Nhà thờ Sapa 1995 khi tôi đến
Đúng 30 năm trước, cuối tháng 12/1995, lần đầu tiên tôi đến thị trấn nhỏ bé và thật huyền hoặc trong sương này, sau mấy tháng rong ruổi ngao du Hà Nội, Lào Cai, vài tỉnh miền Bắc và một mình lang thang cả thị trấn Hà Khẩu bên Tàu.
Năm 1995, thị trấn Lào Cai đang như một đại công trường đang bắt đầu xây dựng lại, khắp nơi là những đoàn xe chở xi măng, sắt thép và các công trường ngổn ngang kiến tạo nền móng khu trung tâm.
Dấu vết sự tàn phá của quân đội Tàu từ năm 1979 vẫn đầy dẫy, ngôi nhà thờ chính của Lào Cai chỉ còn trơ một cây cột gẫy, những toà nhà xưa cũ chỉ còn là đống gạch vụn. Dễ hiểu vì Lào Cai là thị trấn sát mép biên giới Tàu và năm 1979 quân đội họ đã phá nát mọi thứ trên đất Việt trong phạm vi 5km từ đường biên giới...
Con đường nhỏ, bị hư hại với các đoạn đèo từ Lào Cai lên Sapa chỉ khoảng hơn 35km, nhưng chiếc "xe đò" nhỏ chở tôi đi phải mất hơn hai tiếng mới đến nơi và mỗi ngày chỉ có 1-2 chuyến, nhiều hôm không có chuyến nào do không có khách hoặc mưa bão quá to.
Chiếc "xe đò" trống trước, trống sau, thở phì phò, run cầm cập, bò chầm chậm ngược lên đèo. Lâu lâu bác tài phải chồm người ra trước, cầm miếng giẻ lau khung kiếng mờ sương trước mặt mới nhìn rõ đường.
Tháng 12 năm đó lạnh lắm, đỉnh Fansipan băng tuyết phủ kín, nhưng bên các sườn đồi, những người H'Mong, Dao đỏ vẫn cặm cụi làm lụng. Tôi còn thấy một bé trai H'Mong có lẽ chưa đến 10 tuổi, mặc phong phanh chiếc áo cài không đủ khuy, nhưng cháu khoác qua vai một sợi dây thừng và cố gắng kéo ngược lên đồi một tấm ván dầy buộc đầu giây, thấy chiếc xe đò, cháu ngây người đứng nhìn theo mãi...
Đến trung tâm Sapa, ngôi nhà thờ mờ mờ, chìm trong màn sương dầy, đặc quánh. Sương đầy đến độ đọng xuống mặt đất thành những vũng nước lớn. Vừa bước xuống xe tôi đã phải tìm chỗ ủ ấm trú sương. Có một khu chợ nhỏ với vài chiếc lều trước nhà thờ đang nghi ngút khói toả ra, tôi chạy vội đến chui vào lều và ngồi xổm trên băng ghế gỗ uống bát rượu ngô, ăn món thắng cố nóng hổi... chỉ mình tôi là người Kinh lọt thỏm trong ánh mắt tò mò của mọi người trong chiếc lều nhỏ ấy, nhưng tôi cũng biết cụng bát rượu ngô chào những người anh em lần đầu tiếp xúc.
Trời đã ấm hơn, bụng cũng ấm hơn nhờ bát thắng cố và bát rượu, tôi lò mò đến nhà thờ Sapa khi vài tia nắng ló dạng sau dẫy núi. Ngôi nhà thờ cũng còn đầy dấu vết bom đạn, mái nhà thờ sập nghiêng về một góc, bức tường đá xám của nhà thờ phủ rất nhiều lớp rêu màu cam, chúng óng lên một vẻ đẹp đến sững sờ dưới ánh nắng xanh biếc chiếu xiên qua ô cửa kính.
Nhà thờ và nhà xứ Sapa lúc đó không có linh mục, chỉ có một thầy sáu già và một tu sinh 19 tuổi người Kinh đang giữ ngôi nhà thờ và vài gian nhà cũ kỹ, cũng đầy dấu vết bom đạn thuộc giáo xứ. Cũng cần biết rằng suốt vài chục năm bị bỏ hoang, đến năm đó, 1995 thì ngôi nhà thờ mới được giao lại cho giáo hội Công giáo.
Vị phó tế (thầy sáu) già hết sức ngạc nhiên khi tôi tìm đến thăm hỏi và trò chuyện cùng ông. Dễ hiểu thôi, lúc đó tín hữu Công giáo mấy ai dám đến vùng biên giới 'nhạy cảm' để tìm hiểu, nhất là một kẻ xa lạ, tuốt từ Sài Gòn đến đây.
Lúc đó, cả tỉnh Lào Cai và Yên Bái chỉ có một vị linh mục đã 92 tuổi là cha Khiết (nếu tôi nhớ đúng tên) và mỗi năm, vị linh mục già này đến được Sapa nhiều lắm là hai lần, gọi là 'làm phúc'.
Cả thầy sáu và chú tu sinh lần đầu tiên mới giáp mặt với một người từ miền Nam đến như tôi. Tôi đã trèo lên tháp chuông, sờ tay vào quả chuông khắc nổi dòng chữ tiếng Pháp ghi dấu xuất xứ từ Marseille, 1932. Tôi ra phía sau nhà thờ, viếng mộ hai thừa sai một giám mục và một linh mục người Pháp đang yên giấc nghìn thu nơi đây, có một vị bị Việt Minh giết năm 1948. Hai ngôi mộ may mắn không bị hư hại nhiều sau gần nửa thế kỷ, có lẽ cũng do các giáo dân H'Mong kín đáo chăm sóc...
Tôi đã ngủ một đêm rét buốt tại một gian phòng nhỏ trong khu nhà xứ đổ nát này.
FB Uyen Vu
----
hình 2 là bia mộ cha Jean-Pierre Idiart-Alhor (tên tiếng Việt là Thịnh), vị kiến trúc sư và thừa sai gắn bó cả đời với Sapa, dù khi bị sát hại cha còn rất trẻ.
No comments:
Post a Comment