CHÚT TÌNH XƯA.
( Mối tình giữa nhạc sĩ Từ Công Phụng và ca sĩ Từ Dung )
Trong không khí hoang mang, buồn bã của những ngày đầu sau biến cố 30 Tháng Tư 1975, chúng tôi tình cờ quen biết nhau.
Từ ngã năm Bình Hòa, Gia Ðịnh, gia đình đôi song ca Từ Từ – như cái cách họ được gọi bởi bạn bè thân quí và các thính giả ái mộ – gồm Từ Công Phụng, Từ Dung và cháu Ý Uyên, thường đến nhà tôi ở khu cư xá Phú Nhuận vào buổi chiều, khi trời đã sẫm tối. Cả ba cùng ngồi trên chiếc Honda 50 phân khối, chồng lái, vợ ôm lưng, cô con gái nhỏ ngồi trên cái bình xăng. Có hôm xe hết xăng, Phụng nhìn tôi, cười thay cho câu hỏi: “May ra chị còn?” Chúng tôi thân nhau đến nỗi Phụng biết tôi có mẹ già, nhà lúc nào cũng phải dự trữ một chai xăng phòng khi đêm hôm cơ lỡ cần di chuyển. Có hôm đúng bữa, mẹ con tôi đang chuẩn bị ăn cơm, kéo luôn 3 nhân khẩu nhà anh vào, vét nồi niêu sạch bóng.
Dù ăn hay không ăn, cứ mỗi khi tới nhà, dựng xong cái xe và vào bên trong là Phụng co chân ngồi lên ghế, vớ cây đàn ghi ta dựng ở một góc và nẩy vài nốt nhạc mở đầu rồi hát theo. Có khi Từ Dung phụ họa, tôi và các con tôi lắng nghe. Giọng của Phụng trầm ấm, đôn hậu, phảng phất buồn, mang trong nó tình yêu, ước mơ hiền hòa và chút ray rứt nhẹ nhàng về một điều gì mãi trôi chảy ngoài tầm tay. Giọng của Dung trong trẻo, tôi nghĩ chỉ để làm nền cho Phụng, như đường phèn làm nền cho những hạt đậu phọng rang chín tới, đậm đà, nhiều hương vị.
Chúng tôi ngồi với nhau đến khuya, dưới ánh đèn dầu lù mù của những đêm cúp điện, chia nhau nỗi lòng của những người thấy mình lơ lửng ở một quãng đường không biết sẽ đưa họ về đâu? Những khi không có câu hỏi và câu trả lời, trong không gian im ắng của căn nhà đóng cửa, mỗi người yên lặng theo đuổi ý nghĩ riêng mình. Tính Phụng ít nói nhưng khi nói, anh hay bắt đầu với một nụ cười đọng ở khóe môi và ánh nhìn lấp lánh của đốm lửa nhỏ trong lò sưởi.
Thời gian chúng tôi quen biết nhau không bao lâu, giữa khoảng 1977 cho đến khi gia đình Phụng vượt biển cuối năm 1979, chia cắt bởi nhiều biến cố đau thương cho cả hai gia đình. Ðó cũng là quãng đời ghi dấu nhiều kỷ niệm của một tình bạn dệt bằng quá nhiều mất mát và khổ đau mà bây giờ, mỗi khi có dịp nhìn lại, tiếc nhớ dâng lên tràn ngập lòng tôi như biển mặn.
Bề ngoài xem ra Phụng là người dễ thích nghi với hoàn cảnh nhưng tôi đoán không do bản tính mà do kinh nghiệm Phụng biết phải đối phó với những điều bất như ý cách nào để bảo vệ mình cho những điều anh chọn lựa, yêu quý và muốn gìn giữ. Nói cách khác, Phụng chấp nhận trả giá cao cho những gì anh nhận được từ con người và cuộc đời. Tôi không biết những năm tháng tuổi trẻ của anh ở Ðà Lạt với rừng cao, suối sâu, quanh năm mưa phùn và sương mù, có để lại ảnh hưởng nào trên nhân sinh quan của anh hay không song ở anh có sự ẩn mật nhưng không khó hiểu, sự giản dị không có dấu hỏi nào đi kèm cho người quen biết anh.
Tôi còn nhớ buổi trưa mùa Hè nắng nung nấu cả một Sài Gòn sau 75, khô khốc, nghèo nàn, trần trụi, tôi ghé thăm gia đình anh ở ngã năm Bình Hòa. Tôi đến bất ngờ, Phụng khoe nhà có gạo và có miếng thịt bò ai mới cho. Phụng bảo Dung thổi cơm, bảo tôi thái thịt hộ (cho đúng sứa kẻo dai) và Phụng xách cái cà mèn ra đầu ngõ mua cà chua với bát canh gì đấy để bữa ăn có tý nước. Sau bữa ăn, chúng tôi nói năm ba câu chuyện trên trời, dưới đất xong, Phụng lại cầm đàn và hát. Dường như nỗi vui được hát, được đàn cho mình và cho nhau nghe, đã bắt đầu ngay từ lúc Phụng ung dung cầm cà mèn đi ra nắng để mua mấy thứ lặt vặt. Tôi nghiệm ra, thay vì ngồi đấy mà than trách cuộc đời ngắn ngủi và nhiều thử thách cam go, Phụng biết làm cho mỗi khoảnh khắc sống là một giá trị, ít nữa cũng là một điều tốt lành. Ở bên cạnh anh, không ai cảm thấy có điều gì phải phàn nàn.
Có một lúc chúng tôi mở chung một quán cà phê nhỏ trên đường Trương Tấn Bửu. Mỗi tối, quán mở cửa lúc 6 giờ. Tôi pha chế thức uống, Dung phụ tiếp khách và Phụng làm công việc hầu bàn. Vì bận các con còn bé, tôi chỉ giúp anh chị vài tháng để anh chị quen công việc. Ðêm Noel năm cuối cùng, sau khi tiệm đóng cửa, anh chị tạt qua nhà tôi, rủ nhau xuống phố xem thiên hạ đón Giáng Sinh thế nào?
Chúng tôi chạy xe lang thang qua nhiều ngả đường tối om, vẫn thưa thớt có nhà còn treo đèn ngôi sao ngoài cửa, thấy nơi nào có tiệm cà phê là gọi nhau dừng lại xem giá cả của họ rồi cả bọn phá ra cười ngặt nghẽo vì không biết làm gì khác.
Tôi nói Noel cuối cùng vì sau đó, nhiều bất trắc đã xảy ra, đẩy chúng tôi về những hướng đi cách biệt.
Lúc ấy, trong hoàn cảnh ảm đạm của Sài Gòn những năm cuối thập niên 1970, không ai nhìn thấy dù chỉ le lói chút ánh sáng ở cuối con đường tuyệt vọng nên cả thành phố nhao lên chuyện vượt biên. Gia đình Phụng đi một chuyến bất thành, trở về.
Phụng nói: “Thủy triều lên quá nhanh, nước dâng ngập quá ngực, tôi đôn cháu Uyên trên vai nhưng mọi người chen chúc hỗn loạn mà thuyền lớn thì đậu xa bờ vì sợ người đi hôi tràn ngập nên đành phải quay lại thôi!”
Phụng kể bằng một giọng bình thản, vẫn nụ cười trên môi và ánh mắt lấp lánh. Ðối với Phụng, dường như thất bại trong một ước muốn hay toan tính là chuyện đời bình thường.
Sau lần thử thách này, chúng tôi ít gặp nhau vì Phụng thường xa thành phố để tự lo kế hoạch vượt biển cho gia đình. Quán cà phê đóng cửa. Kế hoạch của Phụng không thành công và gia đình anh chị tan vỡ trong lặng lẽ. Như chiếc bong bóng nước vỡ rất khẽ trong cơn mưa giông bất ngờ.
Thời gian trôi qua không biết bao lâu, một hôm tôi lại nhìn thấy Phụng trên chiếc xe Honda quen thuộc nhưng thiếu cháu Ý Uyên trên cái bình xăng và sau lưng anh không còn Dung mà là một phụ nữ khác với khuôn mặt sáng và nụ cười đầy đặn. Chúng tôi chào nhau, mừng gặp gỡ rồi chia tay.
Ít lâu sau, một buổi tối đã khá muộn, Phụng đột ngột đến nhà tôi. Anh bước thẳng đến chỗ cái sofa quen thuộc tôi đang nằm dưỡng bệnh vì cháu Thái Hà vừa mất, ngồi thụp xuống, cầm tay tôi và nói nhỏ đủ cho hai chị em nghe: “Chị H, ngày mai tôi và cháu Uyên đi rồi, tôi đến thăm và chào chị. Chị cố giữ gìn sức khỏe kẻo tội bà cụ và mấy đứa bé.” Phụng dúi vào tay tôi số tiền tôi nhớ là nhiều lần hơn số tiền tôi san sẻ cho Phụng cầm đỡ khi cháu Ý Uyên phải vào nhà thương vì sốt viêm màng não. Tôi từ chối thì Phụng úp bàn tay tôi lại, điềm đạm và cương quyết: “Không là bao nhiêu nhưng chị sẽ cần.” Rồi Phụng vội vã ra về.
Nước mắt ướt đầm tay áo, tôi chỉ còn biết cầu nguyện cho Phụng, cháu Uyên và gia đình mới của anh lên đường được bình an. Qua bữa sau, Dung đến tìm tôi lúc xế trưa, thì thầm: “Em nhờ chị đến cái địa chỉ này, xem Phụng và cháu Uyên đã đi chưa?” Tôi gượng dậy, thuê xe đi ngay. Giờ đây, nhắc lại chuyện cũ, tôi nhớ mang máng là tôi đã đi bộ qua một khu chợ nghèo sình lầy, chỉ còn mấy dãy lều trống hoác trong ánh chiều tà hiu hắt.
Căn nhà mang số Dung ghi cũng trống trơn, không có người. Tôi đứng bơ vơ trên cái sàn gỗ ghép bằng những mảnh ván thưa, nhìn xuống thấy mặt nước đen ngòm bên dưới. Một người đàn bà đi qua, nhìn vào và nói bâng quơ: “Kiếm mấy người vượt biên úm ở đây hả? Ði hết rồi.” Lộn trở ra con đường lầy lội cũ trong buổi chiều đã tắt nắng, tôi vừa mừng cho bạn, vừa nghe lòng nhẹ hẫng, trống trải, như vừa mất mát một điều gì từng khăng khít với tôi vô cùng nhưng từ nay không còn nữa.
Thời gian sau, tuy vẫn còn lây lất sống trong thành phố nhưng tôi không có lần nào gặp lại Dung. Qua bạn bè chung, tôi biết tin gia đình Phụng tới đảo bình an và Dung sinh thêm một con gái.
Tuy kỷ niệm buồn vui giữa chúng tôi không nhiều nhưng tình thân của chúng tôi đẫm nước mắt của những cuộc chia ly xé lòng không hẹn trước, khiến phần tôi, dù không biết cách nào để diễn tả, mỗi khi ký ức ôn lại quãng đời này, tôi không thể ngăn được nỗi đớn đau cồn lên trong ngực, làm nước đầy lên hai mắt.
Phụng là một người bạn trung hậu, trọng thâm tình và chữ tín. Anh nói ít, nghĩ nhiều, làm đầy đủ. Anh giao du với ai, cũng để lại mỹ cảm khi rời xa, không quá đậm đà nhưng bền bỉ.
Phụng là một nghệ sĩ mực thước, theo tôi, khá hiếm hoi. Anh yêu vẻ đẹp của đời sống nên biết tạo ra sự hài hòa để vẻ đẹp ấy tồn tại và rực rỡ. Anh nhường nhịn, sẵn sàng quên mình. Một mai xa nhau, người cho tôi tạ lỗi… thấy trong sự quên mình ấy, hình ảnh con phượng hoàng bay lên từ lửa đỏ.
Phụng là một nhạc sĩ tinh tế. Cứ đọc nguyên tác những bài thơ do Phụng phổ nhạc để thấy khả năng chọn lọc chữ nghĩa và thi tứ của Phụng, hoàn hảo đến ngạc nhiên, từ “Hạnh Phúc Tôi” đến “Tạ Ơn Em.” Cảm giác như Phụng là một người làm vườn mạnh tay khi cần. Anh tỉa cắt đến tận cùng để chỉ giữ lại tinh hoa tuyệt mỹ của một dáng cây bonsai nghệ thuật.
Phụng là một ông bố kham con và thương yêu con hết mực. Tất cả niềm vui sống của anh, ngoài cung đàn, tiếng hát, khuôn nhạc, dành hết cho con, kể cả tự do của một ông bố nghệ sĩ, sống tràn đầy và ít bộc lộ.
Sau cùng, Phụng là một người đàn ông thủy chung. Anh viết nhạc, anh hát cho tình yêu đời đời, kiếp kiếp. Tình yêu như suối nguồn, róc rách, trong trẻo, dịu dàng len qua những ghềnh đá, nuôi dưỡng tâm hồn anh và không bao giờ cạn.
Dù sau này ra hải ngoại, nhiều lần tôi được nghe và nhìn Phụng hát trên sân khấu, trong thính phòng đầy ắp người hâm mộ nhưng với tôi, tiếng hát của anh luôn là tiếng hát rất cô đơn, thật thà, không son phấn, của riêng bạn bè với một cây ghi-ta gỗ. Tiếng hát của anh xa vắng, như gió lùa qua vòm cây, đánh thức những khóm lá cho chúng đùa vui dưới ánh trăng. Tiếng hát của anh làm lay động những khóm hoa, cho chúng thả hương bát ngát giữa trời khuya. Tiếng hát của anh gọi dậy vùng ký ức ru êm những mơ ước không đạt của đời người. Mà anh không chỉ hát, anh diễn tả bằng thanh âm một nội dung đầy tình tự, khắc khoải, cố vươn tới người nghe như một đền tạ mọi ân tình đã đến cùng anh. Ðứng trên sàn diễn, trong những bộ complet may cắt khéo, dường như Phụng luôn có nỗi ngượng ngùng của một người không đứng ở đúng cái chỗ của mình.
Khoảng giữa năm 2010, bạn bè được tin anh lâm bệnh sau chuyến về trình diễn ở Cali. Vợ con lo lắng. Bạn bè quan tâm. Anh nghĩ gì, không ai biết. Qua điện thoại, vẫn được nghe cái giọng điềm đạm cố hữu, thấp thoáng nụ cười hiền hậu đã gắn liền với nhân dáng anh như từ khi mọi người biết anh. Riêng tôi mừng cho anh vì chị Ái là một người vợ tận tụy trong tình yêu. Tôi biết anh được chăm sóc kỹ lưỡng, được bảo bọc trong tình gia đình là tổ ấm đúng nghĩa của danh từ này. Anh là người cẩn trọng, chắt chiu dành dụm, nào biết để khi cần, được nhận lại. Bởi vì, anh sẵn sàng làm chiếc que diêm, một lần lóe lên, thắp đời em sáng lung linh… Phần anh, buồn một cõi riêng…
Nhà văn : Bùi Bích Hà.
( Một phần sự thật qua ngòi bút của Nhà văn BBH - bà vừa ra đi, thọ 83 tuổi, viết về mối tình của ca sĩ Từ Dung và nhạc sĩ Từ Công Phụng )
No comments:
Post a Comment