Monday, August 29, 2016

Một Lời Cám Ơn


Tôi vừa mới đọc bài của Bác Nguyễn Nhơn, một cựu đốc sự hành chính của chế độ VNCH. Cứ bài nào của Bác đăng trên báo Tổ Quốc là tôi đọc ngay, thỉnh thoảng còn trêu Bác vì cái nhiệt tình và tâm huyết vì nước như tuổi trẻ của Bác, nhưng không biết Bác có giận không! Hôm nay thì tôi không trêu Bác nữa, mà cám ơn Bác.

Đọc xong tôi muốn khóc. Vì vậy tôi thấy cần phải viết một vài lời cảm ơn cho Bác biết rằng, đâu đó trên thế giới này vẫn còn những đứa cháu của chế độ VNCH khắc ghi công ơn của những người đi trước như Bác: phục vụ đất nước với một tinh thần chí công vô tư, tận tụy, trách nhiệm.”

“.... Cháu còn rất nhỏ khi TT Diệm bị lật đổ và bị giết nhưng gia đình cháu thì được hạnh phúc và được hưởng một nền hoà bình đích thực dưới thời đại của TT Diệm. Cháu được đi học đàng hoàng và mọi người đều tốt như dân Tây dân Nhật mà ngày nay cháu biết. Người VNCH mình hồi đó đẹp quá! Đất nước mình thanh bình quá và nền giáo dục của mình, bây giờ đã đi khắp thế giới, học hành và làm việc khắp thế giới, rồi nhìn lại mình, cái quá khứ của mình, các thầy cô mình từ mẫu giáo đến trung học, dân mình… chính phủ mình, quân đội mình, sao cháu thấy thương quá vì tất cả đều đàng hoàng và tốt đẹp, không thua gì, có khi còn hơn nhiều xã hội tại các nước phát triển ngày nay trên thế giới!”

“... Cháu sống trong chế độ đệ nhất VNCH như một thiên thần trong vườn địa đàng, không biết chiến tranh và khổ ải là gì. Hằng ngày cắp sách đến trường, được dạy bảo những điều lễ nghĩa, tình thương, văn chương và khoa học, đạo đức, triết học khai phóng để hiểu biết và trở thành một con người tự do. Không bao giờ chúng cháu được dạy lòng căm thù, dù là căm thù VC hay bất cứ ai. Chúng cháu chỉ được dạy đạo đức và tình thương. “

“... Ngày nay lăn lộn trong cuộc sống trên thế giới cháu mới thấy rõ chính cái tuổi thơ và tuổi trẻ thần tiên trong chế độ VNCH đã cho cháu một sức mạnh bền bĩ về cả thể xác và tâm hồn cho đến tận tuổi già (tuy cháu chưa già bằng mấy Bác, mấy Chú). “

“.... Qua đây cháu muốn cám ơn Bác Nhơn và các Chú, Bác khác trong chính phủ và quân đội VNCH đã sống và chiến đấu vì tự do của VNCH một cách trách nhiệm để cháu có được một cuộc sống thần tiên như thế. Cháu không bao giờ nghĩ đến những thiếu sót, bất cập của chế độ vì cháu biết rằng “nhân vô thập toàn”. Nếu VNCH có những con người phản bội và hèn nhát thì cũng có những anh hùng như TT Diệm và những vị tướng tá anh hùng đã tuẫn tiết theo thành hoặc người anh hùng mũ đỏ tên Đương….”

(MỘT LỜI CÁM ƠN by chauxuannguyenblog)


Gởi Người Bạn Nhỏ Thân Thương,

Tôi xin chuyển lời cám ơn của em
Đến các vì tiên liệt, tử sĩ VNCH
vị Quốc vong thân
Để tưởng nhớ và tiếc nuối
Về tuổi thanh xuân
Mơ mộng và chiến đấu
của các thế hệ trẻ VNCH
Tuổi trẻ Miền Nam, một thời oanh liệt, một thuở yêu đương!


30 – 4 NHỚ VỀ THẾ HỆ TRẺ NĂM XƯA

Tôi sanh ra từ làng quê Bưng Cầu, xứ Thủ Một cây Dầu. Ba làm thầy ký dưới chợ Thủ. Má làm nội trợ ở nhà. Khi chưa tới tuổi đi học, ở nhà nghe lời mẹ dạy hai điều: Một là không được dối trá. Hai là sống cho có nghĩa, có nhân. Nhân là lòng thương người. Thương người như thể thương thân. Nghĩa là lẽ phải ở đời. Giữa người với ngưới đối đãi nhau với tình thương và lẽ phải, xóm làng ấm êm.

Năm 6 tuổi bắt đầu đi học trường làng. Cậu sắm cho cặp đệm mới tinh, còn thơm mùi lá cói. Lại dạy cháu: Quốc là nước. Gia là nhà. Ơn tấc đất, ngọn rau. Phải ráng lo học, mai sau báo đền. Học vừa xong lớp Đồng ấu, chiến tranh 1945 kéo tới. Chạy tản cư mất một năm học.

1946 học lớp nhì trường làng, tức lớp hai trường tỉnh, biết chút ít tiếng Tây. Thầy dạy: Mình là người Việt Nam. Tây khinh thị kêu là annamite. Như vậy là không được. Phải xưng là vietnamien.

Một bữa tây đi bố. Dừng quân ở vườn me trước trường. Thằng Đực thấy cây súng Mas 36 ngồ ngộ, mới men lại dòm ngó. Thằng lính ma rốc ngoắt lại kẹp cổ hỏi: Es-tu vietminh? Thằng nhỏ sợ lắm mà nhớ lời thầy dạy, dõng dạc đáp: Non, je suis vietnamien. Thằng lính ma rốc thất học, biết cóc gì là vietnamien. Nó chỉ biết tiếng annamite theo tây nói. Nó trợn mắt trắng dã, rút dao găm kề cổ thằng nhỏ, lặp lại câu hỏi. Thằng Đực biết rõ ràng: Chỉ nói, je suis annamite là yên. Nhưng nhứt định hổng chịu nói như dzậy. Nó vừa khóc vừa la: Je suis vietnamien! Thằng ma rốc đành hô: Va t'en!

1947 ra tỉnh học lớp ba. Năm năm, mỗi lần nghe hè tới. Khi tiếng ve sầu rả rít bên song cửa lớp, trên tàng cây dái ngựa (huỳnh đàn?). Cội điệp già trổ bông đỏ ối, rụng đầy sân. Lòng trẻ thơ bôn chôn. Mong sớm tới ngày bãi trường. Xem các chị diễn kịch hai bà Trưng, cỡi voi, rượt giặc Tô Định chạy về Tàu. Xem các anh diễn Hội nghị Diên Hồng: “Toàn dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến!... Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? Quyết chiến. Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh? Hy sinh!

Thời gian nước chảy qua cầu. Đực làng Bưng Cầu nay đã là thiếu niên. Tuổi thanh xuân mơ mộng. Có những buổi chiều tà. Bên bờ sông Thủ, bâng khuâng ngắm trời mây. Có những chiều học bài không thuộc. Vì nhớ con nhỏ ngổ ngáo, ngồ ngộ. Học đệ lục buổi chiều. Mới mon men qua lớp. Lấp ló nơi cửa sổ, lén nhìn. Chỉ mong ai đó, đang cặm cuội chép bài, ngẩng mặt lên cho nhìn chút xíu. Mãi mãi mà không được. Thơ thẩn, quay bước về, buồn hiu!

1956 chàng trai tuổi mười tám, trên chiếc xe kiệu hoa, mừng ngày thành lập Đệ nhất Cộng hòa, vung mạnh tay chém rắn ba đầu Phong – Thực – Cọng.

Từ đó mà đi, chàng trai trẻ hăm hở học hành. Quyết xây dựng tương lai.

1959 thi đậu vào Học viện Quốc gia Hành chánh Saigon. Câu đầu tiên thầy dạy: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu. Làm sao giúp cho người dân được “an cư, lạc nghiệp”. Đó là nghĩa vụ của người công bộc Quốc gia.

Học hành tuy vất vã, nhưng vẫn là trai trẻ tuổi yêu đương. Làm sao không lãng mạn. Đâu phải là lính đi phép về thăm, mới “Bóng nhỏ, đường chiều “. Anh sinh viên QGHC đi thực tập xa nhà, vẫn nhớ người yêu quay quắt chớ sao không?! Xứ Ô Môn xa tắp chiều mưa. Lòng nhớ ai thắp thõm, lẩm nhẩm câu ca: “Chiều mưa biên giới, anh đi về đâu? … Cờ về chiều tung bay phất phới. Gợi lòng nầy ... thương thương... nhớ nhớ... Đường về xa lơ...”

Nhớ thuở mới quen nhau. Thẹn thuồng hò hẹn ven sông vắng. Nàng ngắt hoa dại kết vòng nguyệt quế. Đội cho chàng làm chú rể ngày tân hôn. Kết nghĩa phu thê trong mơ ước. Cũng có lần, dưới trăng mờ Đà Lạt, tay cầm tay nhẹ bước. Chiều Hậu Giang gió lộng. Nàng áo trắng vượt đường xa. Em đến thăm anh, chiều tắt nắng. Và... quên đường về.

Khi đất nước lâm nguy, hầu hết bạn bè trang lứa đều vào lính. Nơi chiến trường máu đổ, thương vong. Những ngày về phép hiếm hoi, gặp lại người yêu. “Bóng nhỏ đường chiều”. “Ta nhẹ dìu nhau như tiếng thở. Thương nầy, thương cho bỏ lúc đợi chờ!”

Tuổi trẻ Miền Nam, một thời oanh liệt, một thuở yêu đương!

Ngày 30 tháng tư, 1975, đất bằng dậy sóng. Bọn giặc cọng ào vào cướp phá. Saigon từ đây lạc mất tên. Người Saigon tan tác! Lớp tù đày, lớp đi Kinh Tế Mới.

Nơi trại tù khổ sai Nhà Đỏ, quê nhà Bình Dương. Tay không gỡ mìn bẫy. Đốn cây, lăn súc trong rừng. Anh Lê Văn Xê, Phó Ty Thuế Bình Dương, bị cây đè vong mạng!

Ra Bắc thượng Hoàng Liên Sơn. Mùa đông lạnh buốt óc, nhức tim. Đỉnh Fansipan tuyết phủ một màu. Mùa xuân đến. Hoa ban nở trắng núi đồi.

Mùa hè dưới chân rặng Trường Sơn. Nắng như đổ lửa. Đêm về gió lào thổi hun hút như hơ. Bác tù già hen suyễn. Đứng tựa song sắt thở phì phò. Gã tuổi trẻ trăn trở mơ màng.

Mội Thầy Thơ trong vắt. Cội trâm già rợp bóng.

Tù trong vừa mới mãn. Tù ngòai Kinh tế mới liền theo. Ngày ngày, gạo công nhân, mít luộc chấm muối. Thân xác trơ gầy. Bịnh lao phổi hoành hành. Máu đào, hòa nước mắt. Câu kinh Phật vỗ về. Lòng bình yên, quên đói lạnh, quên thân. Vong ngã là đây!

Rốt rồi cũng “qui mã”.

Hai mươi mấy năm sống trên đất Mỹ. Buâng khuâng nhớ quê nhà. Em cháu sống lăn lóc ra sao? Mội Thầy Thơ nay có còn không? Cội trâm già nay còn hay mất? Con suối bưng hiền hòa nước đục hay trong? Tin nhà đưa sang, lòng buồn rười rượi. Làng Bưng Cầu nay có còn đâu! Bây giờ là Đông đô Đại phố chệt Tàu. Hãng xưởng Hàn, Đài mọc lên thay chỗ. Mội Thầy Thơ chỉ còn trơ một lỗ. Suối Bưng Cầu chỉ còn là con lạch bùn lầy hôi thối!

Ngày nay, tôi có một ước mơ. Trước khi rời bỏ trần thế nầy, được thấy. Ngày tàn của cọng sản hung tàn. Giải đất hình chữ S, quê tôi bên kia bờ Đại Dương. Chấm dứt đêm trường cọng sản. Nước Việt Nam trở lại huy hoàng, rạng rỡ bên bờ Biển Đông!


Nguyễn Nhơn



Tháng tư mất nước Tháng tư buồn
Nhớ về nước Việt quê nhà mến yêu 

 KHÍ THIÊNG SÔNG NÚI VIỆT

Tôi sanh ra từ làng quê Bưng Cầu
Xứ Thủ, Một cây Dầu, Bình Dương
Đất gò Miền Đông Nam bộ
Bên dòng suối nhỏ hiền hòa
Một vạc bưng trải dài bên bờ suối
Cây cầu ván mộc mạc bắc ngang
Dọc bờ suối hai lỗ mội
Mội Chợ, mội Thầy Thơ
Mội Thầy Thơ thơ mộng
Dưới cội trăm già rợp bóng
Trĩu trái tím ngắt, vị ngọt ngào

Dòng An Giang thuở học trò
Giòng An Giang nên thơ khiến nhớ”
Rừng U Minh âm u minh minh
Nơi chiến trường máu đổ, tử vong
Sông Hậu những chiều lộng gió
Đón đợi người yêu tìm đến

Mùa đông Hoàng Liên Sơn
Đỉnh Fansipan tuyết trắng
Xuân về hoa ban nở trắng núi đồi
Mùa hè dưới chân rặng Trường Sơn
Nắng như đổ lửa
Mùa thu dòng suối A Mai êm ả
Dịu dàng, róc rách chảy về xuôi
Bến Ngọc chiều tà hiu quạnh
Nhớ quê nhà Miền Nam

Ai hỏi tôi từ đâu đến?
Tôi đáp, Tôi từ Việt Nam đến đây” (*)
Tôi là người Việt Nam
Mang dòng máu Lạc Việt
Đượm khí thiêng sông núi
Đất Việt bên bờ Biển Đông

Ngày nay dân tộc tôi chẳng may
Bị loài cọng sản quốc tế
Đưa vào vòng bạo tàn hắc ám
Nhưng rồi cũng có một ngày
Tuổi trẻ Việt Nam bừng lên
Sức sống giống dòng Lạc Việt
Xóa tan u minh cọng sản
Đưa non sông qua cơn lầm than
Vén mây mờ cho dòng giống
Núi sông Đất Việt
Lại rạng rỡ bên bờ Biển Đông

Nguyễn Nhơn
(Mùa hè trên đất Mỹ )

(*) Thơ Nguyễn Thanh Bạch

No comments:

Blog Archive