Monday, June 2, 2008

RAU MÁ, Một Thực-Dược-Phẩm Trân Quý của Đất Trời

B.S. Nguyễn Khắc Minh D.S Bùi Đình Nam

(VNC) Ở quê hương, chúng ta thường uống nước rau má, 1 thứ nước giải khát bình dân, và cảm thấy khoan khoài trong những ngày hè nóng nực. Nhưng khả năng của rau má không ngừng ở đây, vì thiên nhiên muốn giúp loài người nhiều hơn nữa. Ta hãy cùng nhau tìm hiểu thêm

Tên gọi và xuất xứ:
Rau má thuộc họ apiaceae, vì mọc khắp Á Châu, nên có nhiều tên khác nhau, như tích tuyết thảo (Tàu), phanok (Lào), trachiek kranh (Miên), gotu kola (Sri Lanka), pegagan (Indonesia), takip kohol (Philippine), bua-bok (Thai Lan). Tiếng Anh gọi là pennywort. Tên khoa học là Centalla Hydrocotyle Asiatica hay Centalla Trisenthus Cochinchinensis.

Rau má là loại cỏ mọc bò trên mặt đất. Cuống dài, lá có rãnh, nên nom giống trái thận theo Trung Hoa hay như 2 bán cầu não theo Ấn Độ. Hoa mọc ở kẽ lá, từng cụm với từ 1-5 hoa nhỏ, màu trắng hoặc tím hồng. Quả dẹt, màu đen. Hạt dính với quả, hình bầu dục, thường có 2 hạt nhỏ, nom giống quả thận..
Rau má mọc hoang khắp nước ta, nơi đất ẩm thấp, thu hái cả 4 mùa.

Kinh nghiệm của Đông Phương :
Y học Dân Tộc Việt Nam cho đây là 1 loại thuốc mát, vị đắng, hơi ngọt, tính bình hòa, có tác dụng thanh nhiệt, thông tiểu, giải độc. Tổ tiên ta dùng rau má như sà lát hay nấu canh để ăn, làm nước giải khát để uống và làm thuốc chữa những bịnh thông thường:

- cảm cúm, sốt, khát nước, nhức đầu.
- viêm họng, cổ đau và sốt.
- đau bụng lưng khi hành kinh, lợi sữa cho sản phụ mới sanh.
- dùng khoảng 30-40 gam lá tươi, vò nát rồi vắt lấy nuớc uống

Dân Tích Lan (Sri Lanka) dùng gotu kola như 1 món rau ăn hàng ngày, để được khoẻ và trẻ lâu. Người Thái Lan thường uống 1 ly nước rau má sau khi ngủ trưa, để thấy tỉnh táo, hăng say làm việc tiếp.

Từ nhiều ngàn năm nay rau má là 1 môn thuốc hữu hiệu trong y học dân tộc của Ấn Độ và Trung Hoa.

Ayuverda Medicine, nền y học cổ truyền nổi tiếng của Ấn Độ, coi rau má là 1 loại cỏ làm cho tươi trẻ, trường thọ, tăng cường não bộ vì giúp cho dễ tập trung tư tưởng để ngồi Thiền, trí nhớ được bền lâu và đầu óc minh mẫn. Rau má còn được dùng để chữa các bịnh phong cùi, bịnh ngoài da, eczema.

Trung Y thấy rau má có khả năng bổ gan ích thận, và coi đây là 1 loại thuốc quý, có thể giúp cho nhiều chứng bịnh kinh niên và thoái hóa như lao, cùi, hay phong thấp, thấp khớp. Hơn nữa, Trung Y thấy rau má có tác dụng như nhân sâm, có thể bồi bổ cho cơ thể suy nhược vì bịnh tật hay tuổi cao. Thần Nông Bản Thảo ghi rau má là 1 thuốc trường sinh. Rượu thuốc có rau má là 1 trong nhiều yếu tố đã giúp Li Ching Yun sống tới 254 năm (1677-1933). Ông đã được chính phủ Trung Hoa chúc thọ khi được 150, 200 tuổi và báo New York Time đăng tin ông mất vào năm 1933..

Kinh nghiệm của Tây Phương:
Đại Học Y khoa Maryland khảo cứu nhiều về rau má, và thấy

- rau má cho khá nhiều chất hữu ích khi được phân tách ra::
- khoáng chất như calcium, cobalt, selenium, manganese, phosphorus, zinc, sodium, potassium.
- amino-acid cần thiết như asparate, glutamade, serine, threonine, alanine, lysine, histidine
- vitamine như C, B1, B2, B6,
- và nhất lá các hóa chất hữu cơ thuộc loại triterpene và saponin. Có 3 chất chính là bracoside A, bracoside B và asiaticoside. Bracoside A kích thích sự bài tiết nitric oxide của mô để làm dãn nở vi động mạch cùng mao quản, nên lượng máu di chuyển qua mô được nhiều hơn, chất độc dễ được đào thải, tế bào sống thoải mái trong 1 môi trường lành mạnh. Bracoside B ảnh hưởng tới não bộ, tăng cường các chất chuyển hóa (neurotransmitters) giúp cho tế bào óc làm việc tích cực hơn. Asiaticoside kích thích hệ reticuloendothelial nên sức miễn nhiểm của cơ thể. được mạnh hơn. Asiaticoside làm tan màng nến bọc quanh vi trùng lao và cùi để bảo vệ chúng, nên rất đắc lực
trong việc điều trị 2 bịnh này. Asiaticoside giúp tế bào da chống oxy hóa, phát triển mô liên kết, nên làm mạnh tế bào da, mô da căng trẻ, và giúp cho vết mổ vết loét mau lành,

- rau má.có tác dụng hữu ích cho bịnh dãn nở tĩnh mạch với những vết loét ở chân vì tuần hoàn trì trệ nên tế bào bị hủy hoại, và các bịnh áp huyết cao, ngoài da, nhức khớp, đau lưng. Nghiên cứu lâm sàng thấy rau má giúp cho được an thần, bớt lo âu, dễ tập trung tư tưởng và tăng trí nhớ. Với 1 số trẻ bi tật bẩm sinh đần độn, rau má đã làm tăng chỉ số thông minh. Rau má cón có thể giúp cho trẻ em bị bịnh khó tập trung ý chí (ADD: Attention Deficit Disorder). Khả năng của rau má giúp bịnh lãng trí (Alzheimer) đang được nghiên cứu ở nhiều nơi.

Vì tác dụng vào tuần hoàn và làm tế bào da vững mạnh, rau má được dùng làm kem bôi mặt ở Pháp để làm bớt những vết nhăn cho nét mặt được trẻ trung. Kinh nghiệm ở Úc thấy rau má giúp được nhiều những chứng đau đớn vì phong thấp và thấp khớp.

Tham luận:
Như vậy, ngoài những khoáng chất, vitamine, acit amin cần thiết, rau má mang lại cho chúng ta những dưọc chất có hai khả năng tuyệt vời cho cuộc sống, mà khoa học Tây phương mới khám phá ra:

- khả năng chống oxy hóa, phàn ứng này làm màng tế bào bị xâm chiếm bởi các gốc tự do, như 1 thỏi sắt bị han rỉ, khiến cho sức sống của tế bào bị giảm thiểu hay suy sụp, rồi dẫn cơ thể đến l tình trạng suy nhược, mắc bịnh thoái hóa hạy ung thư. Cũng giống như gấc, rau má làm cho tế bào được luôn luôn vững mạnh nên cơ thể được kiện khang. Kinh nghiệm nhiều ngàn năm của Trung Hoa và Ấn Độ, thấy rau má chống lão hóa, làm trẻ lâu, tăng tuổi thọ… là nhờ khả năng chặn đứng tác động tai hại của những gốc tự do này, khám phá ra từ 1956, mà môi trường sống mang lại cho cơ thể từng giây từng phút vì ô nhiễm, tâm tư dao động (stressful), do nội tâm (thất tình) hay ngoại cảnh (xã hội) gây ra.

- khả năng làm cho các mô tiết ra nitric oxide, chất này là 1 khám phá quan trọng nên giải thưởng Nobel về Y năm 1998 được trao cho 3 Giáo Sư Hoa Kỳ R Furchgott, L. Ignarro và F. Murad. Chính nhờ qua trung gian nitric oxide mà nitroglycerine mới chấm dứt ngay được những cơn đau tim, vì nitric oxide làm dãn nở vi động mạch, mao quản nên tim bơm máu ra cơ thể dễ dàng hơn, cần it oxy hơn, bên cung bên cầu không còn chênh lệch. Cũng vì bài tiết được nitric oxide mà đại di thực bào (macrophage), bạch huyết cầu có thể làm tê liệt vi trùng rồi tiêu diệt chúng. Và Viagra được nổi tiếng cũng do sự trung gian của nitric oxide này. Liên quan của nitric oxide tới sự khang kiên hay bịnh tật của cơ thể, về tinh thần hay vật chất, càng ngày càng được hiểu biết thêm.

- Hai khả năng trên giúp tế bào được luôn luôn vững mạnh, sống trong 1 môi trừòng hoàn hảo, ít độc tố, nhiều oxy, sạch trùng… và là cơ sở cho những kinh nghiệm về trẻ lâu và trường thọ. Tế bào da là nơi bị tấn công nhiều nhất. nên những khả năng của rau má làm cho chóng lành những vết thương, vết loét , trị mụn mặt, giảm vết nhăn ở mặt… đều có thể hiểu được. . Hai khả năng trên cũng khiến cho rau má mang lại nhiều năng lực sống cho bịnh nhân trong tình trạng suy nhược, giống như 1 thần dược của Trung Y là nhân sâm. Đông Phương không phân tách để tìm hiểu như Tây Phương, nhưng thấy 1 đặc điểm là sau nhiều năm, rể của rau má nom giống hình người như củ sâm, nên rễ rau má có tên nữa là sâm Ấn Độ.

- Với Việt Nam mình, rau má có 2 chi tiết đáng ghi nhớ và tìm hiểu.

o Vào thế kỷ 18, linh mục Bồ Đào Nha João de Loureiro, 1 y sỹ kiêm dược sỹ, sống ở miền Nam nhiều thập kỷ để nghiên cứu cây cỏ, đã cho rau má 1 danh từ khoa học là Centalla Trisenthus Cochinchinensis, vi Cochinchine là tên của nam bộ hồi đó. Cùng với gấc, rau má đã đi vào danh tư khoa học của Tây Phương với phần tên liên quan tới miền Nam của tổ quốc.

o Vì có khá nhiều dược tính hữu ích, nên rau má còn được Tây phương gọi là “Pharmacy In One Herb”, giống như sự săn sóc chu toàn về nhiều mặt của người Mẹ. Má là tiếng gọi Mẹ ở miền Nam. Không biết đây có phải là 1 sự trùng hợp thích thú, hay nhờ 1 linh tính, 1 viễn kiến nào đó mà tổ tiên ta dùng chữ má để gọi loại rau này. Mong được sự chỉ giáo của cao nhân về ngôn ngữ Việt.

Kết Luận:
Rau má là thức ăn bổ ích, và cũng là thứ thuốc để phòng bịnh hay chữa bịnh. Khả năng của rau má rất phong phú, với những tác dụng chính như sau

- Giải nhiệt và giảm thiểu những triệu chứng cảm cúm
- giúp cho tế bào được vững mạnh, trẻ trung, cơ thể kiện khang, cuộc đời trường thọ.
- làm cho não bộ tỉnh táo, dễ tập trung, tăng trí nhớ, rất cần cho tuổi trẻ học hành tiến bộ. Tên là gotu kola nhưng không có coca hay cafeine, nên không kích thích não bô như cà phê, để làm cho tỉnh táo đó nhưng thần kinh dễ căng thẳng..
- giúp điều trị bịnh ngoài da, các chứng đau đớn vì phong thấp hay thấp khớp, những vết loét kinh niên, vết thương hay vết mổ khó lành.

Nếu Hải Thượng Lãn Ông, Y Tổ của Việt Y, có 1 bài thơ tuyệt vời về dược học, mở đầu bằng hai câu:

Thuốc men sẵn ở khắp nơi,
Trong vườn, ngoài ruộng, trên đồi, dưới sông…

và Hippocrates, Y Tổ vủa Tây Y, dạy môn sinh hãy lấy thức ăn làm thuốc (Let Food Be Thy Medicine)… thì rau má là 1 minh chứng cho hai lời dạy trên. Vừa là thức ăn bồi dưỡng cơ thể và phòng bịnh, vừa là thuốc với khá nhiều công năng hữu ích.

Hippocrates còn có 1 lời dạy khác: trước hết đừng làm hại bịnh nhân (Prima Non Nocere). Nhưng Tây dược ngày nay, dù được bào chế tinh vi theo khoa học hiện đại, và bị giám sát chặt chẽ bởi cơ quan FDA, vẫn mang lại nhiều phản ứng bên lề như đã được ghi chép đầy đủ trong cuốn PDR, và ở Hoa Kỳ mỗi năm có cả nhiều ngàn bịnh nhân thành nạn nhân. Trong khi đó, phản ứng phụ của rau má chỉ thấy ghi lại là ói mửa, nhức đầu nếu dùng nhiều, và lời khuyên cẩn thận tránh dùng ở sản phụ hay trẻ em mà ta thường thấy trong Tây dược.

Với những hiểu biết trên, chúng ta - binh nhận, dược sỹ hay y sỹ - có nhiều dịp để tìm hiểu và chứng nghiệm lâm sàng về rau má, 1 thực dược phẫm tuyệt vời mà thiên nhiên mang lại cho loài người. Rau má nên được dùng hàng ngày, trong đường hướng dưỡng sinh, phòng bịnh và chữa bịnh, như để tận hưởng lòng ưu ái và sự che trở của Đất Trời.

Đây là 1 lọai rau quen thuộc của quê hương, dáng dấp khiêm cung mọc sát mặt đất, nhưng không ngờ lại mang cho chúng ta nhiều dược chất trân quý để giúp tế bào trẻ lâu, cơ thể khang an và trường thọ, đầu óc tỉnh táo dễ tập trung, trí nhớ có nhiều để học hành đỗ đạt, hay thành công trong nghề nghiệp. Rau má, vô hình chung, đã nói lên những lời chúc tốt đẹp và thiết thực nhất, cho độc giả của Nội San đầu xuân Mậu Tý này.

Để Tham khảo
1- Đỗ Tất Lợi. Những Cây Thuốc và Vị Thuốc Việt Nam. NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật 1991 2- Antani JA, Kulkarni RD, Antani NJ. Effect of abana on ventricular function in ischemic heart disease. Jpn Heart J . Nov 1990: 829-835. 3- Brinkhaus B, Linder M, Schuppan D, Hahn EG. Chemical, pharmacological and clinical profile of the East Asian medical plant Centella asiatica . Phytomed . 2000;7(5):427-448. 4- Shukla A, Rasik AM, Dhawan BN. Asiaticoside-induced elevation of antioxidant levels in healing wounds. Phytother Res . 1999;13(1):50-54. 5- http://www.umm.edu/altmed/articles/gotu-kola 000253.htm#Medicinal%20Uses%20and%20Indications

No comments:

Blog Archive