Vị Hôn Phu, Vị Hôn Thế, Quí Vị
Đỗ Văn Phúc
Chữ Vị 未 trong Vị Hôn Thê, Vị Hôn Phu có nghĩa là ‘chưa’ để nói về người vợ hoặc chồng chưa cưới, chứ không hàm ý trang trọng như trong các chữ Vị 位 trong “vị sĩ quan, vị tướng lãnh, vị bộ trưởng...”
Chữ "vị hôn phu, vị hôn thê" là do sự ghép các chữ “vị hôn” + “ thê”, hay “vị hôn” + “phu”. Chứ không phải “vị” ghép với “hôn thê”, hay “hôn phu.”
Hai chữ "hôn thê, và hôn phu" là sự ghép chữ hoàn toàn sai. Đã là phu (chồng) hay thê (vợ) tất là đã cưới nhau rồi, còn thêm hôn làm gì? Chúng tôi không tìm thấy đâu trong Hán Văn hai chữ ghép Hôn Phu và Hôn Thê. Muốn nói bình thường thì: “Đây là vợ tôi, đây là chồng bà Loan.” Văn hoa, trang trọng hơn thì: “Đây là phu nhân ông Hùng, ngồi kia là phu quân chị Hồng.”
Người Trung Hoa khi nói về chồng thì dùng chữ: Lão Công 老公, Trượng Phu 丈夫, Tiên Sinh 先生; còn nói về vợ thì gọi là Lão Bà 老婆, Tức Phụ 媳妇, Thê Tử 妻子, Thái Thái 太太 , Phu Nhân 夫人; còn gọi chung cho cả chồng lẫn vợ thì dùng chữ Ái Nhân 爱人. Nên nhớ, Thê chỉ người vợ chính, vợ bé gọi là thiếp.
Có 4 chữ Hôn trong Hán tự viết khác nhau 昏 昬 婚 惛. Chữ Hôn 婚 theo nghĩa cưới vợ, do bộ Nữ ghép với chữ Hôn 昏 là tối (như hoàng hôn, hôn dạ, hôn quân).
Ngày xưa bên Trung Hoa, lễ cưới kéo dài đến tối nên họ gọi là "Hôn Lễ" 昏禮; sau này mới ghép thêm chữ Nữ vào nên chữ Hôn 婚 có nghĩa hẹp là cưới vợ (cầu hôn, kết hôn), nghĩa rộng là nàng dâu.
Vì thế, chỉ khi đàn ông đi lấy vợ mới gọi là “hôn” như kết hôn, tái hôn… Vợ chồng mới cưới gọi là “tân hôn,” trai mới lấy vợ gọi là “tân lang,” gái mới lấy chồng gọi là “tân giai nhân.” Xin phân biệt chữ “tân lang” 新郞 (trai mới lấy vợ) với “tân lang” 檳榔 là cây cau.
Chữ Tân trong Hán tự có nhiều nghĩa. Ngoài nghĩa thông thường “Tân” là mới (新) còn có một chữ “Tân” 賓 có nghĩa là “khách”
Vì thế câu “Phu phụ tuơng kính như tân” 夫 婦 相 敬 如 賓 có nghĩa là vợ chồng ăn ở nên kính nể nhau như đối với khách. Lời khuyên này là để tránh các vợ chồng lấy nhau lâu sinh ra xàm xỡ, không giữ gìn ý tứ, lời ăn tiếng nói hay cử chỉ trong đời sống lứa đôi để đi đến sự chán ghét nhau, coi thường, thậm chí thù oán nhau.
Hấp Hôn? Đùa thôi!
Chữ “hấp” này theo Hán tự có 4 chữ viết khác nhau nhưng nghĩa tương đồng trong đó các nghĩa chính là: 吸 hút vào (hô hấp, hô là thở ra), 翕 thu liễm, hợp nhau.
Chữ Hấp trong tiếng Việt thì có nghĩa "để một vật đang nóng, đậy lại. Ví dụ: hấp bánh, hấp trứng vào nồi cơm và một số nghĩa khác. Do đó, việc đặt ra chữ "hấp hôn" là sai, chỉ có tính cách đùa giỡn chứ không chính đáng.
Quí Vị
Ngoài chữ Vị là chưa, còn một chữ Vị khác để nói sự kính trong như trong chữ Quí vị.
Vị 位: như tước vị, địa vị, chư vị, các vị... dùng để nói đến người đáng kính.
Quý 貴 là tĩnh từ, chỉ về sự sang, trọng, quý hiển, cũng có nghĩa đắt (expensive, valuable).
Các thí dụ về chữ quý này: Quý tướng, quý nhân, quý hữu, quý khách, quý danh, quý tánh, quý chức, quý nương, quý quyến, quý thể, quý quốc, quý quán, quý tử, quý thể, quý vị…
Như vậy, quí vị là một đại danh từ để gọi một hay nhiều người đáng kính, cao sang.
Ngoại lệ: Trong khi hai chữ “quý tử” là đứa con quý được cưng thì hai danh từ kép “quý nam, quý nữ” lại có nghĩa là con trai út và con gái út. Quý thích là họ ngoại của vua; quý phi là vợ thứ của vua.
Có vài quí vị cho rằng chữ “quý” trong chữ quý vị có nghĩa là số nhiều và không thể dùng gọi một cá nhân được.
Đó là do một đột điều rất thông hường là chúng ta từng nghe quen hai chữ “quý vị” trong những lời thưa gửi, giới thiệu tại các sinh hoạt lớn, những buổi họp “Kính thưa quý vị; kính chào quý vị,” và gần như mọi người đều nghĩ nhập tâm rằng chữ “quý vị” là để chỉ số nhiều chứ không phải chỉ dành cho một cá nhân, một đối tượng nào…
Chúng tôi đã tham khảo trong hơn nửa tá các tự điển: Hán Việt Tự Điển của Huỳnh Minh Xuân (trang 662), Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh (trang 613-614), Tự Điển Thiều Chửu, Việt Nam Tự Điển của hai ông Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (trang 1209), Việt Nam Tự Điển của Tín Đức Thư Xã (trang 459).
Trong các tự điển nói trên, chữ “quý” có nhiều nghĩa mà nghĩa nổi bất nhất là “Giá cao, sang trọng, xem làm trọng, lời tôn trọng người khác.” Cũng trong Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức (trang 1209), có ghi chữ “quý vị” được dùng là đại danh từ để gọi một hay nhiều người như chúng ta thường nghe. Như thế, nếu có nói “tôi đã tiếp xúc một quý bà trong sở Thuế Vụ, ông ta được nhiều quý nhân phù trợ, xin chào các quý vị, các quý tử nhà tôi chăm học…” thì cũng không có gì là sai cả.
Những điểm vừa nêu ra chứng minh rằng chữ “Quý” mang nghĩa quý trọng mà hoàn toàn không chỉ định nó dùng cho số nhiều như vài vị lầm tưởng.
No comments:
Post a Comment