Hồn đã đi rồi
Bảy năm Gia Long của tôi tuy nằm trong những biến động lịch sử của đất nước và thế giới, vẫn là một quá khứ thật đẹp đối với tôi.
Năm Tổng thống JFK bị ám sát cũng là lúc đời tôi bước sang giai đoạn mới: Tôi vào học trường Gia Long.
Nhà tôi có năm chị em gái mà tôi là con gái út. Trừ chị Năm tôi học trường dạy Gia Chánh để lấy chồng sớm, các chị em tôi đều là nữ sinh Gia Long. Sau khi xong Tiểu Học Sư Phạm, tôi thi vào Gia Long. Chị kế tôi thi rớt vào Đệ Thất một lần nên năm đó hai chị em thi chung. Chị học thêm ráo riết để chuẩn bị, vì không muốn thua và chắc chị cũng không muốn học chung với tôi. May là năm đó tôi lại bị trượt vì làm lộn đề Toán. Môn Toán vẫn là môn tôi không tha thiết mấy so với các môn khác, dù biết là nó có hệ số cao. Chẳng là tôi không thích thầy dạy thêm Toán của tôi lúc còn tiểu học, vì bị thầy đánh đòn. Khi cả nhà vui mừng vì chị tôi thi đậu, thì tôi trốn vào giữa hai cái lu lớn chứa nước ngoài hè và khóc thút thít. Đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là đau khổ, nhưng nỗi buồn cũng không dài lâu. Tôi ghi tên học lớp Tiếp Liên ở trường Tiểu Học Sư Phạm, và năm sau tôi đậu với hạng cao. Đề thi lịch sử năm nào cũng là "Vua Quang Trung đại thắng quân Thanh", tôi đã thuộc làu đề tài nầy nên hăng hái làm bài thi. Tôi còn được cả học bổng, nhưng tôi nhường học bổng cho các chị em kém may mắn hơn mình, mặc dù gia đình tôi chỉ ở mực trung bình.
Bảy năm ở Nữ Trung Học Gia Long là thời gian luôn ghi sâu trong lòng tôi. Tôi được giáo dục, nuôi dưỡng và học hỏi nhiều việc, nhiều điều cho lần đầu tiên, giúp tôi chuẩn bị bước vào đời. Lúc tôi nhập học, Hiệu Trưởng là Bà Huỳnh Hữu Hội, sau này cô Thu Ba làm Hiệu Trưởng. Tôi vào Đệ Thất 9 ban Pháp văn, sau đó đều thuộc lớp 9 cho đến Đệ Tam, vào lớp Đệ Tam A7, Đệ Nhị A7 và cuối cùng là Đệ Nhất A6. Bà dạy tôi phải nhún nhường, gặp ai cũng phải gọi là chị. Nhưng tôi chỉ xưng tên và gọi các bạn bằng tên, và tổi rất thích khi các bạn xưng mày tao với tôi. Chỉ có một lần tôi “mày tao” ở lớp Đệ Ngũ khi gây gổ với bạn Phước Lý. Hình như ở các lớp nhỏ thi chúng tôi học ở từng dưới, còn ở lớp Đệ Tứ trở lên học trên lầu, và khi chúng tôi lớp ở Đệ Nhất A6 lại đời xuống tầng dưới. Chọn ban Pháp văn vì trong gia đình tôi ai cũng biết tiếng Pháp. Ba tôi bảo chị em chúng tôi cũng nên biết về "English, International language". Tôi lại thích sinh ngữ nên thay vì dành giờ không có lớp để học thêm Toán lý hóa, tôi học Anh Văn ở Hội Việt Mỹ, trong suốt 6 năm trung học.
Các lớp học đều nhìn ra sân trường có cột cờ ở giữa sân, có những cây cao bóng mát và những chiếc băng đá dài. Tới giờ ra chơi, từ các lớp học nữ sinh ùa ra như những cánh bướm, nói cười tíu tít. Các chị thường đi dạo từng cặp, tay trong tay. Mấy năm đầu còn có phòng Hiệu Đoàn nơi chúng tôi mua bánh ngọt, pâté chaud hay bánh mì kẹp thịt. Vào những năm sau thì phòng Hiệu Đoàn nầy đóng cửa. Ở các góc trường có những lu lớn có nước vối cho học trò uống. Lúc đó trong trường có nội trú ở phía sau, gần sân tập thể thao.
Để thưởng tôi thi đậu vào Đệ Thất, Ba tôi đích thân dẫn tôi đi mua đôi giầy trắng và mẹ sắm cho tôi mấy bộ áo dài trắng bằng hàng nội hoá. Năm đầu các anh chị đưa tôi đi học, nhưng, sau đó tôi đòi đi học bằng xe đạp vì tôi không muốn đi xe Hiệu đoàn của trường, nhà tôi cũng không xa trường. Lúc đó chúng tôi chỉ học buổi chiều, lớp buổi sáng là của các chị lớn nên dùng chung bàn và ghế ngồi, liên lạc nhau bằng cách viết thư bỏ vào hộc bàn, có khi trao đổi quà bánh để trong bàn nữa. Lên Đệ Tứ tôi chuyển sang xe Vélo Solex, xe Cady, và cuối cùng là Honda Dame. Năm Đệ Thất tôi được nổi bật trong môn Pháp văn do Cô Sáu dạy, vì tôi hay vẽ vào tập theo đề tài của Bài tập tiếng Pháp. Cô Sáu có dáng phu nhân, sang trọng với mái tóc búi cao. Còn nhớ có một lúc lớp tôi có giáo sư người Pháp đến dạy một thời gian. Tôi cũng thích môn Việt văn do Cô Băng Tâm người Bắc, và lớp Gia Chánh do Bà Lý phụ trách. Giáo Sư Lý lúc nào cũng bới tóc sau ót, với mái tóc phía trước bồng lên theo kiểu tóc đầu thế kỷ 20.
Tôi cũng nhớ cô Đặng Mai dạy thể thao. Lúc nhỏ tôi hay chơi với trẻ con trong xóm, chạy nhảy, leo cây, đánh lộn với con trai nên các môn chạy đua nhảy cao, leo dây…tôi qua được hết. Sân thể thao sau này là chỗ tập Vovinam. Nói tới Vovinam tôi nhớ đến cô bạn Nguyễn thị Anh Thơ học chung Đệ Nhất, Anh Thơ tập Vovinam hàng ngày, trong khi không có nhiều nữ sinh muốn tập môn này vì sợ bị cứng người, dáng đi sẽ không đẹp. Không biết bây giờ bạn đang ở nơi đâu?
Trong sân thể thao có một cây phượng lớn mà các chị nội trú đồn là có ma. Tôi nhớ nhất là cây phượng mùa hè nở hoa đỏ rực, và hàng cây me ở hai bên đường Bà huyện Thanh Quan.
....
Trên đây là trích đoạn từ một hồi ức của Bách Việt (Vạn cánh Hoa Mai tươi thắm của Cội Gia Long) viết về những năm tháng tươi đẹp với ngôi trường xưa đã in sâu trong tâm tưởng người học trò cũ từ ngày rời quê hương đi du học Nhật Bản rồi Hoa Kỳ và định cư tại đây cho đến ngày nay.
Từ ngày Việt cộng “đổi mới”, với nỗi thương nhớ quê hương thôi thúc, Bách Việt có trở về Việt Nam vài lần và mỗi lần lại nhận ra những thay đổi mới, từ phố phường, nhà cửa, đường xá cho đến con người, đã thay đổi hoàn toàn, từ bề ngoài đến bên trong, càng ngày càng xa với quê hương yêu dấu ngày xưa của mình.
Sau lần đi Việt Nam cuối cùng, người học trò cũ của Trường Gia Long, đứa con của Thành phố Sài-Gòn năm xưa, quyết định không trở về nữa, và nói: “Hồn đã đi rồi, chỉ còn cái xác nằm đó thôi.”
Phụ nữ Việt Nam hôm nay
Những người khác thì nói “Trở về cố hương mà như đi vào lòng địch”, hay “Trở lại đất nước mình mà tưởng như tới xứ lạ”.
Phố phường, nhà cửa, đường xá thay đổi thì không có gì đáng nói sau thời gian dài non nửa thế kỷ, nhưng vì sao con người thay đổi quá nhiều?
Gần đây, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc, một trí thức “Việt kiều” ở Úc, có nhận xét như sau:
Trên các trang mạng xã hội, nhiều người đã nêu lên những tính xấu của người Việt Nam hiện nay, như sự độc ác, thù hằn, tham lam, hoang tưởng và khoe khoang. Theo tôi, ba tính xấu đáng kể nhất là ích kỷ, giả dối và vô cảm.
Xin nói ngay, ở đây, có hai điều cần được nhấn mạnh:
Thứ nhất, những tính xấu ấy ở đâu cũng có. Vấn đề chỉ là mức độ. Cần thành thực nhìn nhận là mức độ ích kỷ, giả dối và vô cảm ở Việt Nam rất trầm trọng và đáng báo động.
Thứ hai, nói tính xấu của người Việt Nam là ích kỷ, giả dối và vô cảm không có nghĩa là cho mọi người Việt Nam đều ích kỷ, giả dối và vô cảm. Không phải. Xã hội nào cũng có người tốt kẻ xấu. Vấn đề là tỉ lệ. Không thể phủ nhận được là ở Việt Nam hiện nay những người tốt, thẳng thắn, ngay thật, biết nghĩ đến người khác và biết quan tâm đến đất nước khá hiếm.
Tính ích kỷ là một hiện tượng khá mới ở Việt Nam. Văn hoá Việt Nam, từ trước đến nay, dưới mắt của hầu hết các học giả, là nặng tính cộng đồng hơn tính cá nhân chủ nghĩa. Nền tảng của quan hệ giữa người và người, trước, xây dựng trên làng; sau, trên tình láng giềng, thường đề cao sự tương thân, tương ái. Người ta sống theo phương châm “tối lửa tắt đèn có nhau”. Rất phổ biến hiện tượng cả làng xúm vào giúp đỡ nhau trong những ngày có tang hoặc có giỗ. Mỗi người giúp một tí. Bây giờ thì khác. Người ta thường dửng dưng trước những nỗi đau của đồng bào và đồng loại. Báo chí thường tường thuật sự kiện nhiều người bị tai nạn ngoài đường mà không có ai giúp đỡ cả. Người bị nạn nằm giẫy giụa, ngắc ngoải, thoi thóp, mọi người vẫn mặc kệ, chỉ đứng nhìn, không hề ra tay cứu giúp. Trong việc làm ăn buôn bán cũng vậy. Biết cho hoá chất độc hại vào thực phẩm sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người khác, người ta vẫn làm, miễn là có lợi. Trong ngành du lịch, biết lừa người khác sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh thương hiệu và đất nước, người ta vẫn làm…
Đặc điểm thứ hai trong tính cách của phần lớn người Việt Nam hiện nay là giả dối. Trên trang blog và facebook của mình, giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, hiện sống tại Sydney, Úc, viết: “Thói giả dối ở Việt Nam lên ngôi và nó hiện diện hầu như trong tất cả giai tầng. Học sinh nói dối. Người lớn nói dối. Giới khoa bảng cũng nói dối. Càng học cao càng nói dối nhiều. Người làm chính trị đạo đức giả và nói dối. Giới kinh doanh gian dối. Học hành giả dối. Khoa học giả dối. Có thể nói không ngoa rằng xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội giả dối.” (Trích Những căn bệnh của Việt Nam)
Sự giả dối, ích kỷ và độc ác của con người dưới chế độ cộng sản đã được tạo thành do hai nguyên nhân:
- Bắt chước những “đức tính” của giai cấp lãnh đạo đảng.
- Những “đức tính” ấy giúp cho con người có cơ may tồn tại dưới một chế độ đàn áp và tước đoạt mọi tự do của người dân.
Và như vậy, người Việt Nam ngày nay, sau 70 năm (miền Bắc) và 40 năm (miền Nam) sống dưới chế độ nhân danh chủ nghĩa Mác-Lênin, đã không còn phải là người Việt Nam trước kia, kể cả thời Pháp thuộc, với nhân nghĩa lễ trí tín và thuần phong mỹ tục.
Cái hồn ấy chỉ còn lại rất ít trong 90 triệu dân Việt Nam hiện nay, và ngày càng ít hơn khi chế độ do bọn người độc ác, ích kỷ và lừa dối ngự trị càng kéo dài.
Ôi! Hồn Việt Nam bao giờ trở lại?
Ký Thiệt
No comments:
Post a Comment