Wednesday, August 17, 2016

TÀI LIỆU TỰ THÚ VỀ ĐỒNG BỌN VC PHÁ RỐI MIỀN NAM

Trên đỉnh cuộc đời

Viết cho Lệ Hằng - thay một lời phân ưu

Tôi đến nghĩa trang Roodwood sớm hơn nửa giờ, để dự lễ hỏa thiêu một người quen vừa qua đời. Trong cái giá lạnh cùa buổi sáng mùa đông, đứng giữa nghĩa trang mênh mông ngút ngàn, nỗi bi thương hình như không còn nữa nhường lại cho một cái gì ấm áp gần gủi khi tôi bước dạo quanh, quan sát từng phiến đá nhỏ khắc tên những người mà tro cốt nằm phía dưới những bụi hồng đang có vài bông hoa tươi nở còn đọng sương mai. Rồi những tấm mộ bia gần xa, nhỏ lớn, mới cũ xung quanh hiện ra trong tầm mắt, hình như vẩy tay chào tôi, chào đón tia nhìn cùa tôi. Ít nhất trong cái yên lắng buồn thiu của nghĩa trang sáng nay, có một người đang thăm viếng, đang hướng lòng về những người dưới những nấm mộ nằm im lìm nơi đó tự bao giờ. Riêng trong tôi, suy tư về sự sống sự chết, cõi đến cõi về, sự ngắn ngủi phù du của kiếp người... chưa bao giờ trỗi dậy rõ nét như những phút giây nầy. Có một cái gì bình an lắng đọng trong tâm tư.

Xe tang đến, lặng lẽ chầm chậm như không muốn dừng lại, không muốn kết thúc môt hành trình. Bước xuống khỏi xe tang trong cô đơn lạc lỏng chỉ độc nhất một người, người phụ nữ trên đầu chít vành khăn tang trắng nét mặt trầm tư ảm đạm.

Lệ Hằng đó, nhà văn của một thời Saigon ngày nào, hôm nay, nơi xứ sở xa xôi nầy đang tiễn đưa người bạn đời của mỉnh về chốn nghìn thu. Tay ôm di ảnh người quá cố, Lệ Hằng bước xuống ngập ngừng như đang bước vào khoảng không gian chơi vơi hụt hẫng. Qua làn khói mỏng của bát hương nhỏ trên tay, đôi mắt thật đẹp ấy hôm nay thật buồn, thật xa vắng quạnh hiu. Khung trời nào của quá khứ, cảm giác nào của hiện tại, viễn tượng nào của tương lai hay chỉ là môt sự rỗng không mênh mang vô bờ trong tâm hồn của người phụ nữ vừa nhan sắc vừa tài hoa đó, nào ai biết được.

Trong sảnh đường nhỏ, chỉ có chư Tăng ni, thiện hữu hộ niệm cùng một số bạn bè thân quen nhưng không khí thật ấm cúng thân thiết chứa chan tình cảm nồng nàn.

Trên chiếc bàn thờ nhỏ đơn sơ, bức ảnh cũng đơn sơ giản dị giữa hai ngọn nến hồng, người trong ảnh vừa mang nét lãng tử khinh bạc của một nhà văn, vừa mang nét kiên quyết sắt son của một người Phật tử, nét khiêm tốn bình dị của một người trí thức: anh Hoàng nguyên Nhuận.

Hôm nay, lần đầu tiên cũng là lần cuối tôi đưọc biết khá rõ về con người của anh Hoàng Nguyên Nhuận qua lời phát biểu của Chư vị Hòa thượng cũng như bạn bè thiết thân của anh. Từng mảnh thắc mắc ngộ nhận được vở ra, từng sự thật minh bạch được nhắc đến dàn trải rõ ràng trong sáng như chân lý dưới ánh sáng mặt trời. Trong dòng đời trôi chảy miên man vô tận, đả từng có biết bao cuộc đời mang những oan ức nghiệt ngã theo mình đi về cõi khác. Có thể anh Hoàng Nguyên Nhuận là một trong những cuộc đời đó. Rồi thì nước của thời gian cũng sẽ rửa sạch những oan khiên đó thôi! 
 
Để tiễn anh, Hòa Thượng Thích Quảng Ba thay mặt cho Giáo hôi Phật giáo Úc châu đã ân cần trang trọng nhắc đến quá trình đóng góp nhiệt thành của anh cho Phật giáo, đặc biệt là qua ngòi bút sắc bén dũng mãnh. Cũng đầy chân tình xúc động, anh Quán Như, một trí thức quen thuộc, một người bạn cố tri đã khơi lại dòng thời gian, cá tính, con người thật của anh Hoàng Nguyên Nhuận để làm sáng rõ những mảng vụn vặt mơ hồ trong đời anh. Trong buổi tiễn đưa cuối cùng nầy, tôi cho rằng những lời chân thành phát biễu ấy đã phần nào giải nghiệp cho anh Hoàng Nguyên Nhuận rồi đó. Chắc anh sẽ mãn nguyện và an nhiên trên đường về chốn thênh thang.

Xúc cảm hơn cả, Lệ Hằng đã trang trải tâm tình mình trong lời cảm tạ. Lệ Hằng, một nhà văn từng có vị trí trên văn đàn, một nhà giáo từng đứng trên bục giảng, hôm nay đứng đó một mình cô độc lẻ loi bên cạnh chiếc quan tài của người đã từng có với mình một thời thơ mộng lãng mạn tuyệt đẹp trong tình yêu, một thời gắn bó hôn nhân êm đềm hạnh phúc. 

Hình như Lệ Hằng đang cố gắng dằn cảm xúc để nhắc đến kỷ niệm, ngày còn trẻ tình yêu mãnh liệt đã san bằng dị biệt về tôn giáo, nhắc đến tình cảm yêu thương trân quí nhau trong đời sống gia đình, đến những gì đẹp đẽ nhất trong quãng đời đã qua. Lệ Hằng mặc áo tang đen đứng khiêm nhường sau cái bục nhỏ hình như mắt có ngấn lệ. Ôi, nhũng giọt nước mắt của tình nghĩa sắt son đã làm tôi bồi hồi cảm động. 

Tôi bỗng liên tưởng đến Sài Gòn ngày nào, Sài Gòn thênh thang khoáng đạt, nơi những tác phẩm viết về tình yêu đầy đam mê cuồng nhiệt của Lệ Hằng đã từng gây sôi nổi một thời, đã tạo sự ngần ngại e dè gần như cấm kỵ cho đám học trò của chúng tôi nơi ngôi trường nữ cổ kính, khi muốn tìm đọc. Tôi cũng liên tưởng đến Lệ Hằng của khuôn viên đại học ngày cũ, Lệ Hằng với nghiệp dĩ nhà giáo, Lệ Hằng bình yên hạnh phúc chốn Phong trang trên vùng núi xanh (Blue Mountains) đẹp tuyệt vời xứ Úc, Lệ Hằng mỏi mệt chịu đựng nỗi khổ niềm đau khoảng thời gian gần đây và bây giờ là nỗi đau cuối cùng. 

Tất cả chặng đời đó là một pha trộn mâu thuẩn không nhịp nhàng trong cuộc đời dài của một người tài hoa. Có một lần nào lâu rồi, tôi đã từng ngạc nhiên lẫn một chút cảm phục sự can đảm của Lệ Hằng, giữa chênh vênh của trái tim và khối óc, đã dám sống cho mình, vì mình qua khúc quanh tình cảm nào đó trong cuộc đời và đã sống trọn vẹn, mạnh mẽ hết mình cho một sự chọn lựa. Phải chăng đó cũng là một sự lương thiện trí thức.

Nhưng hôm nay Lệ Hằng đã bật khóc, khóc thành tiếng, không biết cho nỗi đau hiện hữu hay quá khứ.

Lệ Hằng ơi! Ai đó viết:

''Một linh hồn nho nhỏ…
Mang mang thiên cổ sầu...''

Chúng ta, những linh hồn nhỏ, dù dưới chân Thập tự giá hay trong hào quang của Phật đều mang những nỗi niềm thống khổ giống nhau trong cõi tạm trần thế này.

Trên toa xe lửa êm ái từ Fairfield về Sydney, nhìn qua khung cửa kính, những hàng cây xanh bên đường chạy giật lùi, giật lùi như quá khứ đi qua không trở lại... Tôi mơ màng nghe đâu đây tiếng nấc lên, tiếng khóc ngất của Lệ Hằng khi tấm màn lam nhạt từ từ khép lại đưa linh cửu vào lò hỏa thiêu. Chao ơi! cái giây phút đó, cái cảm giác từ nay sẽ mãi mãi không bao giờ gặp lại người thân yêu, mãi mãi không bao giờ còn nhin thấy nhau nữa là cái cảm giác đau đớn nhất, kinh hoàng nhất trong đời mỗi người.

Tôi cũng mơ màng nhìn thấy Lệ Hằng vẫn còn xuân sắc với nụ cười dịu dàng, đôi mắt đẹp u ẩn, giọng nói ưu ái sẵn sàng thủ thỉ bên tai tôi chia sẻ an ủi những lúc tôi buồn khổ, suy sụp tinh thẩn. Một tâm hồn đẹp như vậy, một con người đẹp như vậy sẽ không khổ lụy, sẽ đáng được biệt đãi. Anh Hoàng đã rời xa cõi đời ô trọc, đã an vui nơi chốn vĩnh hằng rồi. Chỉ còn lại đây Lệ Hằng, người bạn nhỏ đáng yêu đầy chân tình của tôi trơ vơ giữa tuổi đời còn lại, giữa chốn nhân gian mịt mùng hệ lụy.

Quá khứ vàng son của một thời Saigon dù đã xa, đã chìm vào dĩ vảng nhưng vẫn còn chút dư vị đủ để vỗ về xoa dịu những đau thương mất mát chúng ta hứng chịu ngày hôm nay. Và rồi, hạnh phúc hay khổ đau của chúng mình cũng sẽ qua đi. Mọi sự rồi sẽ qua đi theo thời gian.

Hãy đứng trên đỉnh cao, cho những lao xao muộn phiền lắng xuống trôi đi trong dòng sông của cuộc đời. Lệ Hằng nhé!

*Trịnh thị Minh
Cuối tháng bảy, mùa đông Sydney.

Bài được đăng trên Văn Nghệ Tuần Báo Sydney Australia ngày 11/8/2016 trang 65

=========================-
Kính thưa quí vị,

Nhận được tin Nhà văn Hoàng Văn Giàu ra đi về miền cực lạc ngày 24/07/2016.
Thành thật chia buồn cùng Nữ văn sĩ Lệ Hằng.

Nhân dịp này xin gởi đến quí vị bài viết của Nhà văn Quán Như.
Trân trọng,


Trần Thanh

============================================


Nhà văn Hoàng Văn Giàu
(1938 - 2016)
(Bút hiệu Hoàng Nguyên Nhuận)
qua đời ngày 24/7/2016 tại Sydney Úc châu.
Hưởng thọ 78 tuổi

Tang lễ đã được cử hành hôm thứ Tư 27 tháng 7, 2016, và anh được hỏa thiêu.


===========================================
Mối Tình Đoàn Hữu Hơn Ba Mươi Năm


Quán Như


"Tôi không có thành tích để khoe khoang, chỉ có khổ đau để làm bằng chứng"
Hoàng Nguyên Nhuận ( 1938 - 24/7/2016 )

Tôi gặp Hoàng Nguyên Nhuận, anh em hay gọi là Anh Giàu, lần đầu tại chùa Ấn Quang sau khi cuộc cách mạng 63 thành công.

Đây là lần đầu ban chấp hành hai Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Huế gặp nhau. Không khí dĩ nhiên là phấn khởi vì tất cả đang bận rộn tổ chức đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lần đầu tiên, kể từ khi vấn đề thống nhất Phật Giáo được đặt ra từ năm 1950. Người quen biết cả hai bên là Tôn Thất Chiểu, đứng ra giới thiệu. Anh Giàu và anh Phan Đình Bính lúc đó là hai người được anh em Sài Gòn ngưỡng mộ nhiều nhất vì thành tích gan lì trong tù. Không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ rõ ràng anh mặc áo sơ mi tay ngắn mầu xanh nhạt, ít nói chỉ cười, khi cần phê bình thì giọng nói như đanh đóng cột. Hai ban chấp hành Sài Gòn và Huế đang thảo luận phương thức thống nhất để thành lập Vụ Sinh Viên Phật Tử.

Một tháng sau, giáo hội thưởng công cho anh chị em sinh viên Phật Tử Sài Gòn bằng cách tổ chức chuyến viếng thăm Huế. Ra Huế tôi ít khi gặp anh xuất hiện, chỉ gặp các lãnh tụ khác như Vĩnh Kha và Bửu Tôn. Nhưng anh em trong đoàn không ai quan tâm, vì phái đoàn được mấy chị đoàn viên thuộc hai trường Nữ Hộ Sinh và Cán Sự Điều Dưỡng xinh như mộng, dịu dàng như các cành trúc la đà và hấp dẫn hơn bánh bèo Vỹ Dạ, tiếp đón! Không ai buồn nhớ tới Anh Giàu!

Từ năm 1964 đến 1966 Phật Giáo dùng sức mạnh của dân chúng - People Power - trong những cuộc vận động để làm giảm cường độ chiến tranh, trong khi bộ ba McNamara, MacGeorge Bundy và Maxwell Taylor nhất quyết leo thang chiến tranh. Anh em học sinh, thanh niên, sinh viên và Gia Đình Phật Tử dĩ nhiên là đóng một vai trò nòng cốt trong các vụ biểu tình chống Hiến Chương Vũng Tàu vào tháng 8 năm 1964 và Thủ Tướng Hương vào đầu năm 1965. 

Đây là thời gian mà sinh viên Phật Tử Huế hoạt động hứng khởi nhất, và Anh Giàu "oai" như nhân vật Lý Hoàng Phong trong quyển truyện Bản Tango Cuối Cùng của Lệ Hằng. Hai hoạt động nuôi dưỡng trí thức và nghệ sĩ, con tim và khối óc của phong trào tranh đấu miền Trung, là tờ Lập Trường Tuyệt Tình Cốc và một sản phẩm thành công nhất làm rung động con tim của nhiều thế hệ là Trịnh Công Sơn.

Tôi chỉ bắt đầu thân cận với Anh Giàu vào năm 1967. Lúc đó nhờ Nguyễn Long, người tổ chức tất cả các cuộc biểu tình chống Khánh, chống Hương và Thiệu-Kỳ ở Sài Gòn Chợ Lớn, giới thiệu với thầy Minh Châu. Thầy xin biệt phái ba giáo chức từ Bộ Giáo Dục về làm việc tại Đại Học Vạn Hạnh, là Long, Đoàn Viết Hoạt và tôi. Long được Thầy Minh Châu thương mến nhất vì gan dạ và thường phải lẫn trốn cảnh sát tại chùa Pháp Hội, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh. Tôi xin được một phòng nhỏ trên lầu ba Trung Tâm Quảng Đức và Anh Giàu và một số sinh viên chạy thoát từ Huế vào như Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm và nhiều anh em khác nữa cũng vào ở lẫn lộn trong cư xá.

Sau khi thi hành chiến dịch ba giai đoạn của Rostow, chủ tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ, dưới sự trợ giúp công khai của Cabot Lodge, Kỳ dẹp tan được phong trào tranh đấu miền Trung [1]. Kỳ và Loan cũng cho người ném lựu đạn ám sát Thầy Thiện Minh. Hai người được lệnh ám sát sau đó đến gặp Thầy xin sám hối.

Sau khi tạm bình phục và trong khi Thầy Trí Quang đang tuyệt thực 100 ngày, Thầy Thiện Minh nắm vai trò lãnh đạo và là người thực sự chủ động tất cả những chiến thuật chính trị để đối phó với Thiệu-Kỳ. Theo lời thầy Trí Quang trong Tiểu Truyện Tự Ghi, Kỳ lúc đó đang tranh chấp quyền hành với Thiệu để được đại diện quân đội ra tranh cử Tổng Thống, Kỳ có đến gặp các nhà lãnh đạo Phật Giáo nhờ ủng hộ. Kỳ và cảnh sát của Loan biết là các sinh viên trong phong trào tranh đấu miền Trung đến trốn tại trung Tâm Quảng Đức và tại Đại Học Vạn Hạnh, nhưng Kỳ không dại gì làm ông Ác dưới con mắt Phật Tử.

Thầy Thiện Minh thay đổi chiến thuật, thay vì chống đối trực tiếp chánh quyền, Phật giáo bắt đầu tham dự giới hạn vào các hoạt động chánh trị như đưa người ra tranh cử hạ viện và thượng viện, ủng hộ ứng cử viên hoà bình Trương Đình Dzu trong cuộc bầu cử tổng thống. Nếu Thiệu-Kỳ không gian lận, Dzu đã đắc cử tổng thống [2]. Anh Giàu dĩ nhiên trở thành cánh tay mặt và là một cố vấn của thầy Thiện Minh và chúng tôi thường gọi đùa anh là Ông Cố Vấn. Tôi có mặt trong buổi Dzu đến trình bày về phương thức thực hiện hoà bình để thuyết phục thầy Thiện Minh ủng hộ và Anh Giàu là người đại diện anh em để chất vấn Dzu. 

Dzu là bạn học, hay là người cùng thời, với các người lãnh đạo trong Mặt Trận và ông cho biết là ông được toà đại sứ Mỹ cam kết bảo vệ an ninh. Có lẽ Mỹ không muốn Thiệu-Kỳ trơ trẽn độc diễn làm mất vết sơn dân chủ lòe bịp đối với các nước khác, nên đưa con bài Trương Đình Dzu và các con bài khác ra tranh cử. Thầy Thiện Minh đồng ý ủng hộ Dzu vì lập trường hoà bình và vì những ứng cử viên khác không đủ tầm vóc lãnh đạo quốc gia.

Người mà Phật Giáo hoàn toàn ủng hộ là Bác Sĩ Phan Huy Quát, nhưng sau khi bị Bùi Diễm phản bội, nhận lịnh Mỹ để tìm cách trao quyền hợp pháp cho quân đội, BS Quát ngán ngẫm nhân tình và nhất quyết giã từ chính trường. Thân phụ của Diễm đã ủy thác cho BS Quát nhờ chăm sóc Diễm và BS Quát xem Diễm như là một đứa con nuôi. BS Quát ngán ngẫm là phải!

Tôi và Vĩnh Tùng nhận nhiệm vụ chuyển quyết định ủng hộ Dzu của Giáo Hội cho các quý thầy Chánh Đại Diện tại ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Khi trình bày lý do tại sao giáo hội lại ủng hộ Dzu, tôi còn nhớ rõ phản ứng của thầy Tâm Hoàn. Thầy nói là dù mới gặp chúng tôi lần đầu, Thầy tin tưởng chúng tôi ngay, không phải chỉ vì cái chứng minh thư của Thầy Huyền Quang cấp, mà vì thái độ tha thiết của chúng tôi khi nói về ước vọng hòa bình. Bình Định là quê hương của Dzu và là đơn vị mà Dzu được số phiếu cao nhất, cho chúng tôi thấy rõ ước vọng và sức mạnh của quần chúng Phật tử. 

Trong thời gian khó khăn sau khi phong trào tranh đấu Miền Trung bị đàn áp, chúng tôi tìm cách tụ tập và củng cố tinh thần "anh em". Một số cán bộ trung kiên của Phật Giáo sau 1966 không có đường lui nên đã vào khu với Mặt Trận. Trường hợp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân ở Huế, và Trần Triệu Luật ở Sài Gòn là những thí dụ điển hình. 

Một số khác ra đầu thú và đóng vai một thứ hàng thần lơ láo. Một số cán bộ khác bị Thiệu-Kỳ bỏ tù cho đến sau năm 1975 mới được ra tù [3]. Phần đông vẫn còn trung thành với giáo hội, nhưng tinh thần bắt đầu dao động mạnh.

Tôi còn nhớ một sinh viên trẻ, anh Vĩnh Lộc, có lần hỏi tôi : "Mình với họ (Mặt Trận) khác nhau ở chỗ nào?". Ở cư xá Quảng Đức có một sân thượng phía trước, nhưng phải chịu khó trèo mới lên được. Anh Phạm Thế Mỹ và tôi rủ Vĩnh Lộc lên uống trà và giải thích cho Vĩnh Lộc chỗ khác nhau giữa Phật Giáo và Mặt Trận. Không biết lý luận của tôi có thuyết phục Vĩnh Lộc tới mức nào, nhưng Lộc bỏ ý định vào khu. Sau đó Lộc thi rớt bên khoa học, bị kêu động viên vào Thủ Đức, và chừng 2 tháng sau khi ra trường thì bị tử trận. Trường hợp Lộc ám ảnh tôi một thời gian lâu. Nếu tôi đừng cản Lộc, có thể anh ra khu (có thể không) và có lẽ sống sót và hồ hỡi sau năm 1975 hay có thể bị chết vì bom B52 như Trần Triệu Luật!

Tôi nhớ lời đối thoại giữa chị Cao Ngọc Phượng (bây giờ là Sư Cô Chân Không) và Đổ Trung Hiếu tự là Mười Anh - do chính anh ta kể lại... Khi Đổ Trung Hiếu hỏi tại sao Phật Tử chống Mỹ và Thiệu kịch liệt như vậy mà lại không ủng hộ Mặt Trận, chị Phượng trả lời: "Anh có lý tưởng của anh, điểm nào phù hợp tôi sẽ hết lòng giúp anh. Tôi không cản trở hay làm hại anh, nhưng tôi cũng không theo anh". 

Trong khi bị cộng sản cầm tù, Anh Giàu cũng bị hỏi nhiều lần tương tự và câu trả lời cũng tương tự. Trong thời gian này chính tôi cũng bị dụ dỗ. Anh Phan Long Côn, bạn thân của anh Trần Văn Long, một sinh viên tranh đấu đã nếm mùi chuồng cọp ở Côn Đảo, có một lần đến thăm, cho mấy trái xoài. Sau một hồi chuyện trò, anh nhập đề thẳng, hỏi tôi có muốn vào thăm khu giải phóng không. Nếu muốn anh sẽ đưa đi. Tôi từ chối vì có nhiều người đi trước báo động là khi đã vào thăm khu giải phóng, các cán bộ Mặt Trận sẽ báo tin cho Tổng Nha Cảnh Sát biết để "đóng cửa chặt cầu", lúc đó không muốn ủng hộ hay làm việc cho Mặt Trận cũng không được. Tôi kể dài dòng thể độc giả thấy những khó khăn của Giáo Hội, và của riêng cá nhân Anh Giàu, khi không chịu đầu Hán mà cũng không chịu quy Tào.

Chính trong thời gian này Đức Tăng Thống ra một thông điệp hòa bình kêu gọi cán bộ Phật tử không nên gia nhập các lực lượng chánh trị "thiếu giác ngộ", bên này cũng như bên kia. Trong Thông Điệp Hoà Bình mùa xuân Kỷ Dậu 1969, Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết xác nhận thế đứng của Phật Giáo rất rõ ràng: Chiến tranh ở Việt Nam là hậu quả của một tranh chấp ý thức hệ và nạn nhân là người dân Việt Nam bình thường, đã bị hy sinh và tiếp tục bị hy sinh và nhục nhằn trong một cuộc chiến bất công [SH- nếu nhìn theo góc độ tổ quốc, đất nước bị chia cắt bởi thế lực ngoại bang, thì việc tranh đấu đến ngày thống nhất là việc cần thiết, và những nhục nhằn, mất mát, những hy sinh, là cái giá mà thế hệ này phải trả. Đó là sự hy sinh có chính nghĩa]. Nếu còn ai nghi ngờ về lập trường chống đối chiến tranh và chống đối các thế lực tranh chấp, Đức Tăng Thống tuyên bố tiếp: 

"Chúng ta tiếp tục chống đối những thế lực chính trị vô minh đã làm dân tộc đau khổ. Những từ ngữ viện trợ, giúp đỡ cũng như từ ngữ giải phóng cần phải được xem xét cho thật kỹ. Viện trợ không phải để qua mặt những người nhận và bắt buộc họ phải tuân lịnh người cho. Giải phóng không có nghĩa là dùng súng để thanh toán những người không đồng chính kiến với mình" [4]. 

Những ai quen với lý luận và văn phong của Anh Giàu, đều biết là thông điệp của Đức Tăng Thống có dấu ấn của Anh Giàu. Những Phật tử trung kiên nhất quyết không chọn con đường chiến tranh của các chánh quyền quân phiệt, nhưng cũng nhất quyết không ủng hộ Mặt Trận, lâm vào một tình trạng lưỡng đầu thọ địch. Anh Giàu là một thí dụ điển hình. 

Anh bị bọn Giê-Su-Ma fundamentalists (để giữ được ái ngữ, tôi không dịch chữ này ra tiếng Việt!) gọi Anh Giàu là thân cộng, cánh tay nối dài của cộng sản. Bọn hàng thần lê láo như Lê Tuyên và Ngô Văn Bằng tấn công thầy Thiện Minh và nhất là Anh Giàu, gọi bằng những lời lẽ thô bỉ và trân tráo trên tờ Công Luận. Nhóm chủ trương thành phần thứ ba mà không có quần chúng, nhóm Tin Sáng, bất mãn vì Anh Giàu chống phá âm mưu lợi dụng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Ấn Quang), nên đã gọi Anh Giàu là giáo gian. Khi Anh Giàu nhân danh Vụ Trưởng Sinh Viên Phật Tử Vụ giải tán Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn - Vạn Hạnh đang bị các sinh viên trong Mặt Trận thao túng, sinh viên Trần Văn Long (hiện là Phó Giám Đốc Ban Du Lịch thành phố Hồ Chí Minh) đem súng dọa bắn anh!

Thiệu sau khi đã thanh toán tay chân của Kỳ trong vụ "bắn lầm" trong vụ Mậu Thân, Thiệu ra lịnh bắt Thầy Thiện Minh và các sinh viên tranh đấu tại Trung Tâm Quảng Đức, ghép tội Thầy về tội chấp chứa đào binh! Anh Giàu cũng như một số anh em khác vào tù và sau đó đưa nhập ngũ và phục vụ ở Sư Đoàn 21 ở Chương Thiện U Minh.

Khi tôi trở lại làm việc tại Bộ Giáo Dục vào đầu năm 1970, anh đã được biệt phái về Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị (xem bài phỏng vấn). Sau 1966 tất cả báo chí của Phật Giáo đều bị đóng cửa. Anh Giàu được Vũ Khắc Khoan mời viết cho tờ Vấn Đề. Vấn Đề cũng được sự cộng tác của Nguyễn Trần Kiềm, Kiềm là bạn học của Anh Giàu hồi Trung học và bây giờ là một nhân viên tòng sự tại Tổng Thống Phủ, tức là mật vụ. Thế là Anh Giàu có thêm một cái mũ mới là CIA. 

Tôi lúc đó cũng phải chạy qua "tỵ nạn", viết cho các tờ bào văn nghệ như Ý Thức của nhóm Việt, tờ Trình BàyLàm Dân của Thế Nguyên. Thế Nguyên là dân "Bắc Kỳ, Công Giáo, Di Cư" ba yếu tố bảo đảm là Thế Nguyên chỉ là những nhà văn phản kháng chế độ nhưng vẫn chống cộng! Nhưng sau 75, Thế Nguyên thực ra là một nhà văn nằm vùng thứ thiệt! Tôi gặp được nhà thơ Sâm Thương và anh chịu chạy tiền để làm tờ Văn Mới. 

Ra được hai số thì cả hai số đều bị Bộ Thông Tin đưa ra toà! Tuy nhiên Văn Mới ra được hai tập khảo luận, Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung của Nguyễn Mộng Giác, bị Bộ Thông Tin "phối hợp nghệ thuật" bỏ phần bình luận về chánh trị, và quyển Phạm Duy Đã Chết Như Thế Nào, bài diễn thuyết của Nguyễn Trọng Văn ở trường Đại Học Văn Khoa.

Sau này tôi mới biết là Anh Giàu không an tâm khi thấy tôi hợp tác với các nhóm các nhà văn đối lập Ki-tô giáo, sợ tôi không đủ bản lĩnh để đối phó! Tuy nhiên có một tai nạn mà Anh Giàu tới ngày nay cũng chưa biết. Trong tờ Văn Mới số 1 tôi có chỉ trích vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cho là chánh quyền đã động tới quyền thiêng liêng của nhà văn. Một nhà văn nằm vùng của nhóm Việt, Hồng Hữu (hình như là bút hiệu của Trần Duy Phiên) viết một bài đả kích tôi thậm tệ trên tờ Đối Diện. Để đả thông vấn đề, Sâm Thương tổ chức một buổi họp thân hữu trong đó có Hồng Hữu, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Trọng Văn, Sâm Thương và hình như có cả Nguyễn Mộng Giác. Cuộc thảo luận không đi đến đâu vì tôi nhất quyết giữ lập trường Trung Đạo của Phật Giáo. Tuy nhiên tôi để ý là bình thường Nguyễn Trọng Văn là một người lý luận sắc bén và nói chuyện rất duyên dáng, thế mà bữa đó dè dặt không dám bênh tôi. Cũng như các văn nghệ sĩ Phật tử khác, một mặt bị chánh quyền Miền Nam kết tội là làm phương hại đến công cuộc chống cộng, một mặt khác các nhà văn đỏ chỉ trích là chỉ có "tình yêu nước chung chung", nghĩa là không chịu ủng hộ Mặt Trận.

Trong nhóm Việt tôi thân nhất với Bảo Cự. Khi tôi sắp đi Úc du học, Bảo Cự từ cao nguyên gửi cho tôi một bức thư, khẩn khoản yêu cầu tôi hủy bỏ chuyện du học vì sợ nhiều người hiểu lầm là nhận học bổng của CIA! Nhiều mũ thì không sợ đen da!

Sau 1975, tôi mất liên lạc với Anh Giàu. Khi gặp Hồ Công Lộ, một sinh viên tranh đấu cũ, thì biết là anh đã bị nhốt vào Trại Phan Đăng Lưu tức Đề Lao Gia Định cũ. Và Lộ cũng cho biết là anh đã được thả. Đầu năm 1982 thì mấy ông "oan gia" lù lù sang Úc.

Người thứ nhất là nhà thơ Phan Việt Thủy. Thủy ra trường cùng năm, dạy cùng tỉnh. Lúc ở Tuy Hoà, anh rủ tôi và anh Trần Huyền Ân "hốt hụi" làm báo. Nghe lời xúi dại, tôi đồng ý nhưng báo chỉ ra được một số thì chết. Lý do anh Trần Huyền Ân, thay vì làm thơ, viết một truyện ngắn tố cáo ông chỉ huy trưởng Tiểu Khu tham nhũng! Anh Ân bị tống ra mặt trận và anh em viết báo Hiện Diện bị an ninh theo dõi.

Vừa mới chân ướt chân rao tới Úc, Thủy lại rủ làm báo. Kỳ này không hốt hụi nữa nhưng mỗi tuần mỗi người nhịn một thùng bia để góp tiền in báo. Anh Giàu cũng lục đục qua và được tôi rủ viết. Tờ Vietnam Times ra đời. Tội nghiệp Phan Việt Thủy, một người hiền lành và ít dính líu đến chánh trị cũng bị liên lụy và chụp mũ vì anh là chủ bút tờ Vietnam Times.

Khi Anh Giàu vừa tới Úc được một tuần, tờ Chuông Sài Gòn của bọn Giê-Su-Ma fundamentalist chạy một tít tám cột: Một Tên Việt Cộng Vừa Tới Úc. Tuần sau, tờ báo nay phong anh Giàu từ Việt Cộng lên tới Việt Gian. Lúc bông đùa, Anh Giàu nói thà là mang mũ Việt Cộng hơn là Việt Gian, vì Việt Gian liên hệ đến từ ngữ bán nước. Và tên chủ nhiệm tờ báo này sau đó làm gì? Chỉ vài năm sau y là một trong những thương gia đầu tiên qua Hà Nội để dắt mối cho các công ty Úc. Đối với cái đám Giê-Su-Ma fundamentalists, chống cộng chỉ là một nghề kiếm cơm, không hơn không kém.

Không phải chỉ có đám Giê-Su-Ma fundamentalists tỏ ra thù hận Anh Giàu, có nhiều con sư tử trùng cũng nhào vô đánh hôi. Mấy con sư tử trùng này bu quý thầy như... dòi, mong lợi dụng cửa chùa vào tư lợi riêng. Bọn chúng không ngần ngại gì đem vào chùa cái đám tà ma ngoại đạo để lũng đoạn Phật sự, nên khi nghe quý thầy có ý mời anh về lo việc chùa, các tên sư tử trùng này ra một tờ báo công khai hăm dọa tính mạng anh. Khi thấy anh viết cho tờ Pháp Bảo, và khi thấy ban trị sự của chùa này toàn là những Phật tử có ăn học, nên các con sư tử trùng công khai nhục mạ Thầy trụ trì trong một buổi họp và bỏ hình Hồ Chí Minh vào thư viện và đi bán rao là Thầy trụ trì nhận tiền từ Canberra để xây chùa (Hồng Ân).

Về mặt chính trị bọn sư tử trùng theo bợ đỡ cái đám phụ nữ liên đới, phục quốc, giải phóng mà ai cũng biết là cơ sở của đám Giê-Su-Ma fundamentalists. Có những con sư tử trùng đổi mầu như những con thò lò chánh trị, hết viết cho tờ Quê Mẹ (Úc), sau đó nhào vô viết chuyện con gà con chó cho báo chùa, rồi cũng nhào vô hít ra hít vô với pháp hiệu chữ Chân và mới gần đây còn lập hội cư sĩ phục quốc! Những con sư tử trùng bao vây cả hai chùa lớn và không bỏ dịp nào để phá hoại lục hòa của quý Thầy.

Một tên Giê-Su-Ma fundamentalist, mà một tờ báo gọi là ông Hoàng Tộc Túng Tiền, đã cay cú vì Thầy trụ trì cho đăng các bài viết của Anh Giàu, có lần nghĩ lầm là những bài viết ký tên Quán Như cũng là bài của anh Giàu, nên đã viết bài ám chỉ anh là Cộng Sản. Lý do: Hồ Chí Minh đã viết sách báo với nhiều bút hiệu như Trần Dân Tiên, Nguyễn Ái Quốc. Anh Giàu cũng viết báo với nhiều bút hiệu, nên Anh Giàu đích thị là cộng sản.

Quả thật Anh Giàu lấy nhiều bút hiệu, từ Hoàng Nguyễn Tùy Anh, Chung Hoàng, Ngô Chu Hà ở Lập Trường, Tùy Anh ở Vấn Đề và Hải Triều Âm, Giới Tử khi viết những bài về chánh trị tôn giáo và những bài văn nghệ lã lướt thường ký tên là Hoàng Nguyên Nhuận. Lâu lâu nổi hứng anh lấy bút hiệu lạ hoắc như Huỳnh Công Hòe. Nhưng chưa bao giờ bài anh ký tên Quán Như, bút hiệu của tôi đã dùng trên các tạp chí ở Việt Nam từ năm 1969.

Năm 1970 nhà văn Võ Hồng đã nêu tên hai cây viết trẻ mà ông thích nhất: Cung Tích Biền về văn và Quán Như về khảo luận. Bọn Giê-Su-Ma fundamentalist đầu óc thường thiếu chất xám, tâm tư chứa đầy sân hận và lợi lộc, bất cần lẽ phải, đặt ra trăm ngàn chuyện, chụp cho anh mọi thứ mũ. Năm 1967 tôi sống, làm việc và ăn nhậu với Anh Giàu bằng xương bằng thịt ở Trung Tâm Quảng Đức, thế mà bỗng nhiên vào 1968, anh trở thành Tướng Hoàng Văn Giàu về Huế lãnh đạo mặt trận Bình Trị Thiên! Từ nhà tù Phan Đăng Lưu bỗng nhiên có nhiều nguồn tin là anh được gửi đi Nga tu nghiệp sau 1975! Hết Giáo Gian tới Việt Gian, hết CIA tới Việt Cộng. Gần đây bọn sư tử trùng còn thì thào là anh và nhóm Chuyển Luân muốn chiếm chùa (sic)!

Bài phỏng vấn của tôi là một trong những nguồn tài liệu để hoàn thành quyển sách nghiên cứu về Phật Giáo Nhập Thế; Phong Trào Tranh Đấu của Phật Giáo Năm 1963 và 1966, được viết bằng Anh Ngữ. Anh bị chụp mũ và kết án quá nhiều, và theo tinh thần pháp lý Tây Phương, anh đã không được xử theo đúng công lý (natural justice). Người kết án phải được quyền biện hộ. Anh rất ngần ngại khi phải biện hộ. Vạn bất đắc dĩ anh mới phải phân trần với đám người mà anh hay nói: "trước mặt tôi không có mấy anh, sau lưng tôi cũng không có mấy anh!" Một trong những câu Anh Giàu hay nói là: "tôi không có thành tích để khoe khoang, tôi chỉ có khổ đau để làm bằng chứng".

Nhưng có những vấn đề lịch sử cần soi sáng. Hy vọng những khổ đau của Anh Giàu, cũng như của hàng triệu người khác trong chiến tranh Việt Nam, sẽ giúp người Phật tử thấy rõ con đường chính trị tỉnh thức mà Phật Giáo đã theo đuổi từ các triều đại Lý Trần, cho đến thập niên 60 và 70 tới nay. Riêng cá nhân tôi, tôi xin cám ơn anh đã nuôi dưỡng tình đạo hữu, đoàn hữu trong suốt hơn ba mươi năm dài.


Quán Như

No comments:

Blog Archive