Về U Minh !
Miền Tây quê mình, nói tới U Minh với Miệt Thứ là người ta nhớ liền tới rừng tràm bạt ngàn, nước đen hun hút, với con đường do tiền nhân khai hoang của còn vương bụi thời gian.
Hai chữ “U Minh” nghe nó đã lạnh gáy: u là tối, minh là mờ, ghép lại thành một vùng rậm rạp âm u, mặt trời chìm xuống chưa kịp thở đã thấy trời tối thui.
Ấy vậy mà nơi đó, biết bao phận người đã sống, đã thương nhau, đã dựng chòi, dựng nhà, dựng luôn cả cuộc đời.
U Minh chia ra U Minh Thượng (thuộc Rạch Giá) và U Minh Hạ (thuộc Cà Mau).
Rạch Giá thì chỉ đơn giản là con rạch mọc đầy cây giá. Cây giá đem làm củi thì cháy nghe cái “xẻo”, lửa không đượm bằng đước, mà củi đước đem hầm thì cho ra than đước đen thui – thứ than nghe tên thôi đã gợi câu ca dao thiệt mặn mòi:
“Trắng như bông lòng anh không chuộng,
Đen như cục than hầm lòng muốn dạ ưa…”
Cà Mau, theo tiếng Miên, nghĩa là nước đen. Nước đen vì lá tràm rụng xuống, mục rã rồi hoà vào dòng phù sa vàng đục, biến thành thứ nước sậm màu như ly sương sa bông cỏ mà mình ăn hồi nhỏ.
Nhà biên khảo Sơn Nam từng nói: “U Minh là vùng đen tối, mù mịt; như cõi u minh chốn địa ngục…” – nghe rờn rợn nhưng lại gợi cả một trời huyền thoại.
Thuở xưa, rạch đi ngoằn ngoèo như rắn bò. Hai bờ đầy dừa nước, cỏ lác, muốn bơi xuồng phải vẹt rậm rạp hai bên, vừa khoát chèo vừa lo rắn nước nằm vắt ngang thân cây. Trên là tràm, dưới là dừa nước, dưới nữa là bùn ngập chân. Không khí mờ mờ ảo ảo, mới xế chiều đã nghe tiếng vượn hú, chim kêu như báo giờ đóng cửa.
Đất Miệt Thứ trải dài từ sông Cái Lớn xuống tới An Minh, rồi men theo biển Rạch Giá mà quặt xuống Cà Mau. Người ta gọi là “Miệt Thứ” vì vùng này có mười con rạch xếp đều nhau: Thứ Hai, Thứ Ba… tới Thứ Mười Một. Lần hồi, “thứ” ghép với “miệt” giống như miệt đồng, miệt vườn – vậy là ra tên.
Đi Miệt Thứ, phải qua phà Tắc Cậu – thứ phà mà dân miền Tây nào cũng từng đứng chờ muốn mọc rễ. Đường đi từ Cần Thơ xuống Miệt Thứ có hai ngả: một là theo Kinh Xáng Xà No, qua Hai Ngàn – Một Ngàn (xáng Tây đặt tên nghe phát mệt), tới Vị Thanh rồi quẹo vô Minh Lương. Hai là đi ngả Thốt Nốt – Rạch Sỏi – Minh Lương rồi xuống Quốc lộ 63 qua phà Tắc Cậu.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, lộ phân chia rõ ràng: quốc lộ là con lộ bự nhất, tỉnh lộ nối tỉnh, hương lộ nối quận xuống xã. Nay lộn xộn số má tùm lum là tại mấy tay CS đổi tên.
Tới được Xẻo Rô coi như đặt một bàn chân vô Miệt Thứ. Cái tên Xẻo Rô nghe như tiếng nước róc rách, vậy mà đứng đó nhìn ghe xuồng đậu ken đặc hai bên rạch mà bóng người xưa mất hút bóng quê chồng.
“Trời mưa lâm râm ướt dầm bông sói,
Bậu đi lấy chồng sao chẳng nói qua hay?”
Dân Miệt Thứ xưa đa phần là người nghèo: kẻ trốn thuế thân, người trốn nợ điền chủ, trai gái bỏ nhà theo nhau, cặp thêm chiếc xuồng ba lá làm vốn liếng.
Rừng tràm thì bít bùng, dây choại mọc như mây, quấn lấy thân cây mà sống. Vậy mà họ cũng đốn dừa nước dựng chòi, bện dây cho ại đem bán, rồi dựng nhà, dựng xóm.
Sống giữa rừng U Minh cực mà khỏe. Chỉ cần khoét vài công ruộng cấy lúa mùa là có cơm ăn.
Cá đầy rạch, chim đầy trời. Mùa khô nước rút, cá chui xuống vũng, vợ chồng chỉ cần chống xuồng tới là có cái mà kho, mà ướp muối phơi làm khô, mà làm mắm.
Muốn nhậu? Dễ ẹt: vô rừng lấy mật ong bán lấy tiền mua rượu đế. Dân Miệt Thứ sống thoải mái kiểu:
“Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”
VC vô, bà con ngộp thở.
Nửa đêm, bao cặp vợ chồng chèo xuồng ra biển vượt vịnh Thái Lan qua Songkla tìm hơi thở tự do. Nhiều người tới Footscray – cái xóm nhỏ xíu như lỗ mũi – mà gom đủ cả U Minh vào đó: ông Tiều làng Vĩnh Thuận, Á xẩm lai Tiều ở Hỏa Lựu đẹp như tỳ nữ trên ánh đèn sân khấu.
Ai xa U Minh, Miệt Thứ cũng mang nỗi nhớ buồn thương
“Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?”
Người đi vượt biên qua Úc, vài năm lại gom tiền về thăm quê. Em cũng vậy, năm nào cũng rủ tôi về Miệt Thứ.
Tôi lắc đầu: “VC còn làm cha qua, qua không về!” – Em buồn nhưng hiểu: cha nầy thù dai thấy mẹ!
Ngày em về Miệt Thứ thăm quê, Footscray vắng hoe. Tôi ngồi làm ly Johnnie Walker mà thấy buồn muốn xỉu. Nhìn giàn bầu trước sân nhà, thấy giọt sương rớt xuống nghe như tiếng thở dài.
“Sương khuya ướt đẫm giàn bầu,
Bậu về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua?”
Đoàn Xuân Thu ( Tác giả )
No comments:
Post a Comment