào. Nhưng các trai làng không thích bằng vì thuộc thành phần đa số, không như cô gái "đầu gà đít vịt", không tốn tiền thuốc, gặp mưa gặp gió không bao giờ hề hấn, đẻ cả bầy mà thịt da săn cón như gái một con.
Gái Tàu lai có tánh thùy mị khả ái, giỏi nhịn chồng và không biết ghen xằng. Cô có cặp mắt phụng xiên xiên, quả là phụng nhãn của Hán Chiêu Quân, cặp phụng nhãn ấy lại đóng dưới đôi chân mày đều đặn như lá dừa mới trổ và mỗi lần rớm lệ, đôi má bỗng đỏ hây hây và đỏ tự nhiên chớ không phải vì năng lai vãng các lò "sát nhân" sửa sắc đẹp.
Đúng là tuyệt thế giai nhân, đẹp tự nhiên chớ không phải nhờ son phấn giả tạo. Đoá hoa lạ miền Tây ấy, khi cất tiếng lên hát, tượng trưng là cô Bảy Phùng Há, là những giọng oanh vàng của các ban hát Tiều nghe từ lúc nhỏ khi còn ở Sốc Trăng, vừa trong như ngọc vừa nhẹ nhàng như tiếng hạc trên mây, mới chết anh hùng cho chớ.
Nhưng nay đã khác. Những nhân vật tôi kể nãy giờ đã thuộc thế hệ ông bà chúng tôi lớp trước, chớ người Trung Hoa ở miền Nam ngày nay, cả nam lẫn nữ đã Việt hóa rất nhiều và đáng với dân ta bắt tay làm bạn đời đời.
No comments:
Post a Comment